BỔ DI BA THUẬT NGỮ ĐẠO CHÚA TRONG ĐẠO
CAO ĐÀI:
BỮA TIỆC, GIAO ƯỚC, GIÁO HỮU
BỮA TIỆC, GIAO ƯỚC, GIÁO HỮU
HUỆ KHẢI
1. BỮA TIỆC - feast,
banquet (宴席: yến tịch)
Bữa tiệc là lúc con người gác lại mọi việc bận rộn để cùng ngồi bên nhau, vui vẻ ăn uống với nhau, san sẻ tình cảm.
A. Cựu Ước nói
tới sự hiệp thông, gắn bó giữa
Thiên Chúa và con người
qua hình ảnh bữa tiệc.
Như Isaia 25:6 diễn tả:
Trên núi này, Đức Chúa Toàn Năng sẽ dọn cho muôn dân một
bữa tiệc thịnh soạn, một bữa tiệc có rượu lâu năm, có các thứ thịt ngon nhất và
các loại rượu tốt nhất.([1])
Đó là bữa tiệc của ngày sau rốt (cánh
chung 竟終), là ngày con người được hưởng ơn cứu độ trọn vẹn đủ
đầy. Kể từ ngày đó trở đi, con người được sống vui, hưởng hạnh phúc và an bình mãi mãi trong Thiên Chúa.
A.1. Nước Thiên Chúa (Nước Trời) thường được ví như một bữa
tiệc, và Chúa Giêsu mời mọi người hãy đến dự tiệc với Chúa, nhưng phần lớn
người đời lại chối từ, vì họ không biết điều này:
Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên
Chúa! (Luca 14:15)
A.2. Theo
Tân Ước, Nước Trời còn được ví với bữa tiệc cưới (wedding banquet - 婚宴: hôn yến). Chẳng hạn:
Đức
Giêsu lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: “Nước Trời cũng giống như chuyện một
vua kia mở tiệc cưới cho con mình.” (Mátthêu 22:1-2)
A.3. Mặc
dù được chủ tiệc thỉnh mời trân trọng, rất nhiều người đã từ chối đến dự tiệc
cưới, tức là họ từ khước để chân bước vào Nước Trời:
Nhà
vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự
tiệc, nhưng họ không chịu đến.
(Mátthêu 22:3)
B. Trong
thánh giáo Cao Đài, bữa tiệc vừa mang ý nghĩa con người được hiệp một với
Thượng Đế (Thiên nhân hiệp nhất 天 人 合 一 : the oneness of Heaven and humanity),
vừa có nghĩa là phần thưởng Trời ban cho người đã chu toàn sứ mạng Trời giao
phó trong công cuộc cứu độ Kỳ Ba.
B.1. Phần
thưởng này Trời dành cho người biết gánh vác việc của Trời, xem việc của Trời
là việc của mình, nên đã thay Trời giáo hóa chúng dân tu hành (thế Thiên hành
hóa 替天行化 : on behalf of Heaven teaching people the way
of self-cultivation). Ai có được phần thưởng này, được dành cho một cái ghế
(một chỗ ngồi) ở bàn tiệc ấy, tức là có một vinh dự (danh dự) không gì sánh
được.
Tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 16-01 Kỷ Hợi
(Thứ Hai 23-02-1959), Đức Đông Phương Lão Tổ dạy:
Nên
loài người muốn được dưới sự che chở của bàn tay quyền năng là phải lập giao
ước cùng Trời, làm cho Trời người trở nên đồng nhất.([2]) Đã đồng
nhất thì việc của Trời làm hôm nay là việc của người. Người phải thấy cái trọng
trách sứ mạng ở nơi mình. Mình với Trời cùng một chương trình cải tạo thế gian.
Nhận thức được điều ấy, thấy rõ một tương lai sứ mạng mà gắng lòng lo tu, để
lòng thờ kỉnh. Đã được danh dự đứng trong hàng ngũ về phía của Thầy [Đức Thượng Đế, Cha Trời], cùng trong một bữa tiệc, được dự vào những ghế mà Đức
Cha Trời dành cho, thì không phải ân phước sao được trở nên danh dự đó? (TTTH
2017, tr. 690a-b)
B.2. Trong Tân Ước, Đức Giêsu dùng hình ảnh tiệc cưới làm dụ
ngôn nói về Nước Trời (Mátthêu 22:1-2). Trong thánh giáo Cao Đài, Đức Chí Tôn
mượn hình ảnh tiệc xuân (spring
banquet - 春宴: xuân yến) để nói tới
phần thưởng ban ơn cho những người biết thay Trời làm việc của Trời.
Tại
Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 01-01 Bính Thân (Chủ Nhật 12-02-1956), Đức Ngọc Hoàng
Thượng Đế (Thầy) dạy:
Tiệc xuân dọn mời con ngồi lại
Rót chung trà Thầy đãi các con
Hôm nay kẻ mất người còn
Đều là phận sự vẹn tròn Thầy khen.
(TTTH 2017, tr. 311a)
2. GIAO ƯỚC - testament, covenant, contract, agreement
(交約: giao ước; 盟約: minh ước)
Giao là
quan hệ qua lại giữa hai bên. Ước là
những quy định về quyền lợi và trách nhiệm để hai bên căn cứ theo đó mà thực
hiện.
A. Kinh
Thánh đạo Chúa gồm hai phần là Cựu Ước (the Old Testament) và Tân Ước (the New Testament).
Cựu Ước nghĩa là “giao ước cũ”, được Đức
Chúa Trời thiết lập với riêng dân Do Thái trên núi Sinai qua trung gian Thánh
Môsê, như chép trong Xuất Hành (Exodus 24:4-8).
Tân Ước nghĩa là “giao ước mới”, được
Chúa Giêsu thiết lập trong Bữa Tiệc Ly (the
Last Supper) và trên Thập Giá, qua việc Chúa đổ máu để giao hòa loài người
với Thiên Chúa và cứu thoát loài người khỏi sự dữ và cái chết.
Giao
ước được nói tới trong Phúc Âm như sau (trích một số trường hợp):
A.1. Cũng trong bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy
bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà
ăn, đây là mình Thầy.” Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ
và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu giao ước,
đổ ra cho muôn người được tha tội.” (Mátthêu 26:26-28)
A.2. Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh,
dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy,
đây là mình Thầy.” Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các
ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: “Đây là máu Thầy, máu giao
ước, đổ ra vì muôn người.”
(Máccô 14:22-24)
A.3. Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ
ra, trao cho các ông và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy
làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.” Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng
làm như vậy và nói: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ
ra vì anh em.” (Luca 22:19-20)
A.4. Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và
nói: “Đây là chén máu Thầy, máu đổ ra để lập giao ước mới; mỗi khi uống,
anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.” (1 Côrintô 11:25)
A.5. Nhưng hiện nay, Đức Giê-su được một tác vụ
cao trọng hơn, bởi vì Người là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn;
giao ước này căn cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn. Thật vậy, giả như giao
ước thứ nhất đã hoàn hảo rồi, thì chẳng cần phải tìm giao ước thứ
hai để thay thế. (Do Thái 8:6-7)
A.6. Khi Thiên Chúa nói đến giao ước mới,
Người làm cho giao ước thứ nhất hóa ra giao ước cũ; và cái gì cũ
kỹ, lỗi thời, thì sắp tan biến đi. (Do Thái 8:13)
A.7. Bởi vậy, Người là trung gian của một giao
ước mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời
giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh
nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa. (Do Thái 9:15)
A.8. Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử
mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện. Anh
em đã tới cùng vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giêsu và được máu của
Người rảy xuống (…). (Do Thái 12:23-24)
A.9. Đức Giêsu là vị Mục Tử cao cả của đoàn
chiên, là Đấng đã đổ máu mình ra để thiết lập giao ước vĩnh cửu. (Do
Thái 13:20)
B.
Trong thánh giáo Cao Đài, giao ước giữa
người và Trời, giữa người và các Đấng thiêng liêng, được nói tới như sau:
B.1. Tại
Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 12-01 Kỷ Hợi (Thứ Năm 19-02-1959), Đức Thái Bạch Kim
Tinh dạy các vị nam nữ Lễ Sanh:
Giờ
nầy, trước một sự thiêng liêng nghiêm trọng, chư hiền đệ, hiền muội sẽ lần lượt
đăng đàn hồng thệ, bái mạng Đại Từ Phụ [Đức Thượng Đế] lãnh lịnh lên đường hành đạo. (TTTH
2017, tr. 683a)
Đức Giáo Tông Thái Bạch dạy thêm:
Hồng
thệ đây (...) là đặt mối thông công nối liền sự sống bằng quyền pháp để cho nước cứu rỗi chảy vào lòng mình,
mà đây cũng là một dịp hồng ân bắc cầu cho Thiên nhơn gặp lại.
Lần nầy là lần giao ước giữa người
Thiên ân với Thần Thánh, kết mối tương quan để mở rộng con đường tận độ, con
đường đại xá, thì sự thề nguyền đâu phải một điều bắt buộc ai. Thề là để đánh
dấu một giai đoạn tiến lên qua một thời kỳ đen tối. Thề là ghi lại những lời giao
ước nơi ký ức đừng cho lòng ta xao lãng mà vật chất lấn tinh thần, ý tình
ngăn bước tiến. (TTTH 2017, tr.
686a)
B.2. Tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 16-01 Kỷ Hợi (Thứ Hai
23-02-1959), Đức Đông Phương Lão Tổ dạy:
Nên loài người muốn được dưới sự che chở
của bàn tay quyền năng là phải lập giao ước cùng Trời, làm cho Trời người
trở nên đồng nhất. (TTTH
2017, tr. 690a)
B.3. Tại Phước Huệ Đàn, ngày 08-11 Kỷ Hợi (Thứ Hai
07-12-1959), Đức Đại Tiên Ngô Minh Chiêu dạy:
Giờ nầy Bần Đạo đến đây ban ơn, nối lại
mối thông công cho nguồn nước lành chảy đến hầu các hiền đồ làm trọn nguyện lực
của mình.
Từ khi chư hiền đồ cùng Bần Đạo đã lập giao
ước, Bần Đạo cũng để lòng từ bi lân mẫn tận độ, nhưng chư hiền đồ còn cả
mang theo bên mình bao nhiêu dục vọng làm cho ma quỷ lợi dụng xúi giục, rồi lại
tự xé lời nguyền. (TTTH 2017, tr.
720a)
B.4. Tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 28-11 Kỷ Hợi (Chủ Nhật
27-12-1959), Đức Lý Thái Bạch dạy:
Đời hạ nguơn là đời tận diệt. Tận diệt sắp
đến nên cho loài người một cuộc tàn phá ghê gớm, một cuộc xáo trộn kinh hoàng.
Tất thảy loài người, dầu kẻ hiền người ngu, kẻ lành người dữ, không lẽ chung
chịu trông lò biến thiên trong kỳ mạt tận?
Nên Thầy [Đức Chí Tôn] thương
xót loài người, dưới vòm trời còn biết bao nhiêu là nguyên nhân chủng tử. Thầy
động lòng từ bi lập giao ước cùng Tam Giáo, phế Ngọc Kinh, giao quyền ngự
trị cho quần Tiên, đến cõi phàm trần đưa tay chận đứng cuộc tiêu vong, trải
lòng dạ Ngài mà bao dung cho nhân loại. (TTTH 2017, tr. 725b)
B.5. Tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 15-8 Nhâm Dần (Thứ Năm
13-9-1962), Đức Nam Hải Bồ Tát (Quan Thế Âm) dạy riêng các nữ môn đệ Cao Đài:
Bần Đạo mong muốn các đạo hữu bình tĩnh mà
ngó lại cảnh trời đen hung dữ hôm nay, thấy được nhơn dục đã đẩy thân thể ta
vào nơi tội lỗi thì nên quay về. Quay về sẽ được cứu và được ban ơn quyền pháp
cho để mà lập nên đẳng cấp thiêng liêng.
(...)
Quay về con đường giải thoát như xưa. Quay
về với lời giao ước thì ơn phước sẽ chảy đến, điển lành sẽ tràn đến.
Thần cứu thế sẽ giáng nơi mỗi người. Đường thiêng liêng được bắc lại cầu. Cửa
Trời sẽ mở ra. Các bạn Nữ Thánh, Nữ Thần sẽ trở lại cùng các người để hộ trì,
giúp đỡ mà đưa qua khúc đời nguy hiểm. (TTTH 2014, tr. 223, 224)
3. GIÁO HỮU - 教友
A. Giáo là đạo,
tôn giáo (religion). Hữu là
bạn (friend). Giáo Hữu là
người bạn trong cửa đạo. Trong đạo Chúa, giáo
hữu tức là tín đồ.
Petrus Ký 1884 (tr.
432, mục từ congrégation) giải thích la congrégation des fidèles là: Hội các giáo hữu.
Petrus Ký 1884 (tr.
624, mục từ fidèle) giải thích les fidèles là: Những kẻ có đạo; các giáo hữu (giáo nhơn); bổn đạo.
J.M.J.
1887 (tr. 347, mục từ hữu) giải thích
giáo hữu là: chrétien [Kitô hữu].
Paulus
Của 1895 (tr. 460a, mục từ hữu) giải
thích giáo hữu là: Anh em trong đạo Thiên Chúa, tiếng kêu chung
các người theo đạo Thiên Chúa.
Génibrel
1906 (tr. 181, mục từ giáo), giải
thích các giáo hữu là les fidèles, les catholiques [các tín
đồ, các tín đồ Công Giáo].
Đồng
nghĩa với giáo hữu là giáo dân.
Paulus Của 1895 (tr. 372b, mục từ giáo)
giải thích giáo dân là: Người có đạo Thiên Chúa, tiếng xưng hô nhà
nước An Nam mới cải, trước gọi là dân tả đạo.
B. Đạo
Cao Đài mượn thuật ngữ giáo hữu
(nguyên nghĩa là tín hữu, tín đồ, bạn đạo) nhưng dùng với ý nghĩa mới. Theo
Pháp Chánh Truyền, Giáo Hữu “là người thân cận nhơn sanh hơn hết”; thì ý
nghĩa thân cận này sẵn hàm ngụ trong từ tố hữu (nên thường nói thân hữu: bạn thân).
B.1. Trong hệ thống chức sắc Cửu Trùng Đài, phẩm Giáo Hữu ở
dưới Giáo Sư và trên Lễ Sanh. Tân
Luật (Chương I, Điều Thứ Sáu) quy định:
Giáo Hữu là
người để phổ thông chơn đạo của Thầy, đặng quyền xin chế giảm luật lệ đạo, đặng
phép hành lễ khi làm chủ mấy cái chùa nơi mấy tỉnh nhỏ. Có ba ngàn Giáo Hữu,
mỗi phái một ngàn, chẳng nên tăng thêm hay là giảm bớt.
B.2. Chú giải điều
này, đêm Thứ Năm 25-8-1938 Đức Giáo Tông Lý Thái Bạch giáng cơ dạy:
Giáo Hữu làm đầu tỉnh nhỏ, buộc phải có bằng cấp trường học đạo.
Người ấy hạnh đức đủ đầy, thông suốt các luật lệ tôn giáo để đem chơn đạo mà
phổ độ nhơn sanh, làm gương cho cả mọi người. Lẽ đạo tình đời đều thông thạo,
đủ hạnh dung hòa các tôn giáo. Chẳng nên bênh vực lý tưởng mình mà làm cho mất
cả vẻ đại đồng. Đặng quyền xin chế giảm những luật lệ cho phù hợp với nhơn
sanh. Cả thảy có ba ngàn người chia làm ba phái, mỗi phái có một ngàn người
chẳng đặng thêm bớt. Một Giáo Hữu đặng quyền trông coi mười hai cho đến
bảy mươi hai Lễ Sanh. Giáo Hữu có làm điều trái lẽ Đạo, hoặc lợi dụng,
hoặc cậy quyền ép chế tín đồ, hoặc bày điều tà mỵ, thì chư chức sắc đặng thượng
tờ về Hội Thánh phân xử.
B.3. Đạo Cao Đài dịch phẩm Giáo Hữu sang tiếng Anh là Priest,
dịch tiếng Pháp là Prêtre. Cách dịch này không liên quan gì đến từ tố Hữu.
Thông thường, Prêtre hay Priest được hiểu là giáo
sĩ, người giảng đạo.
Paulus
Của 1895 (tr. 372b, mục từ giáo) giải
thích giáo sĩ là: Kẻ
học hành, lãnh việc dạy học, dạy đạo lý.
Tân Luật (Chương I, Điều Thứ Sáu) quy
định: “Giáo Hữu là người để phổ thông chơn đạo”. Như vậy, có lẽ
căn cứ chức năng, nhiệm vụ của Giáo Hữu mà người xưa dịch là Priest / Prêtre.
Nguồn
trích dẫn:
Génibrel 1906: J.-F.-M. Génibrel,
Missionnaire apostolique, 南語釋西總約 / Nam Ngữ Thích Tây Tổng Ước / Petit
Dictionnaire annamite-français. Sài Gòn: Imprimerie de la Mission, à Tân
Định, 1906, 2e édition.
J.M.J. 1877: Tự Vị An Nam –
Pha Lang Sa. Dictionnaire
annamite-français. Tân
Định: Imp. de la Mission, 1877.
Paulus Của 1895: Huình Tịnh Paulus Của, Đại Nam Quấc Âm Tự Vị. Tome I. Sài Gòn: Imp. Rey,
Curiol & Cie, 1895.
Petrus Ký 1884: Petrus Jean Baptiste Trương Vĩnh Ký, Petit
dictionnaire français-annamite.
Sài Gòn: Imp. de la Mission, à Tân Định, 1884.
Nhiêu Lộc, 02-5-2019
HUỆ KHẢI