Chúng tôi kính mong quý đạo hữu, đạo tâm hoan hỷ đọc giúp bản thảo để chỉ cho chúng tôi các chỗ cần sửa chữa hay bổ túc. Chúng tôi vô cùng biết ơn. Khi phản hồi, để khỏi bị sót, kính đề nghị quý đạo hữu, đạo tâm dùng "Tin nhắn" của FB Dũng Lê hay gởi email về: daidaovanuyen@gmail.com.
1. ĐỨC CAO HÓA ĐỘ CỨU MUÔN TRÙNG
Kim
Quang Minh Đài (Phù Cát, Bình Định)
Ngày
11-12 Ất Mùi (Thứ Hai 23-01-1956)
THI
ĐẠI
giác ([1]) năng tu,([2]) chuyển
pháp luân ([3])
ĐỨC
cao hóa độ ([4]) cứu muôn trùng ([5])
MINH
tâm kiến tánh,([6]) chơn thường ([7]) tịch ([8])
CHIÊU tập ([9]) càn
khôn ([10]) ngộ
nhứt trung.([11])
Chào
chư hiền đồ. Đại tịnh nghiêm đàn. Thành tâm thính pháp.
Nơi
đây mới tiếp đón Bần Đạo lần đầu nên phần điển quang chưa hòa nhập để thành một
khối viên minh ([12])
mà đạt cơ tận thức.([13])
THI
Mười phương ([14]) Tiên
Phật xuống ta bà
Rảo ([15]) khắp
càn khôn mở Hội Ba ([16])
Tỉnh giấc Nam Kha ([17]) cho
thấy Đạo
Độ về
cực lạc dự Long Hoa.
PHÚ
Long
Hoa mở, độ toàn cơ tận diệt,
Cửa
Đạo khai, giải quyết cuộc đời tàn.
Ai còn
mơ chi cảnh tục, chưa tỉnh giấc mơ màng,
Không tỉnh ngộ, sớm lên đàng để kịp khoa tràng ([18]) vào tranh công lập vị.([19])
Đạo đức báu trọng thay mà sao người chưa
biết quý?
Cứ lợi danh mà không nghĩ điều phải
trái hầu ([20]) lập
chí tu hành.
Cuộc trần gian tài sắc ([21]) là bả
([22]) hôi
tanh,
Thoạt có thoạt không mà cứ xâu xé
tranh giành, chết mê trong vũng khổ.
Thần Tiên thấy giả trò lừa phỉnh mà
thương hại đời, hạt châu ([23]) chan
đổ.
Buổi hạ nguơn, cơ tận diệt, đường giác ngộ
sớm hồi đầu.([24])
Tỉnh giấc hòe ([25]) thì
nhớ lại có gì đâu,
Nào được nào thua, diễn lại bầu tang
thương, vân cẩu.([26])
Ớ nầy ai là chí, noi đường lành mà thoát
vòng chiến đấu.
Sớm chiều lo công phu, công quả mà
tìm thấu cõi thật đời đời.
Luyện bảo châu ([27]) để
chế ngự dục vọng nơi người,
Diệt phiền não,([28]) phá
vô minh để ta với Trời hòa chung một thể.
Luyện mãi mãi thì tâm thần phát tuệ,
Thông lẽ đời mà khế ứng máy huyền vi.
Ai là người quyết chí tu trì,
Sẵn pháp sẵn cơ,([29]) đường
Đại Đạo lên đi, có Thần Tiên dẫn bước.
Chừ ([30]) ở
thế phải lập tâm hành công tạo phước,
Lo sửa mình cho được, sám hối
thường bằng cúng nước với quỳ nhang.
Lo độ mình thoát ra khỏi ảo vọng mơ màng,
Ra khỏi đám hý tràng,([31]) sớm
toan y hành đạo pháp.
Việc giáo hóa có tài năng, thành tâm chung
góp,
Hoặc nhà tu, trường học, trong phước thiện
cầu duyên.([32])
Đó là xây các cấp thiêng liêng,
Phải sớm xa tục thế mà thọ truyền ([33]) cơ
giải thoát.
Ở đời còn bước tới thì còn ngả nghiêng, lầm
lạc,
Còn sa mê tạo chác, còn hình phạt mãi A Tỳ.([34])
Sao cho bằng sớm tỉnh ngộ quy y,
Thờ Thượng Đế vô vi, sống an bình trong lằn
quang điển.
Sống chở che dưới bao điều thiện,
Được đỡ nâng theo đại nguyện bác ái, công
bình.
Sống thư nhàn, chế luyện tâm linh,
Xa lục dục, thất tình thì thân hình nhẹ như
không khí.
Thông được phép siêu hình thì chi hơn là
thú vị.
Ngày nay tu để ngày mai thấy trong
cõi lòng chung thủy nó vô hạn bao la.
Phép luyện châu mỗi bữa cần mẫn,([35]) thiết
tha,([36])
Có luyện được mới xua quỷ đuổi ma
đi khỏi ta: nó không còn quẩn quanh cám rủ.([37])
Luyện châu được thì tam huê quy tụ,([38])
Luyện châu rồi mới thú, sống trong tục mà Tiên.
Luyện châu rồi mới thấy trước kia mình là
đứa khờ điên,
Say sắc đắm tài, sống không yên,
giờ phút nào cũng khổ đau phiền não.
Châu luyện được thì mới rõ thông pháp đạo,
Luyện châu cần ([39]) thì
cơ Tạo nắm vào tay.
Luyện để mình tỉnh táo đừng say,
Luyện để sống những ngày học tu không
chướng ngại.
Luyện để mở ngũ quan ([40]) trông
xem ngoài thế giới,
Thấy đau thương cho bác ái hiện lên mau.
Luyện châu là cái bước đầu,
Bước đầu làm được là cầu bước sang.
Giờ
nầy Bần Đạo ghé đây giúp lời, trợ điển để các hiền đồ, ai là kẻ có tiền duyên ([41])
sớm lo hành đạo, thọ pháp, và nhất là việc tu hành lúc nầy phải theo một quy
trình ([42])
của Hội Thánh mới thành đạo. Nghĩa là cả tịnh luyện, hành đạo.
Nơi Trung
Tông năm tới phải kiện toàn bộ
phận Hội Thánh. Về cơ giáo hóa, phải đào
tạo một số người cốt cán ([43])
lãnh đạo, hành đạo.
Các
chức sắc, chức việc nói chung, một năm phải được bốn tháng hành đạo, bốn tháng
học tập, bốn tháng tồn dưỡng tịnh luyện. Nên chi,([44])
Hội Thánh phải có một trường học luôn luôn đào tạo mới có người hướng đạo sau
nầy, mới đủ bảo đảm chơn truyền đạo pháp, mới thông đường lối tận độ quy nguyên
mà Hội Thánh cần cấp ([45])
xây dựng.
Đường
lối ấy chia làm hai phần:
1. Phần thường xuyên: Có một chương trình
với thời gian hai năm, thi ra giáo sĩ truyền đạo hoặc các phần chuyên môn.
2. Phần nữa là chương trình mười lăm ngày,
bốn mươi lăm ngày, ba tháng cho các nhân viên hành chánh, giáo hóa vừa được lập
công vừa học hỏi thêm yếu lý.([46])
Các hiền
đồ gắng lên, và cố xây dựng Cơ Quan
Phước Thiện để toàn đạo thực hiện
tôn chỉ bác ái, công bình cũng như để cho đạo hữu ([47])
được lập công tu đức mà giải oan, tiêu nghiệp hầu nhẹ bước giải thoát mê đời.
Nếu
đạo hữu không phát bồ đề tâm,([48])
không tu Bồ Tát hạnh ([49])
thì không sao thành quả mà thoát
được trầm luân.([50])
Nên chi, kẻ lập công hành thiện
nhiều là kẻ ấy có đủ cơ duyên
đắc đạo, mà người khuyên bảo cho kẻ khác được giác ngộ cũng là cơ duyên để giải
khổ, tăng trưởng sự giác ngộ của
mình và đôi bên cùng được giải khổ.
Còn
việc đạo sẽ dạy vào đàn xuân.
Bây giờ còn hai đàn. Một là đàn
truyền pháp có Di Đà dạy riêng. Nhưng xét ngày 16 chưa đủ các Giáo Hữu và Giáo
Sư, nên phải định một ngày nào
đó rồi cầu Người đến dạy, mà nhứt là Sơ ([51])
phải được dứt khoát công tác để lãnh pháp đặng hàm dưỡng tinh thần. Ngày ấy Hội
Thánh giúp Sơ lo bồi bổ sức lực. Liên Hoa ([52])
thủ cơ đàn ấy phải thanh
cao và đại tịnh.
Ngày
23 các giáo sĩ, các chức sắc sẽ
hội về Đền Thánh để Trần Tổng Lý kiểm điểm công tác và đề đạt sự tiến hành. Liên Hoa phải tròn phận sự với cặp
phò loan cho kịp ngày đi các
tỉnh.
Thôi,
Bần Đạo ban ơn và sẽ bố thần vào châu.
Trấn
rượu.
Lấy
bông rải ba lần nơi các chuỗi châu và đưa
chung để bố Thần. Mỗi lần rảy,
đều dùng một rảy hay ba rảy mà không được hai rảy.
Các
chuỗi châu cũng chưa đúng theo đạo pháp, nhưng tạm thời luyện để có pháp tu vô
úy ([53])
mà giao cảm cùng Thầy cho dễ, chớ ([54])
còn màu mè và chưa bảo đảm. Nó là pháp đời đời truyền thụ cho nhau, mà sau thời
lập pháp làm chi có được. Vậy các hiền đồ phải biết giá trị của pháp mà tôn
trọng cho lắm. Khi các hiền đồ chứng ngộ pháp đó mới thấy sự giá trị sẽ không
chi bằng được.
Vậy
Bần Đạo để lời khuyên các đạo hữu toàn Trung Tông hãy lo tu công lập hạnh. Có
duyên lắm mới được ngộ ([55])
kỳ lập pháp dựng trung hưng.([56])
Bần Đạo ban ơn.
([1]) đại giác 大覺: 1/ (Nghĩa thông thường) bậc hoàn toàn giác
ngộ (như Phật). – 2/ (Nghĩa trong bài) tỉnh ngộ nhiều; rất thức tỉnh; hiểu
biết rằng cuộc đời là giả tạm, không còn mải mê theo đời.
([3]) chuyển pháp luân 轉法輪: Quay bánh xe pháp; hành thiền; sự mở Đạo, truyền dạy
chánh pháp. – Pháp luân là
bánh xe pháp (tiếng Phạn: dharma-cakra);
trong đó, “cakra” là bánh xe chiến xa của Ấn Độ thời xưa. Bánh xe chiến xa lăn
nhanh tới thì có thể nghiền nát quân giặc. Truyền dạy chánh pháp giống như quay
bánh xe chiến xa để diệt giặc vô minh (sự mê mờ, u tối) của chúng sanh, giúp
chúng sanh giác ngộ.
([6]) minh tâm kiến tánh 明心見性: Sáng lòng (không còn bị phiền não che lấp)
thì thấy được bổn tánh, tức là đắc đạo, thành Phật thành Tiên. Nhà Phật nói “kiến tánh thành Phật”見性成佛 (thấy
tánh thành Phật).
([7]) chơn thường 真常: Vĩnh cửu chơn thực; bền vững thực
thụ; lâu dài đích thực; trái nghĩa với vô thường 無常.
([10]) càn khôn 乾坤: Trời đất; vũ trụ; âm dương. Bên ngoài thân
người là đại vũ trụ, có âm dương vận hành. Mảnh thân con người là tiểu vũ trụ,
cũng có bộ máy âm dương vận hành, nhờ đó con người có thể tu hành đắc đạo.
([14]) mười phương (thập phương 十方): Gồm có Đông, Tây, Nam,
Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, trên, dưới; nghĩa bóng là khắp nơi
khắp xứ. Trong mười phương có vô số thế giới và cõi miền, được gọi là thập phương thế giới 十方世界, thập phương pháp
giới 十方法界, thập phương tịnh độ 十方淨土, thập phương sát 十方剎 (sát là cõi
miền). Các vị Tiên Phật và chúng sanh trong mười phương được gọi là thập phương Tiên Phật 十方仙佛, và thập phương
chúng sanh 十方眾生.
([17]) Nam Kha 南柯: Đời Đường (Trung Hoa), Thuần Vu Phần 淳于 棼 say rượu, ngủ bên gốc cây hòe, và mộng thấy mình cưới
công chúa nước Đại Hòe An 大槐安, làm quan coi quận
Nam Kha. Vì đánh giặc thua trận, Vu Phần bị trị tội. Giật mình tỉnh dậy, Vu
Phần thấy có tổ kiến trên cành hòe phía nam (nam kha: cành cây phía nam). Do tích này, văn học nói giấc Nam Kha,
mộng Nam Kha (Nam Kha nhất mộng 南柯一梦) hay nói giấc hòe (hòe mộng 槐梦) để ám
chỉ công danh, phú quý trên đời giống như giấc mộng, ngắn ngủi và không thật.
([18]) khoa tràng; khoa
trường 科場: Trường thi, nơi tổ
chức thi cử. Trong Kỳ Ba đại ân xá, thế gian là trường thi, và mỗi người tu là
một thí sinh đang dự thi.
([26]) tang thương 桑蒼: Tức là tang
điền [biến vi] thương hải 桑 田[變為]蒼海 (ruộng dâu biến thành biển xanh); những sự
thay đổi lớn lao ở đời. – vân cẩu 雲狗: Tức là bạch vân thương cẩu 白 雲蒼狗 (mây trắng chó xanh). Mây trắng biến hình
thành chó xanh; việc đời biến đổi khôn lường.
([28]) phiền não 煩惱: Những thứ làm cho tâm hồn rối loạn, buồn sầu,
khổ não. Bất kỳ thứ gì tác động đến tâm hồn, làm trở ngại sự tu tập để đạt được
tâm thanh tịnh hay sự giác ngộ đều là phiền não. Vì bị mê lầm (ảo tưởng hay huyễn
tưởng) chi phối, vì muốn thỏa mãn ham muốn mà tâm hồn bị phiền não. Trái nghĩa
với phiền não là thanh tịnh 清淨. Kinh Đại Thừa Bản Sinh Tâm Địa Quán 大乘本生心地觀經 (quyển 7) nói tới bát vạn tứ thiên chư phiền não 八萬四千諸煩 惱 (tám vạn bốn ngàn thứ phiền não). Suy ra, Phật có tám
vạn bốn ngàn pháp môn để hóa giải tám vạn bốn ngàn thứ phiền não của chúng
sanh.
([31]) hý tràng; hý trường 戲場: Rạp hát; cuộc đời; cõi nhân gian (vì trên đời có đủ tấn
tuồng, giống như sân khấu một rạp hát).
([34]) A Tỳ 阿毘: Cũng gọi là Vô
Gián Địa Ngục 無間地獄. Đây là nơi tội nhân
bị trừng phạt không hề gián đoạn và không có ngày được thoát khỏi tù.
([38]) tam hoa; tam huê 三花[華]: Là ngọc hoa (tinh), kim hoa (khí), cửu hoa
(thần). Có câu: Tinh viết ngọc hoa, khí
viết kim hoa, thần viết cửu hoa. 精曰玉華, 氣曰金華, 神曰九華. (Tinh gọi là ngọc hoa, khí gọi
là kim hoa, thần gọi là cửu hoa.) – tam huê quy tụ 三花歸聚: Tu luyện
cho tinh, khí, thần tụ hết về Thượng Đơn Điền, tức là tam huê tụ đảnh 三花聚頂.
([40]) ngũ quan 五官: Năm giác quan, gồm thị giác 視覺 (mắt), thính giác 聽覺 (tai), khứu giác 嗅覺 (mũi), vị giác 味覺 (lưỡi), và xúc giác 觸覺 (da); chúng giúp con người nhận biết
bên ngoài, bằng cách nhìn, nghe, ngửi, nếm, và sờ mó.
([41]) tiền duyên 前緣: Duyên trước; điều kiện thuận lợi tích chứa do nghiệp
lành từ các kiếp trước để tạo cơ hội hay hoàn cảnh tốt cho kiếp này.
([48]) bồ đề
tâm 菩提心: Tâm bồ đề; tâm đạo; tâm cầu mong thành Tiên thành Phật.
Tâm bồ đề là ruộng tốt nuôi dưỡng hạt giống sinh ra Tiên Phật. Có phát tâm này
thì mới ham tu hành. Tâm bồ đề là chỗ bắt đầu của thệ nguyện cầu đạo, tu hành.
([49]) Bồ Tát hạnh 菩薩行: 1/ Cũng gọi Bồ
Tát đạo 菩薩道: Con đường tu tập của bậc Bồ Tát để thành
Phật, đó là tự lợi lợi tha 自利利他 (làm lợi cho mình và cho người khác); vì thế, mỗi hành
động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh. –
2/ Tu Bồ Tát hạnh cũng là tu lục độ ba la mật. Lục độ ba la mật 六度波羅蜜 gồm có: bố thí 布施, trì giới 持戒, nhẫn
nhục 忍辱, tinh tấn 精進, thiền định 闡定, trí huệ
智慧.
([53]) vô úy 無畏: Không sợ hãi. – pháp tu vô úy: Lần chuỗi châu đọc kệ
chú để không sợ tà tâm dấy động. [Phạm Văn Liêm chú]