Ảnh: Daderot
Trung Hưng Bửu Tòa
ngày 16-01 Kỷ Hợi (Thứ
Hai 23-02-1959)
THI
Giờ nầy Lão có lời cùng
chư phận sự trong bộ máy Minh Tra.([9]) Toàn chư chức vụ phải
nhận thấu ([10]) một con đường sứ mạng trong buổi Tam Kỳ đại xá của Chí Tôn.
Người ([11]) đã đến cùng chúng sanh
bằng sự yêu thương, quyết đem con cái của Người trở lại con đường bình yên
trong sự sống đời đời, chung một khối bình đẳng bác ái, không để một ai tách
ngoài thánh thể ([12]) trọn lành mà chịu khốn
khổ dưới quyền hành của quỷ vương giày đạp. Nên Người quyết quy Tam Giáo, hiệp
Ngũ Chi dựng nên một nền chánh pháp, đem tất cả các mối đạo xưa ([13]) về một để duy nhất tín
ngưỡng,([14]) chung một con đường hồi
hướng,([15]) giúp đỡ lẫn nhau cởi mở
trái oan khổ nạn bởi vô minh tội lỗi ở lòng chúng sanh gây kết thành cộng
nghiệp,([16]) mà nhẹ bước đường lành,([17]) thung dung tháng ngày
không dính một gợn não phiền, không để một chướng ngại lo âu mà chúng sanh phải
thối lòng bồ đề,([18]) thối duyên bồ tát.([19]) Cõi thế gian không còn
các mối cạnh tranh, giành xé, sát hại lẫn nhau, đều được một tổ chức hoàn bị ([20]) để tương trợ liên quan mà
trưởng thành ([21]) một cuộc sống thanh bình,
đạo đức, rất nên tốt đẹp.
Muốn tới một cuộc đời
trang nghiêm thanh tịnh như vậy, Người bèn quy lương sanh,([22]) vầy ([23]) một thánh thể, mà hình
hiện ([24]) một pháp môn rộng lớn để
chứng tỏ Tạo Hóa vạn vật đồng thể đồng tánh, chân lý trong trời đất không phân
biệt đây đó gần xa. Ai cũng là một tế bào ([25]) trong cơ nhục ([26]) của thánh hình ([27]) Đại Đạo, đồng đẳng ([28]) trên dưới trong ngoài. Kẻ
thiện tri thức,([29]) đám quần dân ([30]) kết nên một guồng máy,
điều hòa trợ trưởng cho nhau,([31]) dù ở chỗ trong chỗ ngoài
cũng có một trọng trách ([32]) làm chủ tướng([33]) cơ vệ ([34]) trấn an ([35]) cho khu thể.([36])
Mục đích cứu chuộc ([37]) Lần Ba ([38]) là thế. Phải làm cho bốn
biển chung nhà, năm châu chung chợ, vạn vật chung sống trong bầu Tạo Hóa tự do,
giải thoát tất thảy nghiệp trái oan khiên cho người đời, về phần xác lẫn phần
hồn rất nên thanh khiết, trọn vẹn.
Muốn đi đến ngày cứu cánh ([39]) viên mãn ([40]) cho chúng sanh, công cuộc
thiết lập Đại Đạo không phải một sớm một chiều mà phải xây đắp nhiều công phu ([41]) bởi nhiều bàn tay chúng
sanh giác ngộ theo một quyền pháp tận độ của buổi Tam Kỳ. Quyền pháp ấy là hồng
ân của cơ cứu chuộc. Người đã đem từ trời mà đến làm con thuyền bát nhã đưa
chúng sanh nơi bến tục tận đến bờ giác để thoát cơ tự diệt, hưởng cảnh thung
dung. Chúng sanh phải lấy công cán ([42]) tâm linh của mình làm
giá chuộc.([43]) Giá chuộc ấy bằng sự ăn
năn và lòng hồi hướng thì mới được nối liền mối thông công ([44]) để cho điển lực nơi Trời
chuyển nhập vào lòng, vẹt u ám, giúp tri năng,([45]) thêm sức mạnh cho chúng
sanh chiến thắng quỷ vương, ca khúc thái bình quang vinh hạnh phúc.
Nên loài người muốn được
dưới sự che chở của bàn tay quyền năng ([46]) là phải lập giao ước ([47]) cùng Trời, làm cho Trời người trở nên
đồng nhất.([48]) Đã đồng nhất thì việc của Trời làm hôm
nay là việc của người. Người ([49]) phải thấy cái trọng trách
sứ mạng ([50]) ở nơi mình. Mình với Trời
cùng một chương trình cải tạo thế gian. Nhận thức ([51]) được điều ấy, thấy rõ một
tương lai sứ mạng mà gắng lòng lo tu, để lòng thờ kỉnh. Đã được danh dự đứng
trong hàng ngũ về phía của Thầy, cùng trong một bữa tiệc,([52]) được dự vào những ghế mà
Đức Cha Trời dành cho, thì không phải ơn phước sao được trở nên danh dự đó?
Ơn phước trong buổi Tam
Kỳ, Thầy lại dung hòa ([53]) cả kim cổ lẫn Đông Tây,
quy hiệp các tôn giáo, học phái ([54]) để chiết trung ([55]) làm một khối. Khối ấy gọi
là hoàn ([56]) linh đơn([57]) cứu chuộc vạn linh, nên
phải bỏ nhiều công phu nấu luyện mới thành. Trước hết phải theo một phương
thang ([58]) mà bào chế. Phương thang
ấy từ trời đất mới có ([59]) đã cứu được không biết
bao nhiêu chúng sanh trong các thời đại. Tam Giáo Thánh Nhơn ([60]) đã trao cho thế gian, mà
thế gian được hòa bình, chúng sanh chứng thành không biết bao nhiêu trên cảnh
Niết Bàn. Về cá nhân thì Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt, ba báu đồng cân.([61]) Về đạo pháp [thì] Lý,
Khí, Hình một thể độc nhất, tạo hóa muôn loài. Nên xây dựng thánh hình là phải
đủ tam thể làm nhứt nguyên, đạo đời hiệp một, mà con đường xuất thế huờn nguyên
phải dựa vào cơ nhập thế bồi công. Mà nhập thế xây Thế Đạo, xuất thế dựng Thiên
Đạo cũng không ngoài ba báu là tôn giáo, khoa học, chính trị làm một để nuôi
phần xác, dưỡng phần hồn, mở căn trí, giúp cơ năng, làm chương trình cho tinh
thần vật chất hay duy vật duy linh, không ngoài định luật duy nhất.
Muốn thuốc ấy được toàn
linh toàn hiệu, người chưng sái([62]) phải để mắt trông nom,
cân lượng phải nhích cho đúng độ, không được báu nầy nhiều, báu kia ít, món này
sống, món nọ già. Nếu kẻ làm bướng hốt càn,([63]) thì bịnh đời sao dứt mà
còn có sự hiểm nguy.
Về đạo pháp cũng thế.
Người cầm cân nảy mực ([64]) phải đúng đắn phân minh,
mà sự ủy thác trông nom ([65]) nếu bê tha nhác nhớm để
cho vỡ lở tai hại thì tội ấy đâu vừa.
Hôm nay nền Đạo vừa khai
chưa được bao năm,([66]) các đệ cũng thấy quyền
pháp của Chí Tôn trên mục đích cứu cánh([67]) cho bốn biển nhơn sanh.
Mặc dù các tôn giáo, học phái chưa về một mà đường lối của Đạo ta được dung hòa
rất nên bình đẳng, bác ái. Đường lối ấy dù phải [bị] hoàn cảnh kềm hãm, thói
đời ganh ghét nó cũng thành công thực sự. Thành công là loài người hiện nay
đang tìm lại con đường nầy, con đường yên ổn hòa bình, cả yêu thương và lẽ sống
lành mạnh. Đường duy nhất thế gian là con đường dung hòa duy nhất. Dù ai chạy
ngõ nào, đi lối nào cũng quay về đây mới bình yên, bền vững. Dù là kẻ nghịch,
kẻ giết hại đạo, cũng có ngày ăn năn, có ngày làm tiên phong đi đầu trong sự
truyền đạo.([68]) Nhưng tại sao [đã có]
đường lối ấy [mà] bây giờ trong nội bộ lại phải chia rẽ nhau, thù nghịch nhau? Điều
ấy ai biết được. Chỉ có đức tin mới thấy mà thôi.
Quyền Trời không dễ trái,
pháp đạo mấy ai qua. Đó cũng kế của quỷ vương mà kế ấy quyền Trời đồng ý cho
nó.([69]) Bởi nó đã muốn vậy, tưởng
là đắc kế mà nào hay là bị kế. Nên người có trách nhiệm đã biết quyền Trời lãnh
đạo, thì sao còn mơ hồ, sao còn phân vân nghi ngại? Ở đây, hay ở nơi nào, sứ
mạng đặt vào đâu, chương trình để ở đâu thì người nơi đó cứ tận tâm mà thi hành
nhiệm vụ. Làm sao ta biết được việc của Trời? ([70])
Vì vậy Lão khuyên chư vị
bảo pháp ([71]) thông suốt lòng mình để
lòng được tiếp trọn ơn điển, đừng cho chướng ngại lấp ngăn.
(. . . )
Thôi, Lão chào chư đệ.
Tổ nghiệp hoàn thành phải gắng công:
Muốn hoàn thành tổ nghiệp thì lớp người kế thừa phải cố gắng.
([12]) thánh thể 聖體 (holy body): Thánh thể của Đức Chí Tôn tại thế gồm Bát Quái Đài,
Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài. Theo đạo Cao Đài, thánh thể là các thánh thất
(hay thánh tịnh), Tòa Thánh, Hội Thánh. Thánh
thể là thuật ngữ đạo Chúa. Xem: Huệ Khải, Sơ Khảo Thuật Ngữ Đạo Chúa Trong Đạo Cao Đài (Hà Nội: Nxb Hồng Đức,
2019, tr. 69-74).
([15]) hồi hướng 回向 (transferring one’s merits to another place or person): Đem công đức
của mình mà hướng về nơi khác, người khác. Hồi
hướng là thuật ngữ đạo Phật.
Tuy nhiên, trong cụm từ chung một con đường hồi hướng, cũng như
lòng hồi hướng ở đoạn dưới, thì hồi hướng có lẽ là nói tắt thành
ngữ hồi đầu hướng thiện 回頭向善 (turning back to the good, i.e., being
awakened and interested in self-cultivation), nghĩa là tỉnh ngộ mà quay về đường
chánh lẽ phải, thức tỉnh mà lo tu sửa bản thân.
([18]) lòng bồ đề (bồ đề tâm 菩提心 ; bodhi mind):
Tâm giác ngộ, thức tỉnh trước những giả cảnh, ảo ảnh thế gian và có chí hướng bước
vào đường tu hành.
thối lòng bồ đề (discouraging one’s
bodhi mind): Ngả lòng nhụt chí, không còn muốn theo đường
tu hành nữa.
([19]) Bồ Tát 菩薩: (a) Nói đầy đủ là Bồ Đề
Tát Đóa 菩提薩埵 (Bodhisattva),
dịch nghĩa là Ðại Sĩ 大士. Bồ Tát là bậc tu hành đã đắc quả Phật nhưng lập đại nguyện
không nhập Niết Bàn vì còn vào đời cứu độ chúng sinh đang trầm luân, chưa giác
ngộ. Bồ Tát sẵn sàng nhận lãnh tất cả mọi đau khổ của chúng sinh.
(b) Trong thánh giáo này, bồ
tát là người tu hành có lòng muốn cứu độ tất cả chúng sanh. Tu theo đạo
Cao Đài, hằng ngày cúng tứ thời với câu nguyện [Nam mô] nhì
nguyện phổ độ chúng sanh tức là đã hứa với Trời thực hành hạnh nguyện của
các vị Bồ Tát.
Trong câu thánh giáo trên
đây, duyên 緣 có nghĩa là cơ hội (opportunity). Khi tu theo Cao Đài (như
vừa nói trên) thì có cơ hội phổ độ chúng
sanh, có cơ hội thực hành hạnh bồ tát (duyên
bồ tát). Ngoài ra, trong Kỳ Ba đại ân xá, Đức Chí Tôn và hằng hà sa số các Đấng
thiêng liêng cũng đang làm hạnh bồ tát, luôn đưa tay chờ cứu vớt chúng sanh,
chỉ đợi mong chúng sanh thức tỉnh mà vói tay nắm lấy các Đấng, như lời Đức Chí
Tôn dạy (tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, 10-02-1975): “Thầy đã đưa tay đến với các con, các con
phải đưa tay tới với Thầy. Thầy sẽ dìu dắt các con đến gần Thầy và trở về cùng
Thầy. Thầy cùng các con là một, sống trong lẽ thiên nhiên, trong mùa xuân vĩnh
cửu.” Đó là cơ hội cho chúng sanh nhận được ơn cứu độ của các bồ tát (duyên bồ tát). Nhưng, khi chúng sanh thối
lòng bồ đề, rời bỏ đường tu, thì bản thân không còn cơ hội thực hành hạnh
bồ tát, và cũng không còn cơ hội đón nhận ơn cứu độ của các vị Bồ Tát sẵn dành;
như thế tức là đã thối duyên bồ tát.
Do đó, thối lòng bồ đề và thối duyên bồ tát đi kèm nhau.
([47]) giao ước 交約 (testament, covenant, contract, agreement):
Giao ước là thuật ngữ đạo Chúa. Giao là quan hệ qua lại giữa hai bên. Ước là những quy định về quyền lợi và
trách nhiệm để để hai bên căn cứ theo đó mà thực hiện.
Kinh Thánh đạo Chúa gồm hai
phần là Cựu Ước (the Old Testament) và Tân Ước
(the New Testament). Cựu Ước nghĩa là giao ước cũ được Đức
Chúa Trời thiết lập với riêng dân Do Thái trên núi Si-nai qua trung gian Thánh
Mô-sê, như chép trong quyển Xuất Hành (Exodus 24:4-8). Tân Ước nghĩa là giao ước
mới được Chúa Giê-su thiết lập trong Bữa Tiệc Ly (the Last Supper) và trên Thập Giá, qua việc Chúa đổ máu để giao hòa
loài người với Thiên Chúa và cứu thoát loài người khỏi sự dữ và cái chết.
([52]) bữa tiệc (yến tịch 宴席; feast, banquet): Bữa tiệc là
thuật ngữ đạo Chúa. Bữa tiệc là lúc con người gác lại
mọi việc bận rộn để cùng ngồi
bên nhau, vui vẻ
ăn uống với
nhau, san sẻ tình cảm.
Kinh Thánh diễn
tả sự hiệp thông, gắn bó giữa
Thiên Chúa và con người
qua dụ ngôn bữa tiệc. Như I-sai-a 25:6 diễn tả (dịch theo New
International Version): Trên núi
này, Đức Chúa Toàn Năng sẽ dọn cho muôn dân một bữa tiệc thịnh soạn, một bữa
tiệc có rượu lâu năm, có các thứ thịt ngon nhất và các loại rượu tốt nhất. / On
this mountain the Lord Almighty will prepare a feast of rich food for all
peoples, a banquet of aged wine - the
best of meats and the finest of wines. Đó là bữa
tiệc của ngày sau rốt (cánh
chung 竟終), là ngày mà con người được
hưởng ơn cứu độ
viên mãn. Và kể từ ngày đó
trở đi, con người được sống
vui, hưởng hạnh phúc và an bình mãi mãi trong Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa (Nước Trời)
thường được ví như bữa tiệc, và Đức Giê-su mời mọi người hãy đến dự tiệc với
Chúa, nhưng phần đông người đời lại chối từ, vì họ không biết điều này: Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên
Chúa! / Blessed is the one who will eat at the feast in the kingdom of God !
(Lu-ca 14:15)
Trong thánh giáo Đức Đông Phương
Lão Tổ, bữa tiệc vừa mang ý nghĩa con người được hiệp nhất với Thượng Đế, vừa
có nghĩa là vinh dự tột cùng, là phần thưởng Trời ban cho người đã chu toàn sứ
mạng Trời giao phó trong công cuộc cứu độ Kỳ Ba.
([64]) cầm cân nảy mực (using a marking cord; executing rules and regulations): Thành ngữ
này ra đời từ công việc của thợ mộc khi cần xẻ gỗ theo đường thẳng tắp. Người
thợ dùng một sợi dây tẩm mực (thằng mặc 繩墨;
thằng trực 繩直: line marker; marking cord; plumb-line)
căng thẳng trên phần gỗ muốn xẻ bằng cách buộc một đầu dây vào quả cân để cố định
đúng vị trí, và bàn tay người thợ giữ chặt đầu dây còn lại. Sau khi ướm thử sợi
dây căng thẳng đã ăn khớp theo đường xẻ mong muốn, người thợ lấy ngón tay bật
cho sợi dây nảy lên rồi dội xuống vài lần, in lằn mực lên mặt gỗ. Sau đó, người
thợ sẽ cưa theo lằn mực.
Thành ngữ này dùng để nói về
trách nhiệm và lương tâm của những người có chức phận phán đoán, xét xử; tức là
họ phải công bằng, trung thực. Vì vậy, Đức Đông Phương Lão Tổ mượn thành ngữ
này để dạy các vị Minh Tra hãy biết hành xử đúng đắn phận sự bảo pháp tại các
họ đạo.
([68]) Dù là kẻ nghịch, kẻ giết hại đạo, cũng có
ngày ăn năn, có ngày làm tiên phong đi đầu trong sự truyền đạo: (a) Vua
A-xà-thế 阿闍世 (Ajatashatru)
cai trị nước Ma-kiệt-đà 摩竭陀 (Magadha) từ năm 492 đến năm 460 trước Công Nguyên. Ông âm mưu cùng Đề-bà-đạt-đa
提婆達多 (Devadatta)
ám hại Đức Phật, nhưng thất bại. Cuối cùng ông quy y theo Phật và hết lòng ủng
hộ đạo Phật. (b) Phao-lô (Paul) ban đầu
kiên trì săn đuổi các Ki-tô hữu để giết hại họ, nhưng rốt cuộc ông theo Chúa và
trở thành Thánh tông đồ.
([69]) quyền Trời đồng ý cho nó: Đức Chí Tôn
dạy: “Còn phẩm trật quỷ
vị cũng như thế ấy. Nó cũng noi
chước Thiên Cung
mà lập thành quỷ vị, cũng đủ các ngôi các phẩm, đặng đày đọa các con, hành hài các con, xử trị các
con. Cái quyền hành
lớn lao ấy do Thầy ban cho nó, nên đặng quyền cám
dỗ các con, xúi
biểu các con,
giành giựt các con mà
làm tay chơn bộ hạ trong vòng tôi tớ nó. / Thầy đã thường
nói: Hai đầu cân không
song bằng thì tiếng cân chưa đúng lý.
Luật công bình thiêng liêng buộc phải vậy.” (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển I, đàn ngày 19-12-1926.)
([70]) Làm sao ta biết được việc của Trời?:
Việc của Trời chỉ có Trời biết, do đó Đức Chúa Trời dạy: “Vì chính Ta biết các kế hoạch Ta dành cho các ngươi… / For I know the
plans I have for you…” (Giê-rê-mi-a 29:11) Vì vậy, sứ mạng đặt vào đâu, chương trình để ở đâu thì người nơi đó cứ tận tâm
mà thi hành nhiệm vụ. Đây cũng là hàm ý trong lời dạy của Đức Lý Đại Tiên
Trưởng: “Việc Trời, Trời liệu; việc người,
người lo.” (Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 26-01-1988.)
([71]) chư vị bảo pháp (those who conserve the dharma): Tức là “chư phận sự trong bộ máy Minh Tra” như Đức Lão Tổ dạy rõ khi mở đầu
bài thánh giáo này. Ở mỗi họ đạo của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài có một vị
Minh Tra giữ nhiệm vụ bảo pháp. Đừng nhầm với vị Bảo Pháp 保法 (the Dharma Conservator) trong Thập Nhị
Thời Quân thuộc Hiệp Thiên Đài.
Huệ Khải chú thích (17-4-2019)