Thứ Hai, 9 tháng 5, 2022

ĐỂ HIỂU THÁNH THI CAO ĐÀI

 


ĐỂ HIỂU THÁNH THI CAO ĐÀI

Thái Lễ Sanh HUỲNH VĂN MƯỜI

Phần đông tín hữu Cao Đài hằng ngày tiếp xúc thánh ngôn, thánh giáo, trong đó các Đấng thiêng liêng thường dùng thi (thơ) làm phương tiện dạy đạo. Thi (thơ) dễ nhớ, dễ đi vào lòng người. Tuy nhiên, từ chỗ rung cảm với vần điệu, ngôn từ tới chỗ lãnh hội thấu đáo nội dung và diễn giải một bài thánh thi thường có một khoảng cách, tức là không phải lúc nào cũng dễ dàng. Trong công tác Phổ Tế, việc lãnh hội và diễn giải thánh thi phụ thuộc vào các yếu tố như: trình độ học vấn, năng khiếu cảm thụ văn học, vốn liếng giáo lý, bề dày tu học, v.v...

Để góp phần nhỏ bé của mình vào công tác Phổ Tế của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài, tệ đệ xin chia sẻ sau đây một ít trải nghiệm cảm thụ thánh thi Cao Đài từ góc độ một người làm thơ. Tệ đệ xin loại trừ các yếu tố về trình độ học vấn, năng khiếu cảm thụ văn học, vốn liếng giáo lý, bề dày tu học, v.v… mà chỉ nêu ra các yếu tố kỹ thuật cần thiết ([1]) ngõ hầu giúp người đọc thánh thi dễ dàng hiểu đúng nội dung bài thơ, không “vuột mất” ý tứ được Ơn Trên gởi gắm qua từng chữ từng câu, từng thanh bằng thanh trắc, từng vần từng điệu.

Phần lớn thánh thi Cao Đài được diễn bày qua thể thơ lục bát, song thất lục bát, thất ngôn (theo luật thơ Đường). Những thể thơ này có một số nguyên tắc bắt buộc về niêm, luật, vần, điệu. Ngoài ra còn nhiều yếu tố bất thành văn khác.

 Ví dụ: Một bài thơ lục bát thường rất dễ sáng tác, hầu như phần đông đều có thể viết ra một bài lục bát đúng luật, nhưng thực chất nó không phải là một bài thơ, vì không toát ra một chút “hơi hướm” thơ nào cả, người ta gọi nó là hò vè. Ranh giới giữa một bài thơ lục bát và một bài vè rất mong manh.

Ví dụ khác: Bởi không nắm được thi pháp, có người đọc xuôi từ đầu tới cuối câu thánh thi “Thầy trao pháp mượn tay khờ khạo” ([2]) rồi giải nghĩa rằng Thầy chỉ trao pháp cho những người khù khờ, ít học, ít hiểu biết, còn những kẻ học cao, biết nhiều thì Thầy sẽ không trao. Nói vậy thì e là ngộ nhận, giảng nghĩa sai.

I. Vài nguyên tắc cơ bản của một bài thơ

1. Hình thức bài thơ

Hình thức (cấu trúc) chứa đựng nội dung bài thơ. Hình thức gồm có thể thơ và luật thơ. Thánh thi Cao Đài hầu hết theo thể thơ lục bát, song thất lục bát, và thất ngôn (tứ tuyệt hay bát cú); dĩ nhiên, vẫn còn một số thể loại khác nữa.

2. Một vài thi pháp hay gặp

Là phương pháp sắp đặt câu chữ trong một bài thơ để diễn tả ý muốn, mong cầu, cảm hứng. Thông thường tác giả sử dụng các phương pháp sau:

2.1. Ẩn dụ

Là cách nói bóng gió, so sánh sự việc này với sự việc khác, vật này với vật khác. Ví dụ:

– Cuộc dâu bể nay dời mai đổi

Mảnh thân sanh bảy nổi ba chìm

Xoay vần trên cõi Phù Diêm

Thạnh suy mấy lúc, cổ kim mấy lần.([3])

– Đạo đời hai nẻo lại qua

Người tu khuyên khá tìm ra cội nguồn

Trần ai ngây ngất khói un

Nhơn tình chôn đắm vào khuôn khổ đời.([4])

Thân cá chu khôn bề lặn lội

Phận chim lồng khó nỗi nghinh ngang

Lỡ làng sanh phận hồng nhan

Cam bề dưới trướng trong màn tối tăm.([5])

2.2. So sánh

Thường đi đôi với phương pháp ẩn dụ, dùng để so sánh sự vật này với sự vật khác. Ví dụ:

– Tánh thì thiện như trăng tỏ rạng

Tánh ấy là Thiên mạng ban cho

Tánh đâu lại có vạy vò

Tánh lành thông suốt rán mò kiếm ra.

(...)

Tánh như nước chảy dài là thiện

Tánh luyện đào phát triển tinh vi

Tánh là cách vật trí tri

Người người cần phải gắn ghi trau giồi.([6])

– Phận nữ phái đành thân bồ liễu

Nỗi thấp hèn ươn yếu lắm con

Văn minh sóng bủa đức mòn

Làm cho phụ nữ chẳng còn tinh hoa.([7])

Đời con nay mc mai son

Đời con làm hại cho con mấy lần

Đời con như cuộc phù vân

Đời con như thế con cần hiểu chăng? ([8])

2.3. Hoán dụ

Dùng tên gọi của sự vật này để chỉ sự vật khác. Ví dụ:    

– Rồi đây nội bộ chia ba

Rồi đây mới thấy phng gà đua tranh

Khuyên nhau giữ một lòng lành

Ẩn tu đừng có đua tranh rầy rà.([9])

– Cầu cho được minh châu hiển hiện

Cầu cho nhau cải tiến tu hành

Cầu sao sống dưới phước lành

Giáo quyền đứng vững, môn sanh vững vàng.([10])

Khéo ngon ngọt chuốt lời giả dối

Dọn hàng buôn tráo đổi đủ bề

Thói đời bán chó treo dê

Giấu đâu cho kín vụng về lòng tham.([11])

2.4. Ngoa dụ

Là cách diễn đạt cường điệu, làm nổi bật một ý bằng từ hay câu có nghĩa mạnh hơn nhiều. Ví dụ:

– Tội con như lá trong rừng

Mẹ thương cũng khó để lòng chở che.([12])

Các con ôi! Thời kỳ khảo đảo

Nào văn minh đại náo biên thùy

Nạn đời khổ khắc lâm nguy

Bình Dương huyết úng, nhc bì rã tan.([13])

Nhứt là nhơn dục tham sân

Ái tình cháy dậy rần rần biết bao

Sắc như sóng dậy ba đào

Chụp thuyền qua lại, anh hào vùi chôn. ([14])

2.5. Nghịch lý

Diễn tả với những yếu tố trái ngược nhau. Ví dụ:   

Người tu giả di giả câm

Giả đui giả điếc lo tầm Đạo cao.([15])

– Làm như dốt nát di khờ

Đừng cho kẻ thế rằng ngờ mình tu.([16])

2.6. Điệp ngữ

Lặp đi, lặp lại nhiều lần một từ, một cụm từ để tăng hiệu quả diễn đạt (có thể là để nhấn mạnh). Ví dụ:  

Hỡi than ôi! Dân dân nước nước

Hỡi than ôi! Tước tước quyền quyền

Nỗi động địa, nỗi kinh thiên

Nhơn sanh ra đỗi, Thần Tiên giáng trần.([17])

– Sang hạ cảnh trời thêm nóng nảy

Xuân này xuân, xuân hãy mua vui

Xuân sang vật thảy đổi đời

Xuân chào Thánh Đạo ra đời Kỳ Ba.

Xuân tươi tốt, xuân đà đẹp đẽ

Xuân mở mang, xuân vẻ vang thay

Xuân đêm cũng sáng như ngày

Xuân trời cao vọi, đất dày tăm tăm.

Xuân vừa đến, hỏi thăm xuân thử

Xuân vừa qua, hỏi thử xuân gì?

Xuân nầy, xuân ở hay đi

Xuân ơi, xuân có ghét gì ai không?

Xuân là xuân, xuân đồng Tạo Hóa

Xuân là xuân, xuân chả riêng ai

Xuân ơi, xuân vắn hay dài

Xuân ơi, xuân có biết ai đợi kìa? ([18])

II. Một số vấn đề thường gặp

1. Biến âm

Đổi cách đọc một từ để đúng âm vận (vần). Ví dụ:

Giáp nơi nơi phô trương quảng đại

Ất con còn mắc phải tai nàn

Thanh, Từ trổ mặt Quang, Quang

Hiệp Thiên sớt gánh chia đàng Bắc Trung.([19])

Câu 2: Tai nạn biến âm thành tai nàn để vần với Quang.

Giữa thời cuộc nước non hiu quạnh

Đời thanh niên khôn tránh khổ nàn

Học đường là bước gian nan

Phải cơn đau khổ thử gan anh hùng.([20])

Câu 2: Khổ nạn biến âm thành khổ nàn để vần với gian nan.

2. Đảo ngữ

Đảo ngữ (hoán tự) là thay đổi vị trí của hai chữ (từ ghép) để phù hợp luật Bằng Trắc hay hợp vận (ăn vần) theo luật thơ. Ví dụ:

Xuân, hạ qua, thu tàn lnh tẻ

Năm tháng rồi con trẻ làm chi?      

Hay là con cứ mải đi

Mảng lo cầu cúng, không vì nhơn sanh.([21])      

Câu 1: Tẻ lạnh đảo ngữ thành lạnh tẻ để vần với con trẻ.

Lời vàng trò khá nghiệm suy

Hiểu trong một tý mới thì tường thông

Mong ngày đến Hội Hoa Long

Là ngày thế giới đại đồng đó thôi.

Câu 3: Long Hoa đảo ngữ thành Hoa Long để vần với tường thông đại đồng.

Trên thiên không treo hình ngọc thố

Vẹt sạch mây ánh lộ huy hoàng

Sáng soi khắp cả trần gian

Biết con ngồi thở đứng than một mình.([22])

Câu 2: Lộ ánh đảo ngữ thành ánh lđể vần với ngọc thố.

Ngọc quý dành cho đứa có công

Hoàng Thiên thương xót đám trần hồng

Thượng thừa thiếu đức quyền chưa đạt

Đế Đạo còn trong cảnh sắc không.

Câu 2: Hồng trần đảo ngữ thành trần hồng để vần với công sắc không.

– Cuộc dâu bể nay dời mai đổi

Mảnh thân sanh bảy nổi ba chìm

Xoay vần trên cõi Phù Diêm

Thạnh suy mấy lúc, cổ kim mấy lần.([23])

Câu 3: Diêm Phù đảo ngữ thành Phù Diêm để vần với ba chìm cổ kim.

Mẹ đã cạn lắm lời cùng trẻ

Con chẳng đành chẳng lẽ làm ngơ

Liễu bồ một mảnh yếu thơ

Gặp cơn phong võ bất ngờ sao đây? ([24])

Câu 3: Thơ song thất lục bát đòi hỏi các thanh Bằng (B), Trắc (T) trong câu 3 (câu lục) phải là OB OT OB; do đó, bồ liễu phải đảo ngữ thành liễu bồ cho đúng luật thơ là OB. (Chữ O tức là không bắt buộc phải B hay T.)

2. Điển tích (điển cố)

Nhắc tên cổ nhân hay sự tích xưa. Ví dụ:         

Đưa nhơn loại lên đàng thoát khổ

Dắt đồng bào đến chỗ tự do

Nước trời cơm đất ấm no

Thiên bang vạn quốc diễn trò Thuấn Nghiêu.([25])

Câu 4: Thuấn Nghiêu là vua Thuấn và vua Nghiêu.

Vì sao kẻ trí không tri

Vì sao bạn tác có Kỳ không Nha? ([26])

Câu 4: Kỳ, Nha là Tử Kỳ và Bá Nha.

– Đem đạo đức sửa lòng nhơn loại

Vững đức tin cứng cỏi như đồng

Chim còn ngậm đá lấp sông

Trên đường đạo đức dắt cùng nhau lên.([27])

Câu 3: Nhắc tích con gái Viêm Đế là Nữ Oa chết đuối ở biển Đông, hóa thành chim Tinh Vệ, thường ngậm đá ở núi Tây ra lấp biển Đông.

3. Bớt chữ

Lược bớt một, hai chữ cho đúng số chữ quy định trong câu theo luật thơ. Ví dụ: 

Phận sự làm trai thế đã đành

Oằn vai xốc gánh nợ quần sanh

Băng rừng vượt rú thân bao quản

Miễn dắt nhơn sanh khỏi nghiệt thành.([28])

Câu 4: Miễn không có nghĩa là tha cho, không buộc phải làm (miễn thuế, miễn tội, miễn lễ). Nếu viết đủ chữ, câu 4 là: Miễn sao (miễn ) dắt đưc nhân sanh ra khỏi nghiệt thành.

Xem bả lợi mồi danh trước án

Ngó văn minh mà cảm con thơ

Lẽ nào trẻ lại quá khờ

Xa đường đạo đức khổ chờ bên con.([29])

Câu 2 viết đủ chữ: Ngó văn minh mà thương cảm con thơ.

– Ngày sắp đến, năm châu chết chết

Ngày sắp đây, hết hết không còn

Dầu cho đại địa, núi non

Cũng tiêu cũng đổ cũng mòn, la thân.([30])

Câu 4: Lựa không phải là chọn lựa. Nói đủ chữ thì lựa thân có nghĩa lựa là (lọ là, huống chi là) thân thể xác thịt.

III. Trình tự đọc để hiểu một bài thánh thi

1. Hiểu ý chánh bài thánh thi

Thông thường một bài thánh thi có một ý chánh và có thể có một hoặc vài ý phụ để tô điểm cho bài thơ nhưng mục đích vẫn là minh họa cho ý chánh. Chẳng hạn, trong bài thơ bốn câu, câu đầu thường là tả tình, tả cảnh; hai câu giữa diễn tả chi tiết, sự việc; câu cuối là kết lại ý chính. Ví dụ:

Canh tàn giờ lụn mãi thì thôi

Liệu bảy lo ba cũng chửa rồi

Lo nỗi nhà xiêu, tường cột ngã

Gánh gồng nhiệm vụ đó ai ôi! ([31])

Ai từng mà đợi, đợi mà trông

Đợi mãi rồi ra luống bận lòng

Lòng sắt dạ son vì nghĩa vụ

Có người lo đạo mến đời không? ([32])

Phận sự làm trai thế đã đành

Oằn vai xốc gánh nợ quần sanh

Băng rừng vượt rú thân bao quản

Miễn dắt nhơn sanh khỏi nghiệt thành.([33])

2. Giải nghĩa một số từ (chữ), cụm từ khó hiểu

Gặp bài thánh thi áp dụng cùng một lúc nhiều thi pháp, nhiều điển tích, nhiều từ lạ hay từ khó, v.v... thì cần tìm hiểu xem câu thơ, đoạn thơ đó diễn tả điều gì. Nếu gặp các câu lược bớt chữ cho đúng luật thơ, nhưng người giảng giải không nhận ra thì sẽ giảng giải sai ý. Ví dụ:

Xuân, hạ qua, thu tàn lạnh tẻ

Năm tháng rồi con trẻ làm chi?      

Hay là con cứ mải đi

Mảng lo cầu cúng, không vì nhơn sanh.([34])

Câu 2: Đức Diêu Trì Kim Mẫu gọi chung tất cả các con gái (nữ nhi) già trẻ, lớn bé của Đức Mẹ là con trẻ. Ba chữ năm tháng rồi không có nghĩa là năm rồi, tháng rồi (năm cũ tháng cũ, thời gian quá khứ). Năm tháng cũng không có nghĩa là năm lần ba mươi ngày. Câu 2 có lược bớt chữ; do đó, nên hiểu là: Năm tháng (ngày tháng, thời gian) trôi qua rồi, các con trở nên già yếu thì còn biết làm chi được nữa?

Câu 3: Chữ mải (dấu hỏi) tức là mải miết, nghĩa là ham mê việc gì đến mức không thèm chú ý gì đến mọi thứ khác, bỏ bê tất cả những việc lẽ ra phải làm. Ca dao có câu: Ban ngày còn mải đi chơi / Tối lặn mặt trời đổ thóc vào rang. Đừng lầm với chữ mãi (dấu ngã) nghĩa là luôn luôn, không dứt. Tục ngữ có câu: Miếng ngon nhớ lâu, lời đau nhớ mãi.

Câu 4: Chữ mảng (dấu hỏi) nghĩa là mải mê. Ca dao có câu: Tay cầm bầu rượu nắm nem / Mảng vui quên hết lời em dặn dò. Truyện Kiều có câu: Mảng vui rượu sớm cờ trưa / Đào đà phai thắm sen vừa nẩy xanh.

Đừng lầm với mãng (dấu ngã) như mũ mãng, mãng xà. Cũng đừng lầm với mãn là xong rồi, kết thúc (mãn tang, mãn khóa); là thời hạn lâu dài, không xác định (mãn đời, mãn kiếp). Cho nên, gặp thánh thi hay thánh giáo chép sai chánh tả mà người đọc không đủ kiến thức để nhận ra lỗi sai thì sẽ không hiểu câu thơ hoặc giảng sai ý.

3. Tổng kết toàn bài thánh thi

Sau khi thực hiện các bước trên đây, về cơ bản coi như nắm bắt được nội dung bài thánh thi. Nếu có thể được, người giảng nên tóm tắt ý chánh (đại ý) toàn bài thánh thi. Ngoài ra, cần lưu ý giải nghĩa thánh thi tùy theo khả năng tiếp thụ (cảm thụ) của đạo hữu. Điều này rất quan trọng và tùy thuộc óc tinh tế, nhạy bén của người giảng giải thánh thi. Tín hữu trong các họ đạo (nhất là khu vực nông thôn, người bình dân ở thành thị...) thường có trình độ học vấn khác nhau, mức độ tiếp thụ (cảm thụ) cũng khác nhau. Người giảng giải thánh thi cần cân nhắc, linh động, liệu lượng sao cho phù hợp, để tín hữu ngồi nghe khỏi chán.

Thái Lễ Sanh HUỲNH VĂN MƯỜI

(Họ đạo Nam Trung Hòa)



([1]) Về luật thơ, xin quý huynh tỷ tìm hiểu ở các tài liệu khác.

([2]) Ngọc Hoàng Thượng Đế, Trung Hưng Bửu Tòa, 01-01 Bính Thân (Chủ Nhựt 12-02-1956).

([3]) Thánh tịnh Đại Thanh, 24-7 Giáp Tuất (Chủ Nhật 02-9-1934).

([4]) Đại Thừa Chơn Giáo, 01-9 Bính Tý: Nền Tảng Cao Đài Đại Đạo.

([5]) Thánh tịnh Thanh Quang, 03-01 Kỷ Mão (Thứ Ba 21-02-1939).

([6]) Đại Thừa Chơn Giáo, 16-9 Bính Tý (1936): Tồn Tâm Dưỡng Tánh.

([7]) Thánh tịnh Thanh Quang, 25-4 Mậu Dần (Thứ Ba 24-5-1938).

([8]) Thánh tịnh Thanh Quang, 24-5 Mậu Dần (Thứ Ba 21-6-1938).

([9]) Trung Hưng Bửu Tòa, 10-5 Canh Tý (Thứ Sáu 03-6-1960).

([10]) Trung Hưng Bửu Tòa, 15-7 Canh Tý (Thứ Hai 05-9-1960).

([11]) Thánh thất Minh An, 04-4 Mậu Tuất (Thứ Năm 22-5-1958).

([12]) Trung Hưng Bửu Tòa, 15-8 Canh Tý (Thứ Tư 05-10-1960).

([13]) Thánh thất Trung Thành, 15-7 Kỷ Mão (Thứ Ba 29-8-1939).

([14]) Đại Thừa Chơn Giáo, 28-8 Bính Tý (1936): Đức Tin.

([15]) Đại Thừa Chơn Giáo, 15-8 Bính Tý (1936): Cao Đài Xuất Thế, Đại Đạo Hưng Truyền.

([16]) Đại Thừa Chơn Giáo, 01-9 Bính Tý (1936): Tôn Chỉ Của Cao Đài Đại Đạo.

([17]) Thánh tịnh Đại Thanh, 24-7 Giáp Tuất (Chủ Nhật 02-9-1934).

([18]) Thánh tịnh Thanh Quang, 01-01 Mậu Dần (Thứ Hai 31-01-1938).

([19]) Thánh tịnh Đại Thanh, 24-7 Giáp Tuất (Chủ Nhật 02-9-1934).

([20]) Thánh thất Trung Thành, 15-7 Mậu Dần (Thứ Tư, 10-8-1938).

([21]) Thánh thất Trung Thành, 15-7 Kỷ Mão (Thứ Ba 29-8-1939).

([22]) Trung Hưng Bửu Tòa, 15-8 Mậu Thân (Chủ Nhựt 06-10-1968).

([23]) Thánh tịnh Đại Thanh, 24-7 Giáp Tuất (Chủ Nhật 02-9-1934).

([24]) Thánh thất Trung An, 20-7 Đinh Sửu (Thứ Tư 25-8-1937).

([25]) Thánh tịnh Đại Thanh, 24-7 Giáp Tuất (Chủ Nhật 02-9-1934).

([26]) Thánh tịnh Thanh Quang, 25-3 Mậu Dần (Thứ Hai 25-4-1938).

([27]) Thánh thất Trung Thành, 15-10 Canh Thìn (Thứ Năm 14-11-1940)

([28]) Thánh thất Trung Thành, 15-7 Canh Thìn (Chủ Nhựt 18-8-1940).

([29]) Thánh thất Trung Thành, 15-7 Kỷ Mão (Thứ Ba 29-8-1939).

([30]) Trung Hưng Bửu Tòa, 01-7 Ất Tỵ (Thứ Tư 28-7-1965).

([31]) Thánh thất Trung Thành, 01-12 Mậu Dần (Thứ Sáu 20-01-1939).

([32]) Thánh thất Trung Thành, 01-10 Mậu Dần (Thứ Ba 22-11-1938).

([33]) Thánh thất Trung Thành, 15-7 Canh Thìn (Chủ Nhựt 18-8-1940).

([34]) Thánh thất Trung Thành, 15-7 Kỷ Mão (Thứ Ba 29-8-1939).