Thứ Tư, 4 tháng 1, 2023

Gió Bốn Phương (tập Hai): CHUẨN ĐỀ

 

CHUẨN ĐỀ

Trong sách Hồi Dương Nhân Quả có chép lời vị Phán Quan khuyên hồn họ Dư như sau: Ngươi phải hiểu nghĩa hai chữ Chuẩn Ðề. Đạo đệ xin hỏi: Chuẩn Đề nghĩa là gì? Hiền hữu Đặng Thiên Ân (San Martin, Calif.). Điện thư ngày 08-12-2022.

HK phúc đáp:

1/ Trong cuốn Di Lạc Chơn Kinh Sơ Giải / Preliminary Explanation of Maitreya True sutra, Huệ Khải và Lê Anh Minh biên soạn (Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2020; quyển 132-1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo), ở trang 69, có giải thích như sau:

Chuẩn Ðề Bồ Tát 準提菩薩 (Cundi, the Female Bodhisattva with eighteen arms): Vị Nữ Bồ Tát mười tám tay. Chuẩn Đề nghĩa là thanh tịnh.

Tham khảo: Từ Điển Phật Học Huệ Quang, tập I, tr. 962. https://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=7EE241



2/ Đính kèm theo đây là tranh vẽ nữ Bồ Tát Chuẩn Đề mười tám tay (Chuẩn Đề Bồ Tát thập bát tý 準提菩薩十八臂). Ngoài hai bàn tay bắt ấn thuyết pháp, và bàn tay bắt ấn thí vô úy, còn lại mười lăm bàn tay cầm mười lăm món khác nhau (gọi là “pháp khí” 法器: dharma tools). Cụ thể như sau:

1. Bắt ấn thuyết pháp: Kết thuyết pháp ấn. 說法印. Hai bàn tay trái và phi bt n thuyết pháp để hóa đ chúng sinh (tức thuyết pháp li sinh 說法利生).

2. Bắt ấn ban cho lòng không sợ hãi: Kết thí vô úy ấn. 結施 無畏印.

3. Cầm kiếm trí huệ hàng phục ma chướng, phá trừ phiền não: Trì trí huệ kiếm hàng phục ma chướng, phá trừ phiền não. 持智慧劍降伏魔障, 破除煩惱.

4. Cầm xâu chuỗi: Trì sổ châu (niệm châu). 持數珠[念珠]. Mỗi khi lần một hạt châu là đoạn dứt nguyên nhân sinh ra một phiền não. (Mỗi chuyển nhất châu, đoạn trừ nhất phiền não đích duyên cố. 每轉一珠, 斷除一煩惱的緣故.)

5. Cầm quả cát tường (tốt lành): Trì cát tường quả. 持吉祥 . Có thuyết nói là trái lựu (thch lu 石榴: pomegranate). Trái lựu có nhiều hột; tượng trưng những hạt giống lành (chủng tử 種子) được Bồ Tát gieo vào mảnh tâm điền của chúng sinh.

6. Cầm búa để phá tan tất cả vô minh và chướng ngại: Trì việt phủ dĩ tồi phá nhất thiết vô minh dữ chướng ngại. 持鉞斧 以摧破一切無明與障礙.

7. Cầm móc câu để dẫn dắt (lôi kéo) chúng sinh vào cõi pháp: Trì câu dĩ câu triệu chúng sinh nhập pháp giới. 持鉤以 鉤召眾生入法界.

8. Cầm chày kim cương ba đoạn để phá tam độc (tham, sân, si): Trì tam cổ kim cương xử dĩ phá tam độc. 持三股金剛 杵以破三毒.

9. Cầm vòng hoa báu cài đầu biểu thị sự trang nghiêm của vạn đức: Trì bảo man biểu thị vạn đức trang nghiêm. 持寶鬘 表示萬德莊嚴.

10. Cầm lọng báu như ý: Trì như ý bảo tràng 持如意寶幢 (để đáp ứng nguyện vọng của chúng sinh).

11. Cầm bông sen đỏ: Trì hồng liên hoa. 持紅蓮花. Hoa sen biểu thị tự tánh thanh tĩnh. (Liên hoa biểu thị thanh tĩnh tự tánh. 蓮花表示清淨自性.)

12. Cầm bình nước: Trì thủy bình. 持水瓶. Nước là tánh của Đạo, bớt chỗ dư mà bù chỗ thiếu, giúp cho cân bằng (bình đẳng). Nước có thể tẩy rửa; cũng vậy, chánh pháp có thể gột rửa cho chúng sinh hết ô nhiễm và được thuần khiết.

13. Cầm dây lụa hàng phục ác ma: Trì quyên tác hàng phục ác ma. 指絹索降伏惡魔.

14. Cầm bánh xe pháp: Trì pháp luân. 持法輪. Pháp luân có ba nghĩa: a/ Bánh xe có thể nghiền nát các chướng ngại khi nó lăn qua; cũng vậy, chánh pháp có thể tiêu trừ tội lỗi của chúng sinh. b/ Bánh xe có thể lăn đi khắp nơi; cũng vậy, chánh pháp có thể quảng truyền rộng rãi. c/ Bánh xe tròn trịa; cũng vậy, chánh pháp thì viên mãn, đủ đầy.

15. Cầm loa (tù và) bằng vỏ ốc: Trì pháp loa. 持法螺. (Để lời thuyết pháp được vang xa và rõ tiếng.)

16. Cầm hiền bình (có nước cam lộ): Trì hiền bình (hữu cam lộ thủy). 持賢瓶 [有甘露水].

17. Cầm tráp bát nhã: Trì bát nhã khuông 持般若筐. Người tu đu nh trí hu bát nhã mà thành tu vô thượng chánh đng chánh giác 無上正等正覺 (thành Phật).

*

 

Thứ Ba, 3 tháng 1, 2023

GIÓ BỐN PHƯƠNG (tập Hai): NỘI QUÁN KỲ TÂM

 NỘI QUÁN KỲ TÂM

Đàn cơ tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam vào giờ Tuất, ngày 15-6 Bính Thìn (11-7-1976), Đức Đông Phương Lão Tổ dạy: Hãy nhớ câu: Nội quán kỳ tâm, tâm vô kỳ tâm. Ngoại quán kỳ thân, thân vô kỳ thân. Viễn quán kỳ vật, vật vô kỳ vật. Không vô sở không, vô vô diệc vô. Kính nhờ Gió Bốn Phương giải hộ. Đạo hữu Lê Thị Ngọc Vân (hỏi qua FB, ngày 24-12-2022).

HK phúc đáp:

1. Bốn câu này viết chữ Nho như sau: 內 觀 其 心, 心 無 其 心. 外 觀 其 身, 身 無 其 身. 遠 觀 其 物, 物 無 其 物. 空 無 所 空, 無 無 亦 無. Có vài chữ cần giải thích cho dễ hiểu. (Tôi thêm tiếng Anh để quý bạn biết tiếng Anh khỏi rối rắm vì các từ Hán-Việt đồng âm khác nghĩa.)

1.1. Nói “Nội quán kỳ tâm” thì “kỳ tâm” là tâm của mình (one’s mind). Nói tâm vô kỳ tâm thì “kỳ tâm” là tâm của nó (its mind), và “nó” đây là “tâm”. “Vô” là động từ, nghĩa là chẳng có (not having; lacking).

1.2. Nói “Ngoại quán kỳ thân” thì “kỳ thân” là thân của mình (one’s body). Nói “thân vô kỳ thân” thì “kỳ thân” là thân của nó (its body), và “nó” đây là “thân”. “Vô” là động từ, nghĩa là chẳng có (not having; lacking).

1.3. Nói “Viễn quán kỳ vật” thì “kỳ vật” là các vật của nó (its things), và “nó” đây là ngoại giới (the external world). Nói “vật vô kỳ vật” thì “kỳ vật” là các vật của chúng (their things), và “chúng” đây là các vật của ngoại giới. “Vô” là động từ, nghĩa là chẳng có (not having; lacking).

1.4. Nói “Không vô sở không” thì chữ “không” đầu tiên là danh từ, nghĩa là “trống không; rỗng rang” (emptiness), có thể dịch là “cái-không”. Chữ “vô” là động từ, nghĩa là chẳng có (not having; lacking). “Sở không” có nghĩa “cái-vốn-là-không” (that which is empty).

1.5. Nói “Vô vô diệc vô” thì chữ “vô” thứ nhất và chữ “vô” thứ ba đều là động từ, nghĩa là chẳng có (not having; lacking). Chữ “vô” thứ hai là danh từ, nghĩa là “cái-chẳng-có” (not-havingness). “Diệc” là trạng từ, nghĩa là “cũng” (also; too).

2. Bốn câu chữ Nho này nói về một người tu luyện (hành giả) đạt được thanh tĩnh (thanh tịnh) vì không còn bị lục dục thất tình và tam độc (tham, sân, si) chi phối, quấy nhiễu nữa. Nhờ thế, người ấy có thể xem xét và thấy được như sau:

2.1. Nội quán kỳ tâm, tâm vô kỳ tâm. (Nhìn vào trong mà xét tâm của mình, thì thấy tâm mình không có tâm. / When observing inward onto his mind, he finds his mind mindless.) Đạo gia bàn rằng niệm (thinking) do tâm sanh; nay tâm không có thì niệm không sanh, thế là vô niệm.

2.2. Ngoại quán kỳ thân, thân vô kỳ thân. (Nhìn bên ngoài mà xét thân của mình, thì thấy thân mình không có thân. / When observing outward onto his body, he finds his body bodiless.) Đạo gia bàn rằng bởi thấy có thân mà chấp ngã, vị ngã (vì mình), ôm chặt cái ta (cái tôi; bản ngã: ego); nay không thấy có thân thì đạt được vong ngã, vô ngã.

2.3. Viễn quán kỳ vật, vật vô kỳ vật. (Nhìn xa mà xét các vật của ngoại giới, thì thấy vật chẳng có vật. / When distantly observing external things, he finds them non-existent.) Đạo gia bàn rằng khi thấy vạn vật đều chẳng có thì té ra thế gian muôn màu muôn vẻ, thiên hình vạn trạng rốt lại đều hư ảo, huyễn hoặc; nếu thế thì còn miệt mài đeo bám, bấu víu những cái giả dối ấy làm chi nữa.

2.4. Không vô sở không, vô vô diệc vô. (Cái-không chẳng có cái-vốn-là-không; chẳng có cái-chẳng-có cũng chẳng có. / Emptiness lacks that which is empty; lacking not-havingness does not exist, too.) Đạo gia bàn rằng nói cái-không và cái-chẳng-có (cái-vô) đều chẳng có là để giúp người tu luyện (hành giả) khỏi chấp không hay chấp vô, vì nếu thoát khỏi chấp hữu (như ba câu 2.1; 2.2; 2.3) mà lại vướng víu vào chấp không hay chấp vô thì khác chi lời dân gian vẫn bảo: Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa; chạy ô mồ mắc ô mả.

3. XUẤT XỨ: Câu Nội quán kỳ tâm, tâm vô kỳ tâm. Ngoại quán kỳ thân, thân vô kỳ thân. Viễn quán kỳ vật, vật vô kỳ vật. Không vô sở không, vô vô diệc vô. vốn được Đức Đông Phương Lão Tổ trích dẫn từ Thanh Tĩnh Kinh 清靜經và Ngài đổi chữ “hình” trong kinh thành chữ “thân” . Nguyên văn trong Thanh Tĩnh Kinh như sau (trích):

(...) 能 遣 之 者, 內 觀 其 心, 心 無 其 心; 外 觀 其 形, 形 無 其 形; 遠 觀 其 物, 物 無 其 物. 三 者 既 無, 唯 見 於 空.

觀 空 亦 空, 空 無 所 空. 所 空 既 無, 無 無 亦 無.

(...) Năng khiển chi giả, nội quán kỳ tâm, tâm vô kỳ tâm; ngoại quán kỳ hình, hình vô kỳ hình; viễn quán kỳ vật, vật vô kỳ vật. Tam giả ký vô, duy kiến ư không.

Quán không diệc không, không vô sở không. Sở không ký vô, vô vô diệc vô.

Quý đạo hữu có thể tham khảo bản dịch và chú Thanh Tĩnh Kinh của Lê Anh Minh trong: Triết Giáo Hợp Tuyển (Hà Nội: Nxb Hồng Đức 2022, tr. 237-244); quyển 146-1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.

*

Chủ Nhật, 1 tháng 1, 2023

Gió Bốn Phương (tập Hai): TIÊN THIÊN NHI THIÊN PHẤT VI

TIÊN THIÊN NHI THIÊN PHẤT VI

Trong Thánh Giáo Sưu Tập Ất Mão Bính Thìn 1975-1976 do Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo ấn tống (Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2021), trang 160 in lời Đức Đông Phương Chưởng Quản (thánh giáo ngày 27-12-1976) dạy như sau:

Đức Khổng Tử có lời rằng: “Tiên thiên nhi Thiên phất vi, thiên thả phất vi, huống ư nhơn hồ, ư quỷ thần hồ”, nên dụng tâm thanh tịnh khởi mạch sống khí Tiên Thiên là quan trọng đối với tịnh viên là vậy.

Xin hỏi: Câu chữ Hán-Việt trong dấu ngoặc kép nghĩa là gì? Hiền hữu Đặng Thiên Ân (San Martin, Calif.), điện thư 01-01-2023.

HK phúc đáp:

1. Câu chữ Hán-Việt đã dẫn trích trong “Văn Ngôn” quẻ Càn, hào dương thứ năm (cửu ngũ). Chỉ có ở hai quẻ Càn và Khôn, “Văn Ngôn” là lời Đức Khổng Tử bình giải Thoán và sáu hào của quẻ Càn, quẻ Khôn cho thêm rõ ràng hơn. “Văn Ngôn” là “Dực” (cánh) thứ bảy trong “Thập Dực” (Mười Cánh) do Đức Khổng Tử soạn để bổ sung cho Kinh Dịch. Vì vậy, trong thánh giáo đã dẫn, thay vì nhắc tới “Văn Ngôn” quẻ Càn thì Đức Đông Phương Chưởng Quản dạy là Đức Khổng Tử có lời rằng”.

2. Trong đoạn thánh giáo đã dẫn, có lẽ là do sao chép bị sót, nên bản sách in thiếu mất sáu chữ “hậu Thiên nhi phụng Thiên thời”. Ngoài ra, người sao chép đã viết hoa và chấm câu không hợp lý; lẽ ra là:

Đức Khổng Tử có lời rằng: Tiên Thiên nhi Thiên phất vi, hậu Thiên nhi phụng Thiên thời, Thiên thả phất vi, nhi huống ư nhân hồ? huống ư quỷ thần hồ?” Nên dụng tâm thanh tịnh khởi mạch sống khí tiên thiên là quan trọng đối với tịnh viên là vậy.

Chữ “nên” trong câu có nghĩa là “thế nên; cho nên; bởi thế nên” (therefore; thus; hence).

3. Nguyên văn trong Kinh Dịch như sau:

夫 大 人 者, 與 天 地 合 其 德, 與 日 月 合 其 明, 與 四 時 合 序, 與 鬼 神 合 其 吉 凶. 先 天 而 天 弗 違, 後 天 而 奉 天 時. 天 且 弗 違, 而 況 於 人 乎? 況 於 鬼 神 乎?

3.1. Dịch âm:

Phù đại nhân giả, dữ thiên địa hợp kỳ đức, dữ nhật nguyệt hợp kỳ minh, dữ tứ thời hợp kỳ tự, dữ quỷ thần hợp kỳ cát hung. Tiên Thiên nhi Thiên phất vi, hậu Thiên nhi phụng Thiên thời. Thiên thả phất vi, nhi huống ư nhân hồ? huống ư quỷ thần hồ?

3.2. James Legge (1815-1897) dịch ra tiếng Anh như sau:

The great man is he who is in harmony, in his attributes, with heaven and earth; in his brightness, with the sun and moon; in his orderly procedure, with the four seasons; and in his relation to what is fortunate and what is calamitous, in harmony with the spirit-like operations (of Providence). He may precede Heaven, and Heaven will not act in opposition to him; he may follow Heaven, but will act (only) as Heaven at the time would do. If Heaven will not act in opposition to him, how much less will men! how much less will the spirit-like operation (of Providence)!

3.3. Bản tiếng Đức của Richard Wilhelm (1873-1930) được dịch ra tiếng Anh như sau:

The great man accords in his character with heaven and earth; in his light, with the sun and moon; in his consistency, with the four seasons; in the good and evil fortune that he creates, with gods and spirits. When he acts in advance of heaven, heaven does not contradict him. When he follows heaven, he adapts himself to the time of heaven. If heaven itself does not resist him, how much less do men, gods, and spirits!

3.4. Vậy, có thể dịch ra tiếng Việt như sau:

Bậc đại nhân hòa hợp đức tánh của mình cùng với trời đất, hòa hợp sự sáng của mình cùng với mặt trời và mặt trăng, hòa hợp trật tự làm việc của mình cùng với bốn mùa, hòa hợp vận may rủi (tốt xấu) của mình cùng với quỷ thần (các đấng thiêng liêng vô hình). [Bậc đại nhân] hành động trước Trời mà Trời không đối nghịch lại; đi sau Trời mà vâng theo thời cơ của Trời (Thiên cơ). Trời mà chẳng đối nghịch lại, thì còn nói gì tới người? còn nói gì tới quỷ thần nữa?

4. Ghi chú:

4.1. “Phù” là trợ từ đặt đầu câu, mở đầu một ý kiến (initial particle, used to introduce an opinion). Tiếng Việt dịch là “ôi”, hoặc bỏ đi, không dịch.

4.2. “Đại nhân” 大人 đây là “người lớn” (great man), tức Thánh Nhân; không phải là người có lòng rất nhân từ 大仁 (man of great benevolence).

4.3. “Dữ” là cùng với (together with).

4.4. “Tự” là thứ tự, trình tự trước sau (order; sequence).

4.5. “Phất vi” 弗違 là không làm trái ngược lại, không kình chống lại (not going against).

5. Cụ Sào Nam Phan Bội Châu (1867-1940) giảng rộng nghĩa đoạn Văn Ngôn của hào cửu ngũ quẻ Càn như sau (Chu Dịch, quyển Thượng. Sài Gòn: nhà sách Khai Trí, 1969, tr. 94):

Bây giờ lại hình dung cho tường tận đức của đại nhân. Hễ gọi một bậc đại nhân, tất có đức lớn như trời đất, không chốn nào không che, không vật nào không chở. Có đức sáng suốt như mặt trời mặt trăng, không chốn nào vật nào mà không soi dọi đến nơi. Có trí khôn sắp xếp mỗi việc, tầng thứ trước sau, đúng như thì [thời] tiết bốn mùa. Có tính khôn thiêng biết được việc lành việc dữ in như quỷ thần. Gặp việc gì ý Trời muốn làm, đón trước được ý Trời mà làm thì Trời phải nghe theo; thấy được việc gì ý Trời đã rõ rệt, làm theo sau Trời, mà quả nhiên như Trời làm. Thế là đại nhân. Đại nhân tức là Thiên nên Thiên phải nghe theo. Trời hãy còn nghe theo, mà huống gì người nữa ư.

6. Văn Ngôn quẻ Càn, hào năm, được bác sĩ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ (1921-2014) dịch thành lục bát “bay bướm” như sau:

Đại nhân đức hạnh bao la,

Như trời như đất cao xa muôn trùng.

Sáng như nhật nguyệt hai vừng,

Sống đời tiết tấu, hợp khung bốn mùa.

Những điều lành dữ, ghét ưa,

Quỷ thần đường lối đem so khác nào.

Trước Trời, Trời chẳng trách đâu,

Sau Trời, cho hợp cơ mầu thời gian.

7. Trong đàn cơ tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam vào giờ Hợi, ngày 07-11 Bính Thìn (Thứ Hai 27-12-1976), khi dẫn lại câu “Tiên Thiên nhi Thiên phất vi ...Đức Đông Phương Chưởng Quản nhắc nhở các tịnh viên (người tu tịnh) hãy giữ lòng thanh tĩnh 清静 (peaceful and quiet; ta hay nói là “thanh tịnh”) để phát khởi (starting up) mạch sống khí Tiên Thiên”, và theo Ngài đây mới là chỗ quan trọng đối với tịnh viên.

Tuy nhiên, đoạn thánh giáo này không hề dễ hiểu. Bởi vậy, tại Vĩnh Nguyên Tự, trong đàn cơ vào giờ Tuất, ngày 11-11 Bính Thìn (Thứ Sáu 31-12-1976), Đức Vô Cực Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu giảng giải tôn ý của Đức Đông Phương Chưởng Quản như sau:

Này con, tự tánh (a) vốn là Thiên mạng chi tánh,(b) mà con phải nhận được tự tánh mới đúng đạo. Con biết Đạo thì con không thể biết được tiên thiên, bằng (c) con không biết Đạo lại càng không biết tiên thiên nữa, con à! Hãy lấy nghĩa giản dị mà hiểu đi con.

Ý Đông Phương Lão Tổ bảo các con đọc lại lời Khổng Tử là các con chưa thanh tịnh, chưa phục (d) được tiên thiên chánh khí, nên tất cả những gì ngoại cảnh đều chi phối lòng con, hoặc nội tâm thiền mà tự tánh chưa thiền [thì] làm sao chế ngự mọi sóng gió biến động bên ngoài? (e) Bằng các con biết làm sống lại tiên thiên chánh khí chính là chỗ vô vi thanh tịnh, con mới nhận thấy được nhứt chơn pháp giới (f) để chế ngự tất cả tình thức (g) quấy nhiễu bên con.

Con chế ngự được con thì mọi người đều trông vào con để tu học, nhìn vào con để tiến bước. Người đã kính phục con thì quỷ thần nào dám trái lại. Phương chi (h) đức trọng quỷ thần còn kinh sợ, huống hồ gì tiên thiên chánh khí là khí tạo nên Thái Nhất chi sơ.(i) Người tu hành không đạt được chánh khí đó thì còn luân hồi sanh tử. Dầu là Đại Tiên, Kim Tiên nhưng chỉ ở vào một thế giới nào đó để hưởng thọ đến mãn căn cũng trở lại mà tu luyện nữa. Con hiểu chăng?

* Ghi chú:

(a) Tự tánh 自性 (own nature; self-nature): Bản tánh vốn có của mình.

(b) Thiên mạng chi tánh 命之性 (the nature conferred by Heaven): Tánh do Trời phú bẩm cho. Trung Dung (Chương 1): “Thiên mạng chi vị tánh” 天命 之謂性. (Cái Trời phú bẩm cho được gọi là tánh.) James Legge dịch: “What Heaven has conferred is called the nature.”

(c) Bằng (if; in case that): Nhược bằng; nếu như; nếu.

(d) Phục (recovering; restoring; resuming): Phục hồi; lấy lại.

(e) Phúc Âm (Mác-cô 4:35-40) chép việc Chúa Giê-su “quở” cho sóng gió trên biển Ga-li-lê phải lặng yên là một ẩn dụ (metaphor) ngầm nói đến cái lý đạo huyền nhiệm “chế ngự mọi sóng gió biến động bên ngoài” như lời Đức Mẹ dạy.

(f) Nhứt chơn pháp giới 一真法界 (the one true dharma realm): Cái “cõi” (realm) từ xưa đến nay vốn không sinh không diệt, chẳng không chẳng có, không danh không tướng (neither name nor form), không trong không ngoài, chỉ có một chơn thật chẳng thể nghĩ bàn.

(g) Tình thức 情識: Một cách dè dặt, xin tạm hiểu “tình tức” là cái biết, sự nhận thức chịu tác động của tình cảm phàm phu chi phối; do đó mà có khen chê, yêu ghét, phân biệt. Do có tình thức mà con người phàm phu có chấp ngã, chấp tướng. Cũng do bị “tình thức quấy nhiễu” (lời Đức Mẹ, thánh giáo dẫn trên) mà con người phàm phu chịu phiền não, mất thanh tĩnh (thanh tịnh).

(h) Phương chi (let alone; much less; still less; to say nothing of): Huống chi; hà huống 何況; còn nói chi tới.

(i) Thái Nhất chi sơ 太一之初: “Thái Nhất” hay “Thái Ất” 太乙 cũng là: Đạo; bản thể 本體; bổn nguyên của vũ trụ vạn vật (vũ trụ vạn vật đích bổn nguyên 宇宙萬物的本原); khí hỗn độn (hỗn độn chi khí 混沌之氣), v.v... “Thái Nhất chi sơ” là chỗ ban sơ (beginning) của Thái Nhất.

*