2. NGÔ TÂM TỊNH ĐỊNH, ĐẠO TÂM KHAI
Trung Hưng Bửu
Tòa (Đà Nẵng)
Ngày 23-01 Bính
Thân (Thứ Hai 05-3-1956)
THI
NGÔ tâm ([1]) tịnh định, đạo tâm khai
MINH triết tọa
vong ([2]) yểu yểu ([3]) đài ([4])
CHIÊU khách ([5]) nguyên căn ([6]) truyền thánh đức
GIÁNG long ([7]) phục hổ ([8]) luyện chơn thai.([9])
Bần Đạo chào chư môn đệ.
Bần Đạo đến giờ nầy để lời bí quyết ([10]) cho chư hiền đồ
công phu học đạo hầu ([11]) rèn luyện con
người trở thành một Chơn Tiên có đủ Thánh Linh ([12]) để ra độ đời cứu
chúng trong ngày tới đây.
Ngày tới đây là một ngày đen tối. Nhơn loại sắp bước
vào quãng đường âm u. Nếu những Thánh môn đệ tử ([13]) mà không có một
thánh thể viên minh,([14]) một thánh tâm
linh giác để làm ngọn đuốc đưa đường cho lúc ban đêm mờ mịt, nếu ta không được
tâm ấy, thân ấy thì có khác gì kẻ kia cùng nhau u ám. Vậy nên người hướng đạo ([15]) ngay bây giờ
phải hạ thủ([16]) công phu để rèn
luyện cái tâm thể cho được thanh tịnh, thanh cao hầu tiếp lấy Thánh Linh, thông
công ([17]) cùng vũ trụ.
Mà muốn có Thánh Linh, muốn thông công cơ Tạo Hóa thì
phải tịnh dưỡng thường xuyên, diệt phiền trừ dục ([18]) mới giao tiếp
cùng lằn điển vô trần ([19]) đương vận chuyển
khắp bầu trời bao la vô tận. Nên chi,([20]) Thầy hằng khuyên nhắc
mỗi đệ tử trong Thánh môn phải tự nâng mình được xứng đáng ngang với quyền pháp
đã ban trao thì giá trị cao trọng mới được thế gian tôn kính.
Mà ai được quyền pháp xứng đáng kia? Chỉ có người
trọn vẹn đầy đủ đức tin. Người có đức tin là người thời thường cầu nguyện,
người đã không còn đặt mình vào nơi nào mà phải được Thầy chỉ định.
Nếu ta đứng chỗ đông người mà muốn cho mọi người
trông thấy, nghe tiếng nói của ta thì không có ai trong đám thấy và nghe bao
giờ? Vì vậy ta tìm chỗ vắng vẻ mà đến, mọi người được trông; nói trong đồng
trống mà mọi người được nghe.
Tên ta bốn biển ca ngợi, vì ta là khâm sai ([21]) của Thầy. Ta hằng ca ngợi
Thầy, niệm tưởng danh
Thầy thì danh ta cũng
được thế gian niệm tụng.
Nên người hướng đạo, hay là cả môn sinh, phải sống
liền cùng Thượng Đế. Không một cành hoa nào tách rời thân cây mà còn tươi đẹp
và kết quả, nên chư hiền đồ phải dính liền với Thượng Đế.([22])
Được Thượng Đế điều khiển mà không thối thác, không
từ nan, không sợ khổ sợ nguy, và có chịu đựng được thì mình được cứu một cách
xứng đáng. Nghĩa là uống được chén đau khổ ([23]) cho đời thì đời
mới hết đau khổ, mà mình cũng không còn khổ đau.
Nếu kẻ nào lo cứu mình mà không nghĩ lo cứu đời thì
kẻ ấy không khi nào được cứu. Vì là lòng ích kỷ nhỏ hẹp thì sự cứu rỗi không
trông tới được, mà phải có lòng bác ái vô biên. Lòng ấy là tâm linh của vũ trụ.
Tâm linh ở đâu thì sự sống hằng có, và giống lành
cũng do đấy mà nứt nở, nên phải có lòng ấy. Muốn có lòng ấy phải quên thân
mình. Thân mình được quên thì thân Bồ Tát lại hiện. Muốn có tâm Bồ Tát phải làm
bao nhiêu điều cần yếu:
1. Đức tin hồi hướng về Thượng Đế.
2. Ngôn ngữ, cử chỉ, hành động đều để cúng dường cho
Thượng Đế.
3. Thân phận được hiến trọn cho quyền năng Thượng Đế.
4. Vô vọng, vô dục mà tiếp giao, liên kết cùng Thượng
Đế.
BÀI
Cửa Trời mở chín
tầng mây
Điển quang xán
lạn Đông Tây ngập tràn.
Lần Ba ([24]) Thầy mở màn đạo pháp
Đem chúng sanh
quy hợp một nhà
Bốn phương trong
cõi ta bà
Hưởng cơ tận độ
Long Hoa dự kỳ.
Muốn nên Tiên, vô
vi thanh tịnh
Muốn về Thầy, nhứt lịnh tưởng
tin
Muốn tha, sớm tối
cầu xin
Muốn thành Bồ
Tát, muôn nghìn công phu.
Đạo muốn thành phải
tu tánh mạng
Luyện thân tâm để
gạn Thánh phàm
Phàm tâm danh lợi
còn tham
Sắc tài còn luyến
sao làm được Tiên?
Tiên Phật không
ưa quyền muốn tước
Tâm thương đời là
phước trường sanh
Ngày mai Giáo Hội
hoàn thành
Ngày nay phải có
pháp lành được trao.
Trao cho người
thanh cao Bồ Tát
Luyện thuốc lành
cứu các nguyên căn
Bịnh đời trăm
chứng khó khăn
Thuốc linh mới
thể ([25]) trừ căn bịnh tình.
Vậy, Sơ ([26]) hiền đồ bắt đầu
hạ thủ công phu bằng cách ngồi trong mật thất,([27]) để tâm hồi hướng
về Thượng Đế mà diệt phiền trừ dục bằng tâm niệm danh hiệu Chí Tôn, lần phăng
tràng hạt để quán tưởng,([28]) tâm thể duy
nhứt.([29])
Giờ Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu ngồi bán già. Bàn chân trái gác
chồng trên chân mặt. Hai bàn chân gác tréo nhau thành chữ thập 十. Hai tay ôm tròn
hình quả đạo để ngay trước ngực. Mắt nhìn một ngọn đèn lu, phản chiếu lại nơi
đơn điền. Lưng ngay, đầu thẳng.
Vậy đợt đầu mười lăm ngày phải làm nhiêu đó. Có hiểu
chưa? Các đợt khác sẽ liên tiếp dạy và truyền sau. Bắt đầu ngày nào vào nhập
tịnh?
[Sơ bạch: ...]
Sẽ có Liên Hoa ([30]) chấp bút.
[Sơ bạch: ...]
Không đi. Toàn, Phủ, Huệ Linh, Huệ Thành làm việc
theo thánh lịnh. Khi nào có lịnh phải về gấp. Cần mà phải đi thì sẽ cho Liên
Hoa đến một địa điểm nào, bất cứ trong thời gian nào sẽ có lịnh cho nó. Lúc ở
nhà chờ lịnh chuẩn bị đi Nam Việt ([31]) có nhiều sự cần
yếu và lo giữ các cơ đàn thường kỳ và bất thường ở Bửu Tòa.
[Sơ bạch: ...]
Bảy ngày đầu không luyện mà tịnh liên miên. Trừ bữa
ăn và giờ tắm bằng nước nóng sau giờ Mẹo, Dậu. Bữa ăn sau giờ tắm gội.
[Sơ bạch: ...]
Không thay đổi, nhưng phải dùng nhiều hoa quả và mỗi
bữa sáng dậy dùng chè tàu vừa đậm thiệt nóng mà háp mắt,([32]) nhưng xa xa,
cách năm phân tây. Ngủ nằm nghiêng bên phải theo hình ngọa thiền. Ngủ ngồi được
tốt hơn, cho thủy hỏa giao tế.
[Sơ bạch: ...]
Cái đó sau ngày 05 tháng 02. Ngày 06 tháng 02 vào
công phu phải có y pháp và theo tứ thời, không liên miên như đợt đầu. Có giờ
nghỉ, giờ chơi, giờ đọc sách, cúng Thầy, tiếp khách, và du ngoạn gần gần ở đó. Thôi, nếu cần Bần Đạo sẽ
truyền thần cho Liên Hoa hướng dẫn.
Hậu, Cư sắp xong sứ mạng vào
Trong lúc đi cũng như bắt tay vào công việc hành
pháp, phải đặt mình trong đức Thánh Linh và phải tôn xưng công đức Thầy rồi sẽ làm mọi
việc. Người truyền giáo phải đặt Thánh Linh trên hết mọi việc thì mọi việc được
thành công. Phải tin tưởng trong lời nói, việc làm ở người của ta đều có Thánh
Linh hằng ngự. Ta nhờ đức tin mà chuyển hóa chúng sanh. Cải tạo được người của
ta thì mới cải tạo cho thế gian; nên muốn cứu thế gian phải bằng sự sống.
Thế gian vì theo tà quyền, mà tà quyền là chúa sự
chết, thì thế gian phải chết. Ta nhờ có Thánh Linh mà được phục sinh, tiếp liền
cùng sự sống bằng đức tin dũng mãnh thì làm gì mà không thành công.
Môi-se ([33]) nhờ đức tin mà
thấy được quyền pháp cao tột đã hiện đến cây gậy trổ hoa và ra trái. Tốt
đẹp thay! Cây gậy hóa thành khúc nhạc du dương hoặc mềm diệu uốn khúc như sợi
dây.([34]) Cái đó có gì lạ
mà sự thật đó. Các hiền rán lập công và tin tưởng.
Nơi này, Sinh phải bố trí một ban giảng giải, đặng
sau mỗi ngày làm công quả của đạo hữu, hướng dẫn đọc thánh giáo, học giáo lý độ
một giờ hay bao nhiêu tùy sức khỏe, để cho đạo hữu vừa làm vừa học. Thì giờ quý
trọng. Ngày tháng không chờ ta. Nếu chậm trễ, ngày thị hiện của các Thánh đến
nơi mà chúng ta chưa sống lại. Vậy phải lo.
Ban Tạo Tác ghi tuổi tên các đạo hữu lập công bằng
các thứ cúng hiến cho Thầy trong dịp xây
dựng Thánh Đền. Mỗi tháng thượng sớ và cầu nguyện cho đạo hữu được tiếp đón
hồng ân và đệ tên về Hiệp Thiên Đài, cầu Thầy điểm danh cho đạo hữu, nhưng sẽ chuyển đồng ([35]) ở Nam Việt tiện
hơn.
Mỗi tháng hai kỳ đàn lệ. Nội vụ Liên Hoa tuân y.
*
([2]) tọa vong 坐忘: Ngồi quên.
Trạng thái khi hành giả ngồi thiền mà quên cả thân, tâm, và ngoại cảnh. Trang
Tử 莊子 (Đại Tông Sư 大宗師) diễn tả “tọa vong” như sau: Huy
chi thể, truất thông minh, ly hình khử trí, đồng vu đại thông, thử vị tọa vong.
墮支体, 黜聰明, 離形去智, 同于大通, 此謂坐忘. (Phế trừ [sự liên hệ với] thân mình và tứ chi, truất bỏ thông minh, lìa
hình thể vật chất, bỏ tri thức, để đồng nhất với Đại Đạo. Đó gọi là phép tọa
vong.) [Lê Anh Minh dịch]
([3]) yểu yểu 杳杳: Nói đủ là “yểu yểu minh minh” 杳杳冥冥; nói gọn là “yểu minh” 杳冥
(hỗn độn và mập mờ). Các từ gần đồng nghĩa: “hoảng hoảng hốt hốt” 恍恍惚惚, tức là “hoảng hốt” 恍惚 (mập
mờ, khó biết đích xác); “hồn hồn ngạc ngạc” 渾渾噩噩;
“hỗn hỗn độn
độn” 混混沌沌), tức là “hỗn độn” 混沌
(mờ mịt, không phân biệt được); “mê mê hồ hồ” 迷迷糊糊 (mù mờ, mơ hồ,
không rõ ràng). Các từ trái nghĩa: “thanh thanh sở sở” 清清楚楚; nói gọn là “thanh sở”
清楚 (minh bạch, rõ ràng); “minh minh bạch bạch” 明明白白, tức là “minh bạch” 明白; “thanh thanh sảng sảng” 清清 爽爽, tức là “thanh sảng” 清爽 (rõ ràng, sáng
sủa). Đạo Học Chỉ
([4]) đài 臺: Cái gì sừng
sững (như tòa tháp). Có lẽ câu thánh thi nói rằng lúc hành giả tọa thiền tới
trạng thái tọa vong và yểu minh thì thân hình bất động, vững chãi như tòa tháp.
([6]) nguyên căn 原根: Đồng nghĩa nguyên khách 原客, nguyên
nhơn 原人, tức là linh căn 靈根 có nguồn
gốc trên trời, xưa kia nhận lãnh sứ mạng xuống thế gian độ đời; khác với hóa nhơn 化人 là người
từ kim thạch, thảo mộc, cầm thú tiến hóa lên.
([7]) giáng long 降龍: Chế ngự rồng, chế ngự hỏa
trong tâm; luyện khí. Giáng long cũng
là hàng long (chữ 降 đọc là “giáng” hay “hàng”). Hỏa không còn bay
lên, tức là rồng bị chế ngự, cũng là lúc thủ đắc được diên (nguyên khí).
([9]) chơn thai 眞胎: Thánh thai 聖胎. Sau mười tháng
mang thánh thai (thập ngoạt hoài thai
十月懷胎) thì sinh ra anh
nhi 嬰兒. – Giáng long phục hổ luyện chơn
thai: Luyện khí và luyện tinh tức là luyện thành thánh thai để tạo anh nhi.
([12]) Thánh Linh 聖靈: 1/ Thiên điển
của Đức Chí Tôn. 2/ Theo Công Giáo thì: Ngôi Một là
Chúa Cha (Thượng Đế); Ngôi Hai là Chúa Con (Ngôi Lời); Ngôi Ba là Chúa Thánh
Thần (Thần Khí). Tin Lành gọi Thần Khí là Thánh Linh.
([22]) Chúa dạy: “Thầy là cây nho;
anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy
sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại
trong Thầy thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy,
quăng vào lửa cho nó cháy đi. Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại
trong anh em thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý. (Gio-an 15:5-7)
([23]) chén đau khổ: Chén đắng. Trước khi bị
quân dữ bắt và đóng đinh, trong vườn Cây Dầu (Ghết-sê-ma-ni) Đức Giê-su cầu
nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy,
xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mát-thêu 26:39) Sau đó, Chúa cầu
nguyện lần thứ hai: “Lạy Cha, nếu con cứ
phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha.” (Mát-thêu 26:42)
Rồi Chúa cầu nguyện lần thứ ba, cũng nói y như hai lần trước (Mát-thêu 26:44).
([28]) quán tưởng 觀想: Tập trung tâm niệm 集中心念 vào một đối tượng duy nhứt nào đó để đối
trị 對治 những vọng niệm 妄念 như tham dục 貪欲, v.v... Chẳng
hạn, người tu thấy mình quá ham muốn dâm dục 婬欲 thì hãy quán tưởng
thân bất tịnh 不淨, thân thể là túi da thúi (xú bì
nang 臭皮囊).
([33]) Môi-se (Moses): Vị ngôn sứ Do Thái
đã dẫn dắt người Ít-ra-en (the Israelites)
thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập và tại núi Xi-nai (Sinai), ông đã truyền đạt Luật Pháp (the Law) thiết lập giao ước (covenant)
của Thiên Chúa với họ. Trong giao ước này có Mười Điều Răn (the Ten Commandments).
([34]) Chưa rõ tích này
ở đâu. Theo Xuất Hành (Cựu Ước), Đức
Chúa Trời làm phép biến cây gậy của Môi-se thành con rắn (4:2-3); nhờ phép mầu
của Đức Chúa Trời, Môi-se đập gậy xuống sông Nile, nước sông biến thành máu
(7:17); giơ gậy trên đất Ai Cập, châu chấu tràn vào dày đặc (10:13-14); chỉ gậy
vào Biển Đỏ, nước biển rẽ ra tạo thành đường đi (14:21); đập gậy vào tảng đá,
nước liền từ đá chảy ra (17:6); quân Amalek đến đánh Israel, mỗi lần Môi-se giơ
gậy lên thì quân Israel chiến thắng (17:8-16).