LÁ THƯ GIAO CẢM
Phạm Văn Liêm, Đạo Áo Trắng.
Hà Nội: Nxb Tôn Giáo,
2010, tr. 46-52
Hoàng huynh
thân mến,
Mấy hôm nay trời mưa nhiều, những cơn mưa
đầu thu cứ ào ào như thác đổ. Ở miền
Mưa miền
Đêm nay nằm nghe mưa, một câu thơ nào đó
chợt về trong trí
Mưa sáng đêm, mưa tối trời
Cuốn trôi những mặt nạ đời,
mưa ơi!
làm đệ nhớ đến câu nói của huynh trong đêm tâm
sự giữa hai anh em mình. Huynh bảo rằng Thầy đã dạy “Cùng nhau một Đạo tức
một Cha”, thế mà những người con cùng Cha vẫn còn nhìn nhau qua chiếc mặt
nạ... Đệ hiểu huynh muốn nói đến sự thiếu thành thật và tình thương yêu của một
số huynh đệ.
Thời gian mới đó mà đã bốn năm rồi huynh
nhỉ? Sau đúng mười hai tháng khánh thành hoa viên Đền Thánh Trung Hưng, đệ và
một số huynh khác cũng về Hội Thánh dự lễ Khai Đạo Rằm tháng Mười và cũng để
tán thưởng công trình làm đẹp nhà thánh của giới trẻ. Ngày đầu về, dạo khắp
vườn hoa và đêm ấy nằm chung phòng với huynh, đệ đã nhận xét và giới thiệu tám
câu thơ Đường luật mà chắc Hoàng huynh còn nhớ.
Hoa Viên
Đền Thánh
Chung góp cùng nhau dựng hoa
viên,
Nay về vừa đúng một chu niên.
Đền xưa sáng đẹp màu vôi mới,
Vườn cũ tươi xinh ánh nắng hiền.
Đây ngọn giả sơn ngâm nước tục,
Kia
ao thất bửu nở hoa tiên.
Khóm
hoa, lối cỏ, lan, tùng, cúc...
Giữa
chốn phồn hoa dậy nét thiền.
12-10
Tân Mùi
Hoàng
huynh đã tỏ ra thích thú cặp luận của bài thơ:
Đây
ngọn giả sơn ngâm nước tục,
Kia
ao thất bửu nở hoa tiên.
Huynh
cho rằng một đối xứng đáng là hay ho. Cái giả thì ở trong nước tục. Nước tục
bởi vì nước có bùn đất rong rêu. Nhưng từ trong nước tục lại sừng sững một cội
bồ đề (bên ngọn giả sơn có cội bồ đề). Phiền não sinh bồ đề là tượng trưng ở
bên nầy. Còn bên kia là ao thất bửu nở hoa giải thoát vàng ươm, biểu trưng cho Hoa
khai kiến Phật ngộ vô sanh.
Hoàng
huynh đã kể cho đệ nghe những tấm lòng và những giọt mồ hôi góp sức cho công
trình, đồng thời cũng than phiền về một vài huynh không tinh thần chẳng vật
chất, chỉ đóng góp bằng những phê phán nặng nề.
Chẳng
hạn như cái đỉnh đặt phía trong cột phướn. Họ bảo rằng không có ý nghĩa gì cả,
thế mà phải tốn công đi tham quan, tham khảo từ Huế đến Hội An, nơi nầy nơi nọ,
rồi rước thợ chuyên môn về thực hiện rất tốn kém. Thêm vào đó còn đắp bốn chữ Chánh
Vị Ngưng Mạng. Ai chánh vị? Và sao mạng lại ngưng? Tu hành mà ngưng mạng
thì làm sao chuyển hóa? Đạo pháp làm sao trường lưu?
Có lẽ
qua một ngày nắng hanh, đêm đến trời mưa bù, cho nên càng về khuya mưa càng
nặng hạt. Giọng huynh trầm trầm hòa trong tiếng rào rào của mưa đêm làm đệ thiu
thiu lần rồi không còn đóng góp với huynh chung quanh vấn đề nầy nữa mà đã để
hồn chìm hẳn vào giấc ngủ sâu.
Năm
nay đệ về Hội Thánh để cùng lo với chư huynh về lớp giáo lý mùa hạ. Sau thánh
lễ khai giảng tại bửu điện, đệ và huynh Navi được mời ghi một tấm hình kỷ niệm
bên chiếc đỉnh. Nhớ lại vấn nạn năm xưa, nay có dịp, đệ ngắm nhìn chiếc đỉnh
thật kỹ mới thấy sự cân phân về bố cục, sắc sảo về đường nét hoa văn khắc chạm,
những đường cong nếp thẳng thật nhịp nhàng. Nhất là bốn chữ Chánh Vị Ngưng
Mạng không biết đắp theo lối triện
hay lệ gì đó mà
thật hài hòa chung với toàn thể, như ẩn như hiện trong màu đen ngả xám.
Đứng
dang ra xa để ngắm, đệ thấy lòng mình hưng phấn hẳn lên và buột miệng lẩm bẩm:
Biểu
trưng thiền pháp là đây
Nhất
tâm phanh nhậm đêm ngày kim đơn.
Đồng
thời mấy điều tâm sự bỏ dở đêm mưa năm ấy cần được ví von với huynh trong thư
nầy.
Nói
về cái đỉnh thì Hoàng huynh đã biết rồi, nó là cái vạc, dưới có ba chân, trên
có hai quai, là vật dụng để nấu. Thế vậy mà cái đỉnh lại tượng trưng cho sự
quyền quý.
Vua
Hạ Võ Trung Hoa khi gồm thâu thiên hạ, liền lấy vàng chín châu, đúc chín đỉnh. Mỗi
đỉnh ghi núi sông, nhân vật của mỗi châu làm kỷ niệm. Chín đỉnh ấy gọi là cửu
bảo.
Việt
Nam ta thời nhà Nguyễn cũng đúc chín đỉnh, chép lại sự tích chín đời vua nhà
Nguyễn, kể từ Nguyễn Tiên Hoàng, hiện nay còn bày ở đền Thái Miếu tại cố đô
Huế.
Đối
với Cao Đài Giáo hay Tiên gia thì cái đỉnh tượng trưng cho tịnh pháp hay thiền
pháp. Thiền định hay tịnh luyện trong Cao Đài chính là công phu để nghịch
chuyển pháp luân kết thánh thai gọi là phản bổn hoàn nguyên, hay chuyển hậu
thiên thành tiên thiên, hoặc cũng gọi là chiết Khảm điền Ly.
Khi
con người rời khỏi bụng mẹ, cất ba tiếng khóc oa oa, mang theo một đoạn rún,
mắt, tai, mũi, miệng đầy đủ và cũng chính là quẻ Càn mất vạch dương (trung hào)
mà thành quẻ Ly. Ly là lìa, lìa khỏi quê hương nguyên bổn tiên thiên. Quẻ Khôn
được thay vào hào giữa mà ra Khảm. Một điểm chơn dương đã khảm (đính vào) hậu
thiên đơn điền, biết bao giờ quay về chốn cũ được? Do đó mà:
Tam
Kỳ Đạo chuyển tuần huờn
Châu nhi phục thỉ kết đơn trung điền.
(Đại
Thừa Chơn Giáo)
Cái
đỉnh tượng trưng cho lò nấu thuốc đặt tại đơn điền (hậu thiên). Người luyện đạo
phải vận phép công phu theo cửu chuyển trở về thượng đơn điền (tiên thiên).
Người luyện đạo đừng sai thánh huấn
Mà để làm triệu chứng đơn kinh
Người tu trước phải dọn mình
Cho thanh bạch tượng, cho tinh sạch lòng.
Giữ ngoài rồi gìn trong đúng đắn
Để cho tâm an lặng không không
Ấy là thần khí giao thông
Càn Khôn thăng giáng, cọp rồng xuống lên.
Phép cửu chuyển là nền thanh khiết
Thoát luân hồi đoạn diệt oan khiên
Còn chi nghiệp quả nối chuyền
Tâm không đắc Phật thành Tiên tại trần.
(Đại
Thừa Chơn Giáo)
Ở bàn
hậu thiên tại bửu điện có đặt một đỉnh trầm. Người đạo hữu khi cúng kính luôn
luôn đốt trầm, không những chỉ để xông cho thơm mà còn nhắc nhở thiền pháp nầy.
Cái
đỉnh với bốn chữ Chánh Vị Ngưng Mạng là lấy ý trong quẻ Hỏa Phong Đỉnh của Kinh
Dịch. Quẻ nầy gồm có Tốn hạ hay nội Tốn, Ly thượng hay ngoại Ly. Theo soán từ
và soán truyện trong Kinh Dịch nhà Dịch học Phan Bội Châu đã giải, xin đại lược
là:
Đỉnh
có tài biến cách được vật, đổi sống thành chín, hóa cứng thành mềm. Nước lửa
khác nhau mà chung nhau làm nên công dụng thuận lợi cho nhân sinh. Cái đỉnh nấu
được đồ ăn, nuôi được người, nuôi được mình. Công dụng của đỉnh như vậy tất
nhiên nguyên hanh. (Nguyên: sanh, đức
lớn của trời đất; xuân. Hanh: thong
thả, vui thích, đã phú cho sanh mạng, còn được thong dong vui thú; hạ.)
Theo
như hai thế giao quẻ, Tốn là Mộc, Ly là Hỏa. Tốn lại có ý nghĩa là vào, lấy mộc
đưa vào lửa, lửa đốt mộc nấu chín được đồ ăn, là công việc thuộc về nấu nướng. Nấu
nướng nghĩa là phanh nhậm. Người thường bảo nấu nướng là việc nhỏ nhen, nhưng
trong Dịch lý thì phanh nhậm lại là hai việc lớn:
Một
là hưởng tế thần Thượng Đế.
Hai
là phụng dưỡng bậc Thánh Hiền.
Ở
trên Tốn mộc có Ly hỏa, tượng là củi nhen lửa ở dưới đỉnh mà những đồ phanh
nhậm ở trong đỉnh mới thành công. Đó là tượng quẻ Đỉnh.
Quân
tử xem tượng ấy thấy được đỉnh có tượng nghiêm trọng đoan chính, thời công dụng
nó mới nên. Quân tử mới lấy thân mình làm đỉnh trong đời, nghiêm trọng đoan
chính ở vị mình. Kẻ trên nhắm xuống, kẻ dưới trông lên thời mệnh lệnh phát hành
mới được thống nhất tề chỉnh. Đó là Chánh Vị Ngưng Mạng mà làm công dụng đỉnh
của quân tử.
Vị nghĩa
là ngôi tôn. Chánh Vị nghĩa như câu: “Cung kính chánh nam diện” trong Luận Ngữ,
nghĩa là cung kính uy nghi ở giữa mình, mà chánh ngôi nam diện (ngôi vua ngàn
xưa ngồi trở mặt về hướng nam: nam diện). Vị có nghiêm chỉnh thời mệnh lệnh mới
được ngưng tụ. Nếu vị không chánh thì mệnh lệnh không ngưng, ví như đỉnh không
nghiêm trọng thì công phanh nhậm không thành.
Xem như
thế thì cái đỉnh đặt nghiêm trang vững chải trước Đền Thánh là một biểu trưng
đáng được quý hóa trân trọng, phải không Hoàng huynh?
Thôi,
cho qua việc chín người mười ý về cái đỉnh để tâm tình với Hoàng huynh trong
việc tìm đến nhau bằng con người Cao Đài. Những nhân tố cần có để xây dựng Giáo
Hội, đó là những con người thể hiện toàn nhân cách của chính mình, không kiến
chấp, không vướng bận, không duyên theo, không cống cao ngã mạn. Tự thân học
nghiệm, tu đức, sống đạo, đừng để bị lôi kéo, mê hoặc mà phải nhắm hướng
Nguyên, Hanh tiến tới. Đó là những con người làm việc Giáo Hội, làm việc Hội
Thánh.
Làm việc
Hội Thánh là làm việc thánh hay làm việc người?
Trang Tử
nói:
“Thánh
nhân có cái hình của người mà không có cái tình của người. Có cái hình của
người nên mới cùng một đàn với người. Không có cái tình của người nên thị phi
mới không vào được cõi lòng, để riêng làm một với Trời.
“Cùng
một đàn với người là việc nhỏ.
“Riêng
làm một với Trời là việc lớn.”
Vậy thì
ta có thể nói rằng làm việc Hội Thánh tức là cùng một đàn với người để riêng
làm một với Trời. Nghĩa là hòa nhau chung một thể nhưng tự thánh hóa riêng mỗi
cá nhân.
Có một
ni sư bên nhà Phật không chịu cách giảng từ Phật tử là con Phật. Bà lý luận:
“Nếu nói Khổng Tử là ông Khổng, Mạnh Tử là ông Mạnh, thiện nam tử là ông thiện
nam, thì Phật tử phải nói là ông Phật.”
Đúng quá
phải không Hoàng huynh? Khi một tín đồ quy y Phật, tất đã học lời Phật dạy rằng
các ngươi là Phật sẽ thành, và trong mỗi chúng sanh đều có tính Phật. Như vậy
Phật tử là ông Phật chứ còn gì nữa, nhưng là ông Phật chưa thành.
Còn
chúng ta tu theo đạo Cao Đài, Đấng Giáo Chủ xưng là Tiên Ông và bảo chúng ta là
học trò Tiên, vậy mỗi người tín đồ Cao Đài gọi là Tiên tử. Nghĩa là mỗi người
nhập môn rồi thì phải lo tự thánh hóa mỗi cá nhân để riêng làm một với... ông
Tiên. Vâng chúng ta là một ông Tiên sẽ thành.
Nói như
thế không phải là đại ngôn mà là tự lập vị mình để lo lập hạnh, lập đức, lập
ngôn, và lập công. Chắc Hoàng huynh không phản đối ý kiến của tệ đệ chứ. Vậy
xin kết thư giao cảm bằng ý tưởng tự lập vị nầy.