Thứ Bảy, 18 tháng 5, 2019

THƯ VIỆN LIÊN HOA CỬU CUNG



THƯ VIỆN LIÊN HOA CỬU CUNG
THIÊN ĐẠO HỌC ĐƯỜNG
Thứ Năm, ngày 09-5-2019, Chánh Hội Trưởng Thiện Quán Quân thay mặt Ban Cai Quản Liên Hoa Cửu Cung – Thiên Đạo Học Đường (119 quốc lộ 1K, khu phố 2, phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, Tp.HCM) gởi văn thư đến Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo với mỹ ý mong nhận được các kinh sách đã xuất bản. Văn thư cho biết (trích):
Chương Trình Chung Tay ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo hoạt động từ năm 2008 đến nay đã cho ra đời rất nhiều kinh sách, giúp cho người tín hữu Cao Đài được học tập, tìm hiểu về thánh ngôn, thánh giáo; các bài viết sâu sắc nhằm bồi dưỡng kiến thức giáo lý, làm sáng hơn đức tin với Thầy với Đạo.
Trong thời gian qua Liên Hoa Cửu Cung đã nhận được rất nhiều ấn phẩm của Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo và được sự tiếp nhận, ủng hộ của đông đảo tín đồ.
Nhận thấy vai trò quan trọng của việc học tập giáo lý trên đường tu học, đầu năm Kỷ Hợi (2019), Ban Cai Quản Liên Hoa Cửu Cung cho xây dựng một Thư Viện mới, khang trang nhằm tạo điều kiện cho người tín đồ và tu sĩ được học tập tốt hơn. Nhưng hiện nay nguồn kinh sách còn khá hạn chế về số lượng, nên chúng tôi với thư ngỏ này gửi đến Ban Ấn Tống, kính mong được sự hộ trợ của quý vị để Thư Viện Liên Hoa Cửu Cung nhận thêm được nhiều ấn phẩm kinh sách của Chương Trình, làm phong phú nguồn tài liệu trong việc học tập và truyền bá giáo lý Đạo Thầy.
Ban Ấn Tống rất hoan hỷ được xem một vài ảnh chụp gởi kèm theo văn thư của Ban Cai Quản Liên Hoa Cửu Cung – Thiên Đạo Học Đường. Bước đầu vừa mới gầy dựng, dĩ nhiên nguồn kinh sách của Thư Viện hãy còn ít, nhưng chúng ta có thể tin tưởng rằng với thiện chí và nhiệt tâm của Ban Cai Quản cùng với đông đảo tín hữu họ đạo, Thư Viện này sẽ sớm phát triển về nhiều mặt.
Có lẽ không sai nếu nói rằng ở rất nhiều họ đạo Cao Đài bấy lâu nay thường không được điều kiện thuận lợi để lập tủ kinh sách, phòng đọc kinh sách. Thế mà Liên Hoa Cửu Cung – Thiên Đạo Học Đường lại có thể dành được một diện tích rộng rãi để lập thành Thư Viện thì việc làm này quả thật rất có ý nghĩa, rất nên tán thán và ủng hộ.
Bởi vậy, trước tiên Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo đã gởi biếu Thư Viện một số lớn kinh sách hiện còn lưu trữ. Từ nay trở đi, mỗi khi ấn tống thêm đầu sách nào mới, Ban Ấn Tống lại chủ động gởi biếu Thư Viện.

Thứ Năm, 9 tháng 5, 2019

BỮA TIỆC, GIAO ƯỚC, GIÁO HỮU


BỔ DI BA THUẬT NGỮ ĐẠO CHÚA TRONG ĐẠO CAO ĐÀI:
BỮA TIỆC, GIAO ƯỚC, GIÁO HỮU
HUỆ KHẢI
1. BỮA TIỆC - feast, banquet (宴席: yến tịch)
Bữa tic là lúc con người gác li mi vic bận rộn để cùng ngi bên nhau, vui v ăn ung vi nhau, san sẻ tình cảm.
A. Cựu Ước nói tới sự hip thông, gn bó giữa Thiên Chúa và con người qua hình nh ba tic. Như Isaia 25:6 diễn tả:
Trên núi này, Đức Chúa Toàn Năng sẽ dọn cho muôn dân một bữa tiệc thịnh soạn, một bữa tiệc có rượu lâu năm, có các thứ thịt ngon nhất và các loại rượu tốt nhất.([1])
Đó là bữa tic ca ngày sau rốt (cánh chung 竟終), là ngày con người được hưởng ơn cứu độ trọn vẹn đủ đầy. Kể từ ngày đó trở đi, con người được sng vui, hưởng hnh phúc và an bình mãi mãi trong Thiên Chúa.
A.1. Nước Thiên Chúa (Nước Trời) thường được ví như một bữa tiệc, và Chúa Giêsu mời mọi người hãy đến dự tiệc với Chúa, nhưng phần lớn người đời lại chối từ, vì họ không biết điều này:
Phúc thay ai được d tic trong Nước Thiên Chúa! (Luca 14:15)
A.2. Theo Tân Ước, Nước Trời còn được ví với bữa tic cưới (wedding banquet - 婚宴: hôn yến). Chẳng hạn:
Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: “Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tic cưới cho con mình. (Mátthêu 22:1-2)
A.3. Mặc dù được chủ tiệc thỉnh mời trân trọng, rất nhiều người đã từ chối đến dự tiệc cưới, tức là họ từ khước để chân bước vào Nước Trời:
Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến d tic, nhưng họ không chịu đến. (Mátthêu 22:3)


B. Trong thánh giáo Cao Đài, bữa tiệc vừa mang ý nghĩa con người được hiệp một với Thượng Đế (Thiên nhân hiệp nhất : the oneness of Heaven and humanity), vừa có nghĩa là phần thưởng Trời ban cho người đã chu toàn sứ mạng Trời giao phó trong công cuộc cứu độ Kỳ Ba.
B.1. Phần thưởng này Trời dành cho người biết gánh vác việc của Trời, xem việc của Trời là việc của mình, nên đã thay Trời giáo hóa chúng dân tu hành (thế Thiên hành hóa 替天行化 : on behalf of Heaven teaching people the way of self-cultivation). Ai có được phần thưởng này, được dành cho một cái ghế (một chỗ ngồi) ở bàn tiệc ấy, tức là có một vinh dự (danh dự) không gì sánh được.
Tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 16-01 Kỷ Hợi (Thứ Hai 23-02-1959), Đức Đông Phương Lão Tổ dạy:
Nên loài người muốn được dưới sự che chở của bàn tay quyền năng là phải lập giao ước cùng Trời, làm cho Trời người trở nên đồng nhất.([2]) Đã đồng nhất thì việc của Trời làm hôm nay là việc của người. Người phải thấy cái trọng trách sứ mạng ở nơi mình. Mình với Trời cùng một chương trình cải tạo thế gian. Nhận thức được điều ấy, thấy rõ một tương lai sứ mạng mà gắng lòng lo tu, để lòng thờ kỉnh. Đã được danh dự đứng trong hàng ngũ về phía của Thầy [Đức Thượng Đế, Cha Trời], cùng trong một bữa tic, được dự vào những ghế mà Đức Cha Trời dành cho, thì không phải ân phước sao được trở nên danh dự đó? (TTTH 2017, tr. 690a-b)
B.2. Trong Tân Ước, Đức Giêsu dùng hình ảnh tiệc cưới làm dụ ngôn nói về Nước Trời (Mátthêu 22:1-2). Trong thánh giáo Cao Đài, Đức Chí Tôn mượn hình ảnh tic xuân (spring banquet - 春宴: xuân yến) để nói tới phần thưởng ban ơn cho những người biết thay Trời làm việc của Trời.
Tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 01-01 Bính Thân (Chủ Nhật 12-02-1956), Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế (Thầy) dạy:
Tic xuân dọn mời con ngồi lại
Rót chung trà Thầy đãi các con
Hôm nay kẻ mất người còn
Đều là phận sự vẹn tròn Thầy khen.
(TTTH 2017, tr. 311a)
2. GIAO ƯỚC - testament, covenant, contract, agreement (交約: giao ước; : minh ước)
Giao là quan hệ qua lại giữa hai bên. Ước là những quy định về quyền lợi và trách nhiệm để hai bên căn cứ theo đó mà thực hiện.
A. Kinh Thánh đạo Chúa gồm hai phần là Cựu Ước (the Old Testament) và Tân Ước (the New Testament).
Cựu Ước nghĩa là “giao ước cũ”, được Đức Chúa Trời thiết lập với riêng dân Do Thái trên núi Sinai qua trung gian Thánh Môsê, như chép trong Xuất Hành (Exodus 24:4-8).
Tân Ước nghĩa là “giao ước mới”, được Chúa Giêsu thiết lập trong Bữa Tiệc Ly (the Last Supper) và trên Thập Giá, qua việc Chúa đổ máu để giao hòa loài người với Thiên Chúa và cứu thoát loài người khỏi sự dữ và cái chết.
Giao ước được nói tới trong Phúc Âm như sau (trích một số trường hợp):
A.1. Cũng trong bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy.” Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu giao ước, đổ ra cho muôn người được tha tội. (Mátthêu 26:26-28)


A.2. Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy.” Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: “Đây là máu Thầy, máu giao ước, đổ ra vì muôn người. (Máccô 14:22-24)
A.3. Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.” Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.” (Luca 22:19-20)
A.4. Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: “Đây là chén máu Thầy, máu đổ ra để lập giao ước mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.” (1 Côrintô 11:25)
A.5. Nhưng hiện nay, Đức Giê-su được một tác vụ cao trọng hơn, bởi vì Người là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn; giao ước này căn cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn. Thật vậy, giả như giao ước thứ nhất đã hoàn hảo rồi, thì chẳng cần phải tìm giao ước thứ hai để thay thế. (Do Thái 8:6-7)
A.6. Khi Thiên Chúa nói đến giao ước mới, Người làm cho giao ước thứ nhất hóa ra giao ước cũ; và cái gì cũ kỹ, lỗi thời, thì sắp tan biến đi. (Do Thái 8:13)
A.7. Bởi vậy, Người là trung gian của một giao ước mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa. (Do Thái 9:15)
A.8. Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện. Anh em đã tới cùng vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giêsu và được máu của Người rảy xuống (…). (Do Thái 12:23-24)
A.9. Đức Giêsu là vị Mục Tử cao cả của đoàn chiên, là Đấng đã đổ máu mình ra để thiết lập giao ước vĩnh cửu. (Do Thái 13:20)
B. Trong thánh giáo Cao Đài, giao ước giữa người và Trời, giữa người và các Đấng thiêng liêng, được nói tới như sau:
B.1. Tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 12-01 Kỷ Hợi (Thứ Năm 19-02-1959), Đức Thái Bạch Kim Tinh dạy các vị nam nữ Lễ Sanh:
Giờ nầy, trước một sự thiêng liêng nghiêm trọng, chư hiền đệ, hiền muội sẽ lần lượt đăng đàn hồng thệ, bái mạng Đại Từ Phụ [Đức Thượng Đế] lãnh lịnh lên đường hành đạo. (TTTH 2017, tr. 683a)
Đức Giáo Tông Thái Bạch dạy thêm:
Hồng thệ đây (...) là đặt mối thông công nối liền sự sống bằng quyền pháp để cho nước cứu rỗi chảy vào lòng mình, mà đây cũng là một dịp hồng ân bắc cầu cho Thiên nhơn gặp lại.
Lần nầy là lần giao ước giữa người Thiên ân với Thần Thánh, kết mối tương quan để mở rộng con đường tận độ, con đường đại xá, thì sự thề nguyền đâu phải một điều bắt buộc ai. Thề là để đánh dấu một giai đoạn tiến lên qua một thời kỳ đen tối. Thề là ghi lại những lời giao ước nơi ký ức đừng cho lòng ta xao lãng mà vật chất lấn tinh thần, ý tình ngăn bước tiến. (TTTH 2017, tr. 686a)
B.2. Tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 16-01 Kỷ Hợi (Thứ Hai 23-02-1959), Đức Đông Phương Lão Tổ dạy:
Nên loài người muốn được dưới sự che chở của bàn tay quyền năng là phải lập giao ước cùng Trời, làm cho Trời người trở nên đồng nhất. (TTTH 2017, tr. 690a)
B.3. Tại Phước Huệ Đàn, ngày 08-11 Kỷ Hợi (Thứ Hai 07-12-1959), Đức Đại Tiên Ngô Minh Chiêu dạy:
Giờ nầy Bần Đạo đến đây ban ơn, nối lại mối thông công cho nguồn nước lành chảy đến hầu các hiền đồ làm trọn nguyện lực của mình.
Từ khi chư hiền đồ cùng Bần Đạo đã lập giao ước, Bần Đạo cũng để lòng từ bi lân mẫn tận độ, nhưng chư hiền đồ còn cả mang theo bên mình bao nhiêu dục vọng làm cho ma quỷ lợi dụng xúi giục, rồi lại tự xé lời nguyền. (TTTH 2017, tr. 720a)
B.4. Tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 28-11 Kỷ Hợi (Chủ Nhật 27-12-1959), Đức Lý Thái Bạch dạy:
Đời hạ nguơn là đời tận diệt. Tận diệt sắp đến nên cho loài người một cuộc tàn phá ghê gớm, một cuộc xáo trộn kinh hoàng. Tất thảy loài người, dầu kẻ hiền người ngu, kẻ lành người dữ, không lẽ chung chịu trông lò biến thiên trong kỳ mạt tận?
Nên Thầy [Đức Chí Tôn] thương xót loài người, dưới vòm trời còn biết bao nhiêu là nguyên nhân chủng tử. Thầy động lòng từ bi lập giao ước cùng Tam Giáo, phế Ngọc Kinh, giao quyền ngự trị cho quần Tiên, đến cõi phàm trần đưa tay chận đứng cuộc tiêu vong, trải lòng dạ Ngài mà bao dung cho nhân loại. (TTTH 2017, tr. 725b)
B.5. Tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 15-8 Nhâm Dần (Thứ Năm 13-9-1962), Đức Nam Hải Bồ Tát (Quan Thế Âm) dạy riêng các nữ môn đệ Cao Đài:
Bần Đạo mong muốn các đạo hữu bình tĩnh mà ngó lại cảnh trời đen hung dữ hôm nay, thấy được nhơn dục đã đẩy thân thể ta vào nơi tội lỗi thì nên quay về. Quay về sẽ được cứu và được ban ơn quyền pháp cho để mà lập nên đẳng cấp thiêng liêng.
(...)
Quay về con đường giải thoát như xưa. Quay về với lời giao ước thì ơn phước sẽ chảy đến, điển lành sẽ tràn đến. Thần cứu thế sẽ giáng nơi mỗi người. Đường thiêng liêng được bắc lại cầu. Cửa Trời sẽ mở ra. Các bạn Nữ Thánh, Nữ Thần sẽ trở lại cùng các người để hộ trì, giúp đỡ mà đưa qua khúc đời nguy hiểm. (TTTH 2014, tr. 223, 224)
3. GIÁO HỮU - 教友
A. Giáo là đạo, tôn giáo (religion). Hữu là bạn (friend). Giáo Hữu là người bạn trong cửa đạo. Trong đạo Chúa, giáo hữu tức là tín đồ.
Petrus Ký 1884 (tr. 432, mục từ congrégation) giải thích la congrégation des fidèles là: Hội các giáo hữu.
Petrus Ký 1884 (tr. 624, mục từ fidèle) giải thích les fidèles là: Những kẻ có đạo; các giáo hữu (giáo nhơn); bổn đạo.
J.M.J. 1887 (tr. 347, mục từ hữu) giải thích giáo hữu là: chrétien [Kitô hữu].
Paulus Của 1895 (tr. 460a, mục từ hữu) giải thích giáo hữu là: Anh em trong đạo Thiên Chúa, tiếng kêu chung các người theo đạo Thiên Chúa.
Génibrel 1906 (tr. 181, mục từ giáo), giải thích các giáo hữu les fidèles, les catholiques [các tín đồ, các tín đồ Công Giáo].
Đồng nghĩa với giáo hữu là giáo dân. Paulus Của 1895 (tr. 372b, mục từ giáo) giải thích giáo dân là: Người có đạo Thiên Chúa, tiếng xưng hô nhà nước An Nam mới cải, trước gọi là dân tả đạo.
B. Đạo Cao Đài mượn thuật ngữ giáo hữu (nguyên nghĩa là tín hữu, tín đồ, bạn đạo) nhưng dùng với ý nghĩa mới. Theo Pháp Chánh Truyền, Giáo Hữu “là người thân cận nhơn sanh hơn hết”; thì ý nghĩa thân cận này sẵn hàm ngụ trong từ tố hữu (nên thường nói thân hữu: bạn thân).


B.1. Trong hệ thống chức sắc Cửu Trùng Đài, phẩm Giáo Hữu ở dưới Giáo Sư và trên Lễ Sanh. Tân Luật (Chương I, Điều Thứ Sáu) quy định:
Giáo Hữu là người để phổ thông chơn đạo của Thầy, đặng quyền xin chế giảm luật lệ đạo, đặng phép hành lễ khi làm chủ mấy cái chùa nơi mấy tỉnh nhỏ. Có ba ngàn Giáo Hữu, mỗi phái một ngàn, chẳng nên tăng thêm hay là giảm bớt.
B.2. Chú giải điều này, đêm Thứ Năm 25-8-1938 Đức Giáo Tông Lý Thái Bạch giáng cơ dạy:
Giáo Hữu làm đầu tỉnh nhỏ, buộc phải có bằng cấp trường học đạo. Người ấy hạnh đức đủ đầy, thông suốt các luật lệ tôn giáo để đem chơn đạo mà phổ độ nhơn sanh, làm gương cho cả mọi người. Lẽ đạo tình đời đều thông thạo, đủ hạnh dung hòa các tôn giáo. Chẳng nên bênh vực lý tưởng mình mà làm cho mất cả vẻ đại đồng. Đặng quyền xin chế giảm những luật lệ cho phù hợp với nhơn sanh. Cả thảy có ba ngàn người chia làm ba phái, mỗi phái có một ngàn người chẳng đặng thêm bớt. Một Giáo Hữu đặng quyền trông coi mười hai cho đến bảy mươi hai Lễ Sanh. Giáo Hữu có làm điều trái lẽ Đạo, hoặc lợi dụng, hoặc cậy quyền ép chế tín đồ, hoặc bày điều tà mỵ, thì chư chức sắc đặng thượng tờ về Hội Thánh phân xử.
B.3. Đạo Cao Đài dịch phẩm Giáo Hữu sang tiếng Anh là Priest, dịch tiếng Pháp là Prêtre. Cách dịch này không liên quan gì đến từ tố Hữu. Thông thường, Prêtre hay Priest được hiểu là giáo sĩ, người giảng đạo.
Paulus Của 1895 (tr. 372b, mục từ giáo) giải thích giáo sĩ là: Kẻ học hành, lãnh việc dạy học, dạy đạo lý.
Tân Luật (Chương I, Điều Thứ Sáu) quy định: Giáo Hữu là người để phổ thông chơn đạo”. Như vậy, có lẽ căn cứ chức năng, nhiệm vụ của Giáo Hữu mà người xưa dịch là Priest / Prêtre.
Nguồn trích dẫn:
Génibrel 1906: J.-F.-M. Génibrel, Missionnaire apostolique, 南語釋西總約 / Nam Ngữ Thích Tây Tổng Ước / Petit Dictionnaire annamite-français. Sài Gòn: Imprimerie de la Mission, à Tân Định, 1906, 2e édition.
J.M.J. 1877: Tự Vị An Nam – Pha Lang Sa. Dictionnaire annamite-français. Tân Định: Imp. de la Mission, 1877.
Paulus Của 1895: Huình Tịnh Paulus Của, Đại Nam Quấc Âm Tự Vị. Tome I. Sài Gòn: Imp. Rey, Curiol & Cie, 1895.
Petrus Ký 1884: Petrus Jean Baptiste Trương Vĩnh Ký, Petit dictionnaire français-annamite. Sài Gòn: Imp. de la Mission, à Tân Định, 1884.
Nhiêu Lộc, 02-5-2019
HUỆ KHẢI



([1]) Dịch theo bản New International Version: On this mountain the Lord Almighty will prepare a feast of rich food for all peoples, a banquet of aged wine - the best of meats and the finest of wines.
([2]) đồng nhất 同一 (identical, the same): Giống nhau, không khác, là một.

HỌ, HỌ ĐẠO


HUỆ KHẢI
Phần đông đại chúng và ngay cả tín đồ Cao Đài thường hay nghĩ rằng đạo Cao Đài chủ yếu kết tinh, tổng hợp Tam Giáo (Nho, Lão, Phật). Thật ra, trong đạo Cao Đài còn có yếu tố đạo Chúa để hợp với Tam Giáo mà thành Tứ Giáo, một thuật ngữ xuất hiện kể từ khi có đạo Cao Đài; và thay vì nói theo truyền thống xa xưa là Tam Giáo đồng nguyên, thì đạo Cao Đài xác định rằng Tứ Giáo đồng nguyên nền tảng của giáo pháp Cao Đài.([1])
Yếu tố Tứ Giáo dễ dàng nhìn thấy qua ảnh thờ trên Thiên bàn của đạo Cao Đài, hay tấm diềm trước Thiên bàn ở một số thánh thất thuộc Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh (xem hình 1 và 2); nhưng dường như yếu tố Tứ Giáo không dễ nhận thấy về mặt ngôn ngữ nếu không chú ý tìm hiểu và có đôi chút hiểu biết về đạo Chúa.


Trong chiều hướng khảo sát yếu tố Tứ Giáo về phương diện ngôn ngữ, bài viết này trình bày ý nghĩa hai thuật ngữ họ, họ đạo trong đạo Cao Đài vốn có nguồn gốc từ đạo Chúa. Bài viết này còn nhằm bổ di cho tập sách nhỏ của tôi nhan đề: Sơ Khảo Thuật Ngữ Đạo Chúa Trong Đạo Cao Đài / A Preliminary Survey of Some Christian Terms Used in Caodaism (Hà Nội: Nxb Hồng Đức, tháng 01-2019, 104 trang.)
Để xác định hai thuật ngữ họ, họ đạo có nguồn gốc từ đạo Chúa, tôi trích dẫn năm quyển từ điển cổ xưa của ba học giả Công Giáo (J.M.J., Petrus Ký, và Paulus Của) và hai giáo sĩ Công Giáo (Vallot, và Génibrel) đã xuất bản trước khi đạo Cao Đài ra đời (1926) từ hai mươi năm (Génibrel 1906) tới ba mươi chín năm (với J.M.J. 1877).
(Xem hình 3a, 3b.)


Ngoài ra, tôi còn tham khảo hai quyển từ điển Công Giáo xuất bản gần đây. Để cho gọn, nhan đề bảy quyển từ điển này được viết tắt như sau (xếp theo thứ tự năm xuất bản):
J.M.J. 1877: Tự Vị An Nam – Pha Lang Sa / Dictionnaire annamite-français. Tân Định: Imprimerie de la Mission, 1877 (916 trang).
Petrus Ký 1884: Petrus Jean Baptiste Trương Vĩnh Ký, Petit dictionnaire français-annamite. Sài Gòn: Imprimerie de la Mission, à Tân Định, 1884 (1.192 trang).
Paulus Của 1895: Huình Tịnh Paulus Của, 大南國音字彙 / Đại Nam Quấc Âm Tự Vị. Tome I. Sài Gòn: Imprimerie Rey, Curiol & Cie, 1895 (608 trang).
Vallot 1904: P. G. [Pierre Gabriel] Vallot, Missionnaire au Tonkin, Petit Dictionnaire annamite-français, composé sur le plan des dictionnaires de l’Évèque d’Adran (éditions de Mgr. Tabert et de Mgr. Theurel) et à l’aide du dictionnaire franco-tonkinois. Hà Nội: Imprimeur-éditeur F.-H. Schneider, 1904, 2e édition (291 trang).
Génibrel 1906: J.-F.-M. Génibrel, Missionnaire apostolique, 南語釋西總約 / Nam Ngữ Thích Tây Tổng Ước / Petit Dictionnaire annamite-français. Sài Gòn: Imprimerie de la Mission, à Tân Định, 1906, 2e édition (812 trang).
TĐCG 2011: Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, Ban Từ Vựng Công Giáo), Từ Điển Công Giáo. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2011 (536 trang).
TĐCG 2016: Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, Ban Từ Vựng Công Giáo), Từ Điển Công Giáo. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2016 (1.218 trang).
I. HAI THUẬT NGỮ HỌ, NGƯỜI LÀM ĐẦU TRONG HỌ ĐƯỢC DÙNG TRONG ĐẠO CAO ĐÀI TỪ KHI NÀO?
Hai thuật ngữ họ, và người làm đầu trong họ được dùng trong đạo Cao Đài kể từ đầu năm 1927, cùng với sự ra đời của Tân Luật. Luật này được hình thành tại thánh thất Từ Lâm với quá trình gồm mấy nét chánh tóm tắt như sau:
Hòa Thượng Như Nhãn tức Thích Từ Phong, thế danh Nguyễn Văn Tường (1864-1939), cho cất tại Gò Kén một ngôi chùa tên là Thiền Lâm Tự 禪林寺, theo giấy phép ngày Thứ Tư 15-7-1925 của chủ tỉnh Tây Ninh.([2]) Chùa Thiền Lâm hiện nay nằm bên quốc lộ 22B, ấp Long Trung, xã Long Thành Trung, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh, cách thành phố Tây Ninh khoảng 6 cây số (xem hình 4a).
Cuối tháng 8-1926, Hòa Thượng Như Nhãn đã bằng lòng cho các tiền khai Cao Đài mượn chùa Thiền Lâm (xây dựng chưa xong) để làm thánh thất Thiền Lâm, cũng gọi thánh thất Gò Kén.([3]) Ngày Thứ Tư 23-3-1927 chùa Thiền Lâm được trả lại cho Hòa Thượng Như Nhãn.([4])
Đêm Thứ Bảy 20-11-1926, trong đàn cơ tại chánh điện thánh thất Thiền Lâm (xem hình 5), Đức Chí Tôn (Cao Đài Thượng Đế) ban Pháp Chánh Truyền, quy định tám phẩm chức sắc Cửu Trùng Đài, từ phẩm cao nhất là Giáo Tông cho tới phẩm thứ tám là Lễ Sanh. Đêm sau, Đức Chí Tôn quy định về việc công cử chức sắc từ phẩm Lễ Sanh lên tới Giáo Tông.([5])


Dựa trên Pháp Chánh Truyền các tiền khai Cao Đài đã tiến hành soạn Tân Luật; các bản dự thảo được hình thành dần dần kể từ tháng 11-1926.([6])
Ngày Thứ Hai 07-3-1927, Tân Luật của đạo Cao Đài được Đức Chí Tôn phê chuẩn. Tân Luật được in lần đầu tiên tại nhà in Commerciale C. Ardin, Sài Gòn, 14 trang (15x24cm) và phát hành từ đầu tháng 6-1927 (xem hình 4b).([7])
Trong Tân Luật, có mười sáu lần dùng thuật ngữ họ. Cụ thể như sau:
* Phần Ðạo Pháp, Chương II, quy định:

1. Điều Thứ Chín (trích): Muốn xin nhập môn phải có hai người đạo đức tiến dẫn đến người làm đầu trong họ.
2. Điều Thứ Mười Một: Người làm đầu trong họ hay là chức sắc thay mặt cho mình phải đến làm lễ cúng khai đàn trấn thần an vị cho người mới vào Đạo.
* Phần Ðạo Pháp, Chương III, quy định:
3. Điều Thứ Mười Sáu: Nơi nào có đông tín đồ được chừng năm trăm người sấp lên, thì được lập riêng một họ, đặt riêng một thánh thất, có một chức sắc làm đầu cai trị.
4. Điều Thứ Mười Bảy: Sự lập họ phải có phép Đức Giáo Tông và phải do nơi quyền Người.
5-6. Điều Thứ Mười Tám: Bổn đạo trong họ phải tuân mạng lịnh của chức sắc làm đầu trong họ, nhứt nhứt phải do nơi người, chẳng đặng tự chuyên mà trái đạo.
7. Điều Thứ Hai Mươi Sáu: Trong bổn đạo ai có phạm luật pháp về mấy điều khoản nhẹ, thì về quyền người làm đầu trong họ phân xử (...).
8. Điều Thứ Hai Mươi Tám: Về đường đời bổn đạo có xích mích nhau, cũng phải đến cho người làm đầu trong họ phân giải.
9. Điều Thứ Hai: Nhập đạo rồi thì phải quên những việc oán thù nhau khi trước; phải tránh việc ganh ghét tranh đua và kiện cáo; phải nhẫn nhịn và hòa thuận với nhau. Rủi có điều chi xích mích, phải vui nghe người làm đầu trong họ phân giải.
10-11. Điều Thứ Mười Bốn: Trong bổn đạo xảy có người mãn phần quy vị thì chư tín đồ trong họ phải chung cùng đến giúp và chia buồn với tang chủ.
Mỗi họ cũng nên lập một nghĩa địa riêng.
12-13. Điều Thứ Mười Lăm: Người làm đầu trong họ, khi tang chủ mời, phải đến hiệp với chư tín đồ trong họ, làm lễ cầu siêu cho vong linh theo Tân Luật và đưa xác đến mộ phần.
14. Điều Thứ Mười Chín: Một người trong đạo gặp tai nạn thình lình, thì bổn đạo trong họ hãy tùy hỷ chung nhau, tư trợ cho qua lúc ngặt nghèo.
15. Điều Thứ Hai Mươi Hai: Người nào trong đạo phạm một hay nhiều điều răn cấm trên đây, thì mấy người khác trong bổn đạo hay biết phải khuyên giải. Nếu chẳng nghe, phải đến tỏ cho người làm đầu trong họ hay, cho người để lời khuyến dạy.
16. Điều Thứ Hai Mươi Bốn: Hội Công Đồng có Đầu Sư một phái làm đầu và hai chức sắc hai phái kia nghị sự phán đoán về hình trục xuất theo lời của người làm đầu trong họ xin.
Các trích dẫn trên cho thấy Tân Luật có mười một lần dùng thuật ngữ làm đầu trong họ.
Như vậy, khởi sự từ Tân Luật (1927), đạo Cao Đài dùng thuật ngữ họ để gọi một cộng đồng tín đồ ở cùng một địa phương và số lượng ít nhất là năm trăm người. Vị chức sắc chịu trách nhiệm trông coi một họ được gọi là người làm đầu trong họ.
II. Ý NGHĨA VÀ NGUỒN GỐC THUẬT NGỮ HỌ
1. Họ trong tiếng Việt có nghĩa là gia đình, dòng họ.
1.1. J.M.J. 1877 (tr. 327, mục từ họ) giải thích họ famille.
1.2. Paulus Của 1895 (tr. 424a,([8]) mục từ họ) giải thích một họ là: Đồng một dòng dõi, bởi một kiến [sic] mà ra.
Ghi chú: Kiếng ở trong Nam nói đủ là kiếng họ, tức là một cánh hay nhánh của một dòng họ; và phủ thờ là ngôi nhà thờ lớn dành thờ cúng, làm lễ giỗ cho cả một kiếng họ.
1.4. Génibrel 1906 (tr. 216, mục từ họ) giải thích họ famille.
2. Ý nghĩa họ gia đình, dòng họ, rất phù hợp với thuật ngữ họ dùng trong đạo Cao Đài. Theo nghĩa này, các tín đồ trong một họanh chị em trong một gia đình (2.1.); thánh thất trong họ là nhà chung của các tín đồ (2.2.); Giáo Chủ (Đức Cao Đài, Thầy) là Cha; Giáo Tông thay mặt Thầy lãnh đạo Hội Thánh là Anh Cả của hết thảy tín đồ (2.3.). Thật vậy:
2.1. Trong Tân Luật, phần Thế Luật, Điều Thứ Nhứt, quy định:
Hễ thọ giáo với một Thầy thì tỷ như con mt cha, phải thương yêu nhau; liên lạc nhau, giúp đỡ nhau lấy lòng thành thật mà đối đãi nhau, dìu dắt nhau trong đường đạo và đường đời.
2.2. Sau khi mượn được chùa Thiền Lâm tạm làm thánh thất, vào ngày Thứ Bảy 18-9-1926 Đức Ngọc Hoàng Thượng Ðế (tức Cao Đài Giáo Chủ, cũng là Thầy) dạy các môn đệ:
Các con, Thầy đã lập thành thánh thất; nơi ấy là nhà chung của các con.([9])
2.3. Trong Tân Luật, phần Đạo Pháp, Chương I, Điều Thứ Nhứt, quy định (trích):
Trên hết có một phẩm Giáo Tông là Anh Cả có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu dắt cả tín đồ trong đường đạo và đường đời.
3. Thuật ngữ họ dùng trong đạo Cao Đài vốn là thuật ngữ đạo Chúa. Thật vậy:
3.1. Petrus Ký 1884 (tr. 378, mục từ chrétienté) giải thích:
Chrétienté: Chỗ (nơi, xứ) có đạo. Họ (có đạo).
L’église de la chrétienté de Chợ Quán: Nhà thờ họ Chợ Quán.
Fonder une chrétienté: Lập họ.
Chef d’une chrétienté: Ông trùm họ.
Les notables d’une chrétienté: Các chức họ.
3.2. Paulus Của 1895 (tr. 424a, mục từ họ) giải thích một họ còn có nghĩa là: Một hội giáo hữu ở một chỗ.
Giáo hữu là gì? Là tín đồ đạo Chúa. Do đó:
- Paulus Của 1895 (tr. 460a, mục từ hữu) giải thích giáo hữu là: Anh em trong đạo Thiên Chúa, tiếng kêu chung các người theo đạo Thiên Chúa.
- Génibrel 1906 (tr. 181, mục từ giáo) giải thích các giáo hữu là: Les fidèles [các tín đồ], les Catholiques [các tín đồ Công Giáo].
3.3. Vallot 1904 (tr. 115, cột 2, mục từ họ) giải thích họ còn có nghĩa thứ hai là: une chrétienté.
3.4. Génibrel 1906 (tr. 216, mục từ họ) giải thích họ còn có nghĩa là: une chrétienté.
III. HỌ BIẾN THÀNH HỌ ĐẠO
1. Ban sơ họ đạo là từ dùng để gọi các đô tùy phục vụ khiêng linh cữu trong đám tang. Thật vậy:
1.1. Paulus Của 1895 (tr. 424a, cột 1, mục từ họ) giải thích họ đạo là: Bọn lãnh việc đi khiêng quan cữu (đám ma).
Hai giải thích sau đây tương tự như Paulus Của:
1.2. J.M.J. 1877 (tr. 328, mục từ họ) giải thích họ đạo là: Compagnie du service funèbre; les croque-morts
1.3. Génibrel 1906 (tr. 217, mục từ họ) giải thích họ đạo là: Compagnie des pompes funèbres; les croque-morts.
Có lẽ vì thế mà thoạt đầu, đạo Chúa và đạo Cao Đài chưa dùng thuật ngữ họ đạo. Sau Génibrel mười một năm, báo Nam Kỳ Địa Phận (số 418, ra ngày 08-02-1917) khi viết về bà nhứt ([10]) nhà mồ côi Tân Định vẫn chỉ dùng họ. Mẩu tin trên báo ấy viết:
“(B)à đã có công trong họ lâu năm, là lo nuôi dưỡng con mồ côi, và lập trường dạy đồng nhi nam nữ, (…).” ([11])
2. Nhưng dần dần về sau thì họ được gọi là họ đạo, và người làm đầu trong họ được gọi là đầu họ đạo, hay nói gọn là đầu họ. Tôi chưa đủ điều kiện để xác định được sự thay đổi ấy bắt đầu có từ bao giờ.
Tuy nhiên, riêng trong đạo Cao Đài, vào ngày Thứ Năm 25-8-1938 (01-7 nhuần Mậu Dần), qua bộ phận thông công của Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên (Tòa Thánh Châu Minh, thánh tịnh Bạch Long Cung Hoàng, và thánh tịnh Đại Thanh),([12]) khi chú giải Tân Luật, Đức Giáo Tông Vô Vi Lý Thái Bạch hai mươi lần dùng các thuật ngữ họ đạo, đầu họ, đầu họ đạo. Cụ thể như sau:
* Phần Đạo Pháp:
2.1. Chú giải Chương I, Điều Thứ Bảy (trích): Lễ Sanh được làm đầu họ đạo thánh thất.
2.2. Chú giải Chương II, Điều Thứ Mười (trích): Họ đạo dạy bảo người mới vào đạo và Ban Cai Quản đem tên vào bộ nhập môn.
2.3. Chú giải Chương III: Đây nói về việc lập họ, đặng chia trong mỗi đầu h giữ bao nhiêu tín đồ cho khỏi điều lộn xộn.
2.4. Chú giải Chương III, Điều Thứ Mười Sáu (trích): Trong thánh thất có một người chức sắc đầu h là Lễ Sanh vậy.
2.5. Chú giải Chương III, Điều Thứ Mười Tám (trích): Chư tín đồ trong họ mỗi việc gì can hệ với phần đạo phải cho người đầu h biết và do nơi người lấy luật đạo mà làm việc cùng tín đồ.
2.6. Chú giải Chương III, Điều Thứ Mười Chín (trích): (H)oặc [tín đồ có] việc gì phiền phức với đạo hay là biếng nhác không đi chầu lễ, chư chức sắc đầu họ phải đòi đến an ủi ba lần mới công bố.
2.7. Chú giải Chương VI, Điều Thứ Hai Mươi Ba (trích): Trường tiểu học nơi họ đạo tức thánh thất, (…).
2.8. Chú giải Chương VII, Điều Thứ Hai Mươi Sáu (trích): Đây nói về hàng tín đồ, nếu người nào phạm những điều tội nhẹ thì sẽ do nơi người đầu h phân xử (…).
2.9.-2.10. Chú giải Chương VII, Điều Thứ Hai Mươi Bảy (trích): Những tín đồ phạm tội nếu đầu h xử không nghe hay là tái phạm đến một lần, còn châm chế; ba lần thì đầu h phải đệ lên Tòa Công Đồng phán xét.
2.11. Chú giải Chương VII, Điều Thứ Hai Mươi Tám: Bổn đạo hoặc còn ở đường đời, ăn ở cùng nhau có điều chi xích mích phải đem đến cho người đầu h phân giải; không xong sẽ còn chỗ khác, chẳng đặng đem ra tòa đời.
* Phần Thế Luật:
2.12.-2.13. Chú giải Điều Thứ Bảy (trích): Trước chánh sính tám ngày, chủ hôn trai phải thưa với người đầu h mình biết, đặng xin phép cưới gả và yêu cầu vị đầu h dán tờ bố cáo nơi thánh thất mình và một tờ nơi thánh thất bên gái (…).
2.14. Chú giải Điều Thứ Mười Hai (trích): Đứa con nít từ một tháng trở lên, cha mẹ nó phải đem đến thánh thất sở tại mình mà thưa làm lễ tắm thánh, rồi thưa với người đầu h ghi tên vào sổ sanh (…).
2.15. Chú giải Thế Luật, Điều Thứ Mười Ba (trích): Con nít từ sáu tuổi đến mười hai tuổi thì cha mẹ phải đem đến trường học trong họ đạo mà học chữ hay học đạo, (…).
2.16.-2.17. Chú giải Điều Thứ Mười Tám (trích): Việc cầu siêu cho vong linh thì có cửu sơ, cửu chót, tiểu tường, và đại tường là lớn nhất, phải đến cầu nơi thánh thất thì người đầu họ phải cùng chư chức sắc đến làm lễ cầu siêu và dâng sớ cho người, song buộc rằng kẻ hiếu tử phải thưa trước cùng đầu h năm ngày (…).
2.18. Chú giải Điều Thứ Mười Chín (trích): Người trong họ đạo mà có gặp thủy tai, hỏa hoạn, gặp tai nạn thình lình, hoặc có người nào siêng năng, giỏi giắn mà lỡ vận thất thời thì trong bổn đạo giúp đỡ nhau lúc ngặt nghèo, (…).
2.19. Chú giải Điều Thứ Hai Mươi Hai (trích): Người trong đạo ai có lỗi thì phải khuyên lơn nhau, nếu nhiều lần mà không bỏ, tánh xấu vẫn còn thì người đầu h phải đòi đến mà khuyên dạy, (...).
2.20. Chú giải Điều Thứ Hai Mươi Bốn: Hội Công Đồng có Đầu Sư phái mình và hai chức sắc hai phái kia nghị án theo lời của người đầu h xin.
IV. THAY LỜI KẾT
Ngày nay trong đạo Cao Đài, thuật ngữ họ đạo hoàn toàn thay thế cho họ; và thuật ngữ đầu họ hay đầu họ đạo hoàn toàn thay thế cho người làm đầu trong họ.
Trong đạo Chúa, hai quyển TĐCG 2011 (tr. 141), TĐCG 2016 (tr. 353) đều có mục từ giáo xứ thay cho mục từ họ đạo. Tuy nhiên hiện nay lại thấy lắm khi họ đạogiáo xứ vẫn được dùng song song. Chẳng hạn:
- Ngày Thứ Ba 09-8-2016, website giáo xứ Tân Định có bài Đôi Nét Về Giáo Xứ Tân Định mở đầu như sau:
Hình thành năm 1861, là một trong các họ đạo đầu của địa phận Tây Đàng Trong, giáo xứ Tân Định có diện tích rộng lớn để xây dựng các cơ sở vật chất phục vụ cho các sinh hoạt tôn giáo như: nhà xứ, sân nhà thờ, nhà in.([13])
- Hoặc bản tin ngày Thứ Bảy, 23-01-2016, giới thiệu về Tờ Tin 421 của giáo xứ Tân Định, website Tổng Giáo Phận TpHCM mở đầu như sau:
Tờ tin giáo xứ Tân Định phát hành để gửi đến các hộ gia đình lương và giáo thuộc họ đạo Tân Định cũng như cho mọi khách vãng lai tham dự thánh lễ Chúa Nhật tại nhà thờ giáo xứ.([14])
Một bạn văn Kitô hữu thân thiết với tôi nhiều năm nay (làm việc ở báo Công Giáo Và Dân Tộc) nói rằng theo trải nghiệm của anh, nhiều người Công Giáo vẫn thích nói họ đạo hơn giáo xứ bởi lẽ chữ họ gợi lên ý nghĩa gia đình, dòng họ, và nghe ra chiều thân mật, có nét gần gũi giữa những người đồng đạo cùng chung đức tin.
Tôi hoàn toàn đồng ý với bạn mình, vì như đã trình bày trên đây, hai chữ họ đạo trong Cao Đài hàm chứa ý nghĩa anh chị em có một nhà chung (là thánh thất), có một đấng Cha chung (là Thầy, Thượng Đế), có chung một người Anh Cả (là Giáo Tông).
Huệ Khải
Nhiêu Lộc, 21-01-2019



([1]) Phạm Văn Liêm, Sự Nghiệp Trung Hưng. Hà Nội: Nxb Hồng Đức 2018, tr. 251-252.
([2]) Huệ Nhẫn, Lịch Sử Đạo Cao Đài. Quyển I. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2005, tr. 439, chú thích 271.
([3]) Huệ Khải, Lược Sử Đạo Cao Đài: Khai Minh Đại Đạo 1926 / A Concise Caodai History: the 1926 Inauguration. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2015, tr. 21.
([4]) Huệ Khải, Lược Sử Đạo Cao Đài: Khai Minh Đại Đạo 1926, tr. 48.
([5]) Huệ Khải, Lược Sử Đạo Cao Đài: Khai Minh Đại Đạo 1926, tr. 32.
([6]) Huệ Khải, Lược Sử Đạo Cao Đài: Khai Minh Đại Đạo 1926, tr. 34.
([7]) Huệ Khải, Lược Sử Đạo Cao Đài: Khai Minh Đại Đạo 1926, tr. 38.
([8]) Khi trang sách chia làm hai cột, cột 1 gọi là a, cột 2 gọi là b.
([9]) Tòa Thánh Tây Ninh, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. Bổn Thứ Nhứt. Sài Gòn: Imprimerie Tam Thanh, 1928, tr. 38.
([10]) bà nhứt: Nữ tu (sœur) đứng đầu một dòng tu nữ.
([11]) Trần Nhật Vy, Tuồng Joseph in trên tuần san Công Giáo Và Dân Tộc, Xuân Kỷ Hợi 2019, tr. 51.
([12]) Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển - Pháp Chánh Truyền - Tân Luật. Đà Nẵng: Xí nghiệp in quốc doanh Quảng Nam, tháng 02-1996, tr. 301.
([13]) https://www.giaoxutandinh.net/2016/08/09/doi-net-ve-giao-xu-tan-dinh/
([14]) http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20160123/33805