CẨN TỪ
NGÔ thị Ngôi Lời xuống
thế gian
ĐẠI đồng lập pháp dựng Nam bang
TIÊN phàm ai biết làm sao biện
GIÁNG giáng thăng thăng Phước Huệ
Đàn.([1])
Trên đây là bài thánh thi xưng danh của
Đức Tôn Sư Ngô Đại Tiên lâm phàm mở cơ giáo pháp tại Trung Tông Đạo trong sứ mệnh
trung hưng.([2])
Ngôi Lời là một tên của Chúa cứu thế
Giê-su, nguyên ngữ Hy Lạp là Logos,
có nghĩa là Lời Nói (the Word). Phúc
Âm theo Thánh Gio-an chép (1:3): “Ban đầu
có Ngôi Lời. Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời. Ban
đầu Ngài ở cùng Đức Chúa Trời. Muôn vật bởi Ngài làm nên, và chẳng vật chi làm
nên mà không bởi Ngài.”
Ngôi Lời là Ngôi Pháp, Ngôi Hai. Ngôi
dùng Lời Nói (ngôn ngữ) để tuyên pháp dạy đạo, cũng gọi là Ngôi Thầy. Chính
Ngôi Thầy đã lãnh mệnh xuống thế gian, khai cơ giáo đạo, trao truyền pháp nhiệm
tận độ nhân sinh trở về Nước Trời.
NGÔI LỜI XUỐNG THẾ kết tập thánh giáo của
Đức Ngôi Lời thay mặt Đức Chí Tôn, thực thi giáo huấn của Đại Từ Phụ là “dìu dắt cả môn đệ Ta vào đường đạo đức đến
buổi chúng nó lập thành . . .” ([3])
*
Tất cả chúng ta đều là môn sinh của Thầy.
Ai ai cũng có dòng máu Cao Đài trong huyết quản; thế nên chết sống vì Đạo vì
Thầy, hành đạo không quản gian lao khổ nhọc. Chúng ta đã làm và làm rất nhiều,
nhưng những việc chúng ta làm thường có tính cách giải quyết sự việc theo hoàn
cảnh mỗi nơi, mà nơi nầy lại không giống nơi khác. Do đó, chưa đi vào cái chung
của Giáo Hội, của nền Tân Pháp Cao Đài hiện nay, mặc dù cái chung rất là cấp
thiết.
Cái chung rất cấp thiết đó là gì?
– Chơn truyền chánh pháp của Thầy đang
phân tán, không chỗ trụ. Biết trụ vào đâu để xây dựng Giáo Hội duy nhất?
– Danh nghĩa, danh dự Giáo Hội chưa tỏ
sáng cho một thời pháp đặc biệt trong vận hội mới.
– Tôn chỉ, mục đích chánh pháp Đại Đạo Kỳ
Ba còn bị che khuất bởi vì có sự phân hóa, sai biệt, bất nhất hiện nay.
– Xét hiện tình cơ Đạo mỗi nơi, thì thấy
Trời và người cách biệt, chưa hợp nhất, chưa đủ uy lực đưa bước nhân sinh hội
hiệp cùng Thầy.
Noel 1925, trong bước đầu còn quá sơ khai
của con đường công truyền, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại
Bồ Tát Ma Ha Tát giáo Đạo Nam Phương tuyên ngôn lần thứ nhứt:
Muôn
kiếp có Ta nắm chủ quyền
Vui
lòng tu niệm hưởng ân Thiên
Đạo
mầu rưới khắp nơi trần thế
Ngàn
tuổi muôn tên giữ trọn biên.
Nhưng con cái của Thầy không giữ được “trọn biên”, mà chạy theo diễn biến của
lòng người, khiến cho nền Đạo sớm bị phân hóa. Năm 1932, khi ban bửu kinh Đại Thừa Chơn Giáo dẫn lối vào tâm
truyền, Thầy tuyên ngôn lần thứ hai:
Muôn
kiếp các con chịu lạc đường
Thấy
vầy Thầy luống động lòng thương
Nên
đoan thệ với hàng Tiên Phật
Lập Đạo không thành chịu tội ương.([4])
Cũng nên biết “lập Đạo thành” nghĩa là gì? Trong Thánh Truyền Trung Hưng, Thầy thường dạy rằng Đạo thành là khi nào
chúng sinh hiểu hết thánh ý và làm đúng theo thánh ý.
Đêm 30 Tết Bính Dần (Thứ Sáu 12-02-1926)
vào giờ giao thừa, Đức Chí Tôn dạy:
“
Chiêu
buổi trước hứa lời truyền Đạo cứu vớt chúng sanh, nay phải y lời mà làm chủ,
dìu dắt cả môn đệ Ta vào đường đạo đức đến
buổi chúng nó lập thành, chẳng nên tháo trút.([5]) Phải thay mặt Ta mà dạy dỗ chúng nó.”
“Buổi
chúng nó lập thành”
chính là buổi chánh pháp trung hưng được thể hiện. Chánh pháp trung hưng là
chánh pháp của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để: trung vạn pháp, hưng vạn giáo, hòa vạn
chủng, thân vạn loại, siêu vạn linh.
Nhứt
vạn giáo mà trung vạn pháp
Hòa
vạn dân, tổng hợp vạn thù
Quy
nguyên Gia, Lão, Thích, Nhu
Cậy
tay nhân thế vận trù thi công.([6])
Tính chất cốt lõi của chánh pháp trung
hưng là: “Bất nệ ư kim, bất thiên ư cổ, phi cổ nhi
cổ, phi kim nhi kim, phi cổ phi kim, nhi cổ nhi kim, trung nhất thị Cao Đài.” 不泥於今, 不偏於 古, 非古而古, 非今而今, 非古非今, 而古而今, 中一是高臺.([7])
Nghĩa là: Không nệ nay, không thiên xưa, không xưa mà xưa, không nay mà nay,
không xưa không nay, mà xưa mà nay, trung nhất là Cao Đài.
Chánh pháp nầy được Đức Chí Tôn chọn nước
Việt Nam làm nước thánh, dân Việt Nam làm dân thánh; dùng điển quang khai giáo
cứu vớt sanh linh trong thời mạt tận.
Chánh pháp Cao Đài được thiết lập với hai
khoa giáo:
1. Nội giáo tâm
truyền là khoa tâm pháp vô vi Tam Thanh.
2. Ngoại giáo công truyền là khoa tướng
pháp hữu vi Tam Giáo.
Thầy dạy:
“Thầy nhứt định đến, chính mình Thầy độ rỗi
các con, chẳng chịu
giao chánh giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập chánh thể, có lớn có
nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng
Đảo.” ([8])
Lời dạy nầy nêu rõ hai khoa tâm pháp vô
vi (chính mình Thầy đỗ rỗi) và tướng
pháp hữu vi (lập chánh thể) là giáo
pháp đưa đến “Đạo
thành”. Đạo thành là con đường quy nhứt
tướng-tâm hay công-tâm duy nhất. Nghĩa là công truyền và tâm pháp đồng thời
phải tu. Đó chính là con đường hành đạo và tịnh luyện đi đôi của cơ Đạo miền
Trung với hồng ân tận độ.([9])
Khi đưa Đạo về Trung, Đức Thượng Đế đã
ban Ngọc Chỉ: “Thượng cờ quy nhứt minh
Chơn Đạo” ([10]) để “Trung từ đây đắp xây chánh đạo” (12)
bằng cách thực thi hai giai đoạn Chỉnh Cơ Lập Pháp và Khai Cơ Giáo Pháp rồi
tiến sang Khai Cơ Thành Đạo.
Vào năm Ất Mùi
(1955), tuy chưa khánh thành Trung Hưng Bửu Tòa, Đức Cao Đài Thượng
Đế đã mở đường cho môn sanh bước chân vào tâm pháp:
“Thầy
muốn sao cho các con ngay bây giờ nhập diệu,([11]) chứng
viên minh ([12]) để
phân phàm lựa thánh. Đừng nghe lý trí.([13]) Chớ
thấy mưu quyền ([14]) mà
rối loạn tâm linh, khó mong thành Đạo.
Đạo ở
tâm; tâm là Đạo. Tâm có chơn có vọng; Đạo có thực có hư. Bỏ vọng bỏ hư; lấy
chơn lấy thực. Phải dụng công hàm dưỡng,([15]) ngưng thần tụ khí mà trụ định lấy tâm
chơn như thanh tịnh thì chơn giác khai minh. Con có chí; Thầy có công giúp con
thành Đạo. Chưa được như thế, đừng lấy lý trí đoán xét mà đưa con cái của Thầy
vào hư cảnh rồi phải tội tình không nhỏ.” ([16])
Thầy giao cho Đức Lý Giáo Tông và Đức Ngô
Tôn Sư chăm lo cơ Đạo Trung Tông nầy.([17])
Đức Giáo Tông minh định:
Đây
là cái bước đường chung
Đường
chung ai cũng phải cùng mà đi
Đường
chung có ở tiên tri
Đường
chung nam bắc, Tam Kỳ ([18]) đoàn viên.
Đường
chung có Phật, Thánh, Tiên
Đường
chung có bát nhã thuyền đưa sang
Đường
chung không sợ lầm than
Đường
chung không phải nói càn nơi đâu
Trung
Tông có pháp nhiệm mầu
Có
Thầy dẫn lối có đầu có đuôi.([19])
Ta hiểu rằng “có đầu” là hai khoa tướng pháp (phổ độ) và tâm
pháp (tuyển độ); còn “có đuôi” là tướng-tâm hiệp một (tận độ).([20]) Như
thế là “Đạo
thành”.
Đức Ngô Tôn Sư dạy rõ:
“Cơ Đạo vận chuyển đến do cơ duyên tốt đẹp của
chư hiền nơi này thọ kỳ Giáo Pháp. Thánh ý cho biết sự chuyển vận đến đây đã
giáp một cuộc tuần hoàn, cơ Đạo lại phục sinh.
Khi “bước đường chung” bị sóng dồi gió dập, Đức Lý
Giáo Tông ban lời sách tấn:
“Lão rất buồn. Buồn cho đa số chúng sanh bị ở trong vòng đen tối,
bị sự trói buộc chưa ngõ thoát ra. Nhưng cũng rất mừng. Mừng được thấy một số
đạo đồ có duyên lành quả tốt, sớm giác ngộ theo con đường chánh pháp, biết tìm
lấy lẽ sống hằng còn. Thật là một ân phước của Kỳ Ba tận độ, đã đi trúng con
đường về cùng Thầy một cách chắc chắn. Kẻ nào không bước qua con đường đạo pháp
này thì khó mong về cùng Thầy được. Nhưng con đường này phải trải qua đôi đoạn
chông gai trắc trở, phải có sự cố gắng mới đi đến chỗ thành công.
Thành
công ở nơi lòng kiên nhẫn
Bước
đường trời ([23]) tinh tấn vượt qua
Đường
này có ở đâu xa
Ở tâm
thanh tịnh giao hòa âm dương.
Đường
này cốt tình thương, lẽ thật
Cả
sanh linh vạn vật đều chung
Đường
này mầu nhiệm vô cùng
Người
đầy duyên phước mới cùng bước đi.
Bước
đi đến vô vi đạo pháp
Mới
là nơi hội hợp cùng Thầy
Kiền
kiền ([24]) giữ mãi chớ khuây ([25])
Pháp
luân thường chuyển ([26]) mới đầy mới viên.([27])
Chi
chi cũng tịnh yên là gốc
Cốt ở
nơi tam độc ([28]) trừ xong
Để
cho thần, khí lắng trong
Tam
huê tụ đảnh ([29]) mới mong đắc thành.
Phải
diệt hết bả danh mồi lợi ([30])
Đường
sắc tài chớ khởi niệm tâm
Hễ là
mến Đạo huyền thâm
Con
đường thế sự chớ cầm chớ vin.
Người
nào còn giữ gìn vật chất
Thì
pháp mầu Thầy cất chẳng cho
Chẳng
cho, muôn kiếp sầu lo
Ở nơi
hỏa ngục khó dò đường ra.
Ra
khỏi trần mê ([31]) có
khó gì
Con
đường đạo pháp phải cùng đi
Mới
mong về đến nơi Thiên Quốc
Thiên
Quốc lên rồi mới hết nguy
Nguy
hiểm cho người chẳng giác tâm
Lợi
danh sớm tối mải (31bis) ôm cầm
Pháp
mầu đạo đức coi khinh rẻ
Nên
đọa đày thân mãi những năm.” ([32])
Đức Ngô Tôn Sư dạy rằng chánh pháp trung
hưng là gồm cả tướng lẫn tâm:
“Đời đảo điên thì Đạo phải kịp thời chấn hưng chánh pháp, vì tôn giáo là cứu cánh ([33]) của nhơn loại. Muốn cứu cánh([34]) vai tuồng,([35]) hướng đạo ([36]) phải làm gì? Nếu không tu tâm pháp, không hành chánh pháp
thì làm sao đương vi sứ mạng
trung hưng? Vì
vậy Bần Đạo lãnh mệnh đến thế gian ban truyền cả hai: Tâm, Tướng.
Về
Tướng (hữu vi) là phần truyền giáo thực nghiệm.
Về Tâm (vô vi) là đắc
ngộ bí truyền.” ([37])
Trải qua bao nhiêu khó khăn thử thách để
hiểu biết thánh ý và thực hiện đúng theo thánh ý, mới có thể tiến đến xây dựng
được Tịnh Đường (Trung Tông Thánh Tịnh).
Trong giai đoạn tiến đến tâm pháp vô vi
Tam Thanh, môn sanh được Ơn Trên ban truyền pháp tu châu để làm nền “trúc cơ”
là cầu nối từ tướng pháp hữu vi. Hồi
Hướng Linh Châu và Tướng Châu (hạ thừa),
Tâm Châu (trung thừa), rồi đến Tam
Bảo Hoàn Châu (thượng thừa) đều là pháp tu Chiếu Minh Vô Vi Tam Thanh.
Đức Ngô Minh Chiêu dạy:
“Ta
vâng mạng Cha Ta, lần này đến thế gian để tận cứu tất cả chúng sanh. Từ lâu Ta
đã kêu gào đánh thức cho những ai có căn lành quả tốt đến với Ta để Ta trao
truyền pháp nhiệm, để đặng hiệp vầy cùng Cha Ta. Thế mà trải qua bao nhiêu năm
trời rồi mà chẳng có mấy kẻ chịu nghe lời Ta. Đã không chịu nghe lời mà còn phỉ
mạ kích bác Ta nữa là khác. (...)
Ta nói thật,
ngoài Ta ra thì không còn ai là người cứu độ nữa. Vì sứ mạng Lần Ba này Cha Ta
đã giao cho Ta nên Ta có quyền cứu độ mà cũng có quyền xin Cha Ta để hành phạt.” ([38])
Và Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế dạy:
Nơi Trung Tông hoàn thành
cơ chỉ ([39])
Đạo pháp trao lập chí luyện tu
Nên Tiên cũng lắm công phu
Nên người Bồ Tát
đương đầu khó khăn.([40])
“Cơ
chỉ” chánh pháp đã hoàn thành tại
Trung Tông Thánh Tịnh và Đức Ngô vâng ý Thầy chính thức làm chủ mối đạo dìu dắt
nhân sanh “vào
đường đạo đức đến buổi chúng nó lập thành . . .” ([41])
Đạo được thành thì người tu mới thành
đạo. Ta biết rằng Tân Luật quy định
phương tu của nền tân pháp Cao Đài. Tân Luật có ba phần: Một là Đạo Pháp; hai là Thế Luật; ba là Tịnh Thất.
Từ buổi đầu khai Đạo đến lúc phân chia chi phái, chưa có nơi nào lập Tịnh Thất.
Khi chuyển Đạo ra Trung Kỳ, Ơn Trên chú giải Tân Luật.([42]) Thánh
Tựa Tân Luật Chú Giải có lời Thầy dạy:
“Sự
chi phái của các con chẳng khác gì cây kia ban đầu một gốc sanh ra muôn nhánh
ngàn chồi. Trong nhánh chồi có nảy ra mụt mắt, kềnh càng mà chống chỏi nhau,
khó có phương nào xếp lại một cho đặng. (...)
Vậy
đến Trung Kỳ, Thầy quyết định chú giải rõ Tân Luật đặng cho các con thi hành,
nghĩa là trở lại nơi gốc cây vậy.”
Suy nghiệm chỗ nầy, ta hiểu được câu: Khai Đạo tại
Tuần tự theo vận chuyển ứng hóa của Ơn
Trên, Trung Tông Thánh Tịnh thành lập vào năm Tân Sửu (1961).
Đàn cơ ngày 29-6 rạng 01-7 Tân Sửu (Thứ Năm 10-8-1961), Đức Cao Đài Tiên
Ông dạy:
“Nay
Thầy đến đây chỉnh cơ lập pháp, ban sứ mạng trung hưng.
Về
công truyền, Thầy dạy duy nhứt nội bộ ([44]) và kết hợp hết các pháp môn kim cổ Tứ
Giáo.([45])
Về
tâm truyền thì gồm các phương môn tận độ: Ban pháp phục sinh; ban pháp khai thế
tạo thế; ban pháp bí tích.
Có nghĩa, tâm
truyền tông đạo trung hưng là tu hẳn về Thầy; là tu cầu chứng ngộ cứu đời; là
tu học các bí tích làm đầu họ và giáo sĩ; là tu cầu
quyền pháp sống trong cơ tái tạo tại thế, v.v…
Vậy thì cơ tâm
truyền gồm năm bậc để xây dựng một Tòa Thánh quyền pháp ngày mai. Ngày mai
không còn nhiều chi phái như bây giờ mà chỉ có một Giáo Hội duy nhất chia làm
hai đường: công truyền và tâm truyền.
Tuy
chia phân ra làm hai chớ kỳ trung là một. Tâm truyền làm cơ chỉ nòng cốt cho
Giáo Hội. Công truyền làm môi giới trợ đạo. Vì vậy, không qua thiên đạo ([46]) không thể chấp hành quyền pháp của Giáo
Hội.
Bởi
vậy, người chức sắc nào cũng tu ở Tịnh Đường, cũng thọ pháp. Giáo sĩ cũng tu ở
Tịnh Đường, cũng thọ pháp. Nếu người giáo sĩ mà không đạt tâm pháp thì làm sao
thông suốt lẽ đời?”
Ngày 02-01 Kỷ Dậu (Thứ Ba 18-02-1969) tại
Tịnh Đường, Đức Chí Tôn giáng cơ, ban hiệu đàn cho Trung Tông Đạo:
“Hôm nay Thầy thấy các con nơi này chí tu đã
vững, lòng đạo đủ đương lấy gánh nặng quyền pháp tự độ độ tha, thành kỷ thành
nhân,([47]) hầu đem
nhau lại hiệp một cùng Thầy. Thầy ban cho nơi này một hiệu đàn gọi là HUYỀN
QUAN.([48]) Các con
hướng vào đó mà tu, noi theo đó mà hành.
Trời
đất không ngoài cái đó. Thành Tiên Phật bởi đó. Sự sống ở đó. Lẽ thật trong đó.
Tình thương phát xuất do đó. Kiền khôn thế giới đứng vững nhờ đó. Các con đắc
đạo là đắc cái đó. Mọi người mọi giống chung chạ mà không tiêu diệt lẫn nhau
cũng bởi đó…
Huyền
Quan chẳng những là một phương tiện đạo đức của người triết nhân, mà còn bao
hàm một sức mạnh thiêng liêng. Các con nương đó làm gậy đỡ chân trên đường gồ
ghề hiểm trở, để tìm những con chiên lạc đem lại một chuồng và cũng nương đó
chống đỡ cơn phong ba, thẳng về với Thầy…”
Để xác tín và củng cố đường tu trung đạo,
Đức Lý Thái Bạch dạy:
“Con
đường duy nhứt, tâm tướng không hai, vô vi hữu hình là một, nên mới có thánh
thất, tịnh thất để đưa toàn đạo từ tiệm giáo đến đốn giáo, từ phổ độ đến tuyển
độ.” ([49])
Đạo Đức Kim Tiên dạy:
“Bước
đạo nơi đây đương thời Phục khởi. Bước tu của mấy em qua khỏi thời Thái, bước
sang thời Đại Tráng. Với tư cách là huynh trưởng, Bần Đạo thay mặt Thầy đến đây
có mấy lời chỉ dạy. Các em thanh tịnh đón nghe.
Đã
biết bước tu của mấy em đến thời Đại Tráng thì biết rằng không còn bao lâu nữa
đến hào cửu ngũ là ’Long phi
tại thiên’ đương hành sứ mạng.
(...)
Các
em đã biết đường sứ mạng nơi đây lớn lao hệ trọng là dường nào, nên nó đòi hỏi
các em phải tu chứng đạo quả trường sanh, liễu ngộ chơn như tự tánh thì mới đồng
nhứt cùng Thầy mà khai đường tận độ. Đó là sự đòi hỏi của cơ Đạo và sự mong mỏi
của Thầy.
Gánh
đạo trung hưng bước vững vàng
Đây
là ơn phước của Trời ban
Lập
chí công phu cầu liễu ngộ
Thành
Tiên chứng quả vạn bình an.” ([50])
*
Các thánh giáo kết tập lần nầy để làm tài
liệu tu học tốt cho chư tịnh viên Trung Tông Thánh Tịnh –
Huyền Quan Đàn trong cơ giáo pháp tiến đến thành Đạo. Về hình thức:
– Trích một câu văn hay đôi câu thánh thi
trong mỗi bài thánh giáo để tạm mượn làm nhan đề.
– Các chỗ lược bớt được chỉ rõ bằng ký
hiệu (...).
Ngoài ra, với thiện ý muốn cho chư tịnh
viên bớt đi được phần nào trở ngại về từ ngữ, hiền hữu Huệ Khải trợ giúp phần
chú thích. Dĩ nhiên, các sai sót ắt khó tránh khỏi; chúng tôi luôn luôn mong
ước có được tâm hỷ xả, lòng cảm thông, và lời chỉ giáo của các bậc hành giả cao
minh, thông tuệ.
Rất lòng thành tín.
Trung Tông Thánh Tịnh
Huyền
Quan Đàn
Quý
Xuân Giáp Thìn (2024)
Môn
sinh Phạm Văn Liêm cẩn bút
([9]) Xem: Phạm Văn
Liêm, Hồng Ân Tận Độ. Hà Nội: Nxb
Hồng Đức, 2016. (Chương Trình Chung
([11]) nhập diệu 入妙: Đạt tới cảnh giới thiêng liêng, huyền diệu (đạt đáo thần diệu chi cảnh 達到神妙之境).
([13]) đừng nghe lý trí: Đừng tin tưởng vào óc khôn ngoan căn cứ theo lý trí thế gian. Trong Thư
1 Cô-rin-tô (3:18-19), Thánh tông đồ Phao-lô cảnh báo: Nếu trong anh em
có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để
được khôn ngoan thật. Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên
Chúa.
([17]) “Trung Tông Đạo” là dòng đạo miền Trung (Trung Kỳ) có sứ mệnh trung hưng
chánh pháp. Thánh giáo dạy về cơ Đạo miền Trung với sứ mệnh trung hưng thường
hay nói tới Trung Tông Đạo. Chẳng hạn: “Cơ
Trời ứng hiệp, Đạo Thánh rộng khai, nơi Trung
Tông Đạo ở vào xứ nầy, mà cũng năm nầy, Đức Chí Tôn đã chuẩn y cho Tam Giáo
dựng Trung Hưng Bửu Tòa để xây đắp một Giáo Hội duy nhất, gọi là Giáo Hội Trung
Hưng. Nói đến hai chữ Trung Hưng thì cũng mừng, mà cũng đau khổ cho những anh
trước chị xưa không giữ đúng luật pháp chơn truyền, vì một lý do đen tối còn
sót ở nơi lòng mà làm chia phái phân chi.” Đức Hưng Đạo Tổng Lý, Trung Hưng
Bửu Tòa, 06-02 Bính Thân (Thứ Bảy 17-3-1956).
([19]) Thánh Truyền Trung
Hưng của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài,
trang 43, tập đánh máy (của Giáo Sư Ngọc Tín Thanh). Ghi chú: Những bài
thánh giáo từ năm 1949 đến 1954 đa phần chưa kết tập, chỉ là các bản chép tay. [PVL chú]
([20]) Thầy cho Đức Lý Giáo Tông và Đức Ngô Tôn Sư chăm lo Trung
Tông Đạo: 1/ “Hiện Tông Đạo các con Thầy
quyết giao cho Giáo Tông Lý Thái Bạch chăm nom dẫn dắt.” Đàn cơ ngày 14-4
Ất Mùi (Thứ Bảy 04-6-1955) tại thánh thất Thái Hòa. – 2/ “Vì vậy Bần Đạo lãnh mệnh đến thế gian ban
truyền cả hai: Tâm, Tướng.” Đàn cơ ngày 14-3 Giáp Thìn (Thứ
Bảy 25-4-1964). Bài 44 trong Ngôi Lời
Xuống Thế.
([24]) kiền 虔: Kính thành. – kiền kiền 虔虔: Rất kính thành. – kiền
kiền 乾乾: Tích
cực và thận trọng. Tượng từ hào cửu tam của quẻ Càn nói: Quân tử chung nhật kiền kiền. 君子終日乾乾. Người quân tử suốt ngày tích cực
và thận trọng giữ mình.
([29]) tam huê 三花, 三華: Là ngọc hoa (tinh), kim hoa (khí),
cửu hoa (thần). Có câu: Tinh viết ngọc hoa, khí viết kim hoa, thần
viết cửu hoa. 精曰玉華,氣曰金華,神曰九華. (Tinh gọi là ngọc
hoa, khí gọi là kim hoa, thần gọi là cửu hoa.) – tam huê tụ đảnh 三花(華) 聚頂: Tu luyện cho thần huờn hư, tinh khí thần tụ hết về
thượng đan điền.
([30]) bả danh
mồi lợi: Danh lợi chi nhĩ 名利之餌; danh lợi cám dỗ con người phạm lỗi, trái đạo lý, mất
nhân phẩm, hủy hoại kiếp người nên danh lợi giống như miếng mồi tẩm độc để giết
người.
([31]) trần mê: Cõi trần gian mê muội.
(31bis) mải: Mảng; cứ; một mực say mê, dồn hết tâm trí cho một việc, không để ý tới việc khác.
([42]) Đức Lý Giáo Tông
chú giải. Thông công do Hiệp Thiên Đài Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên là Châu
Minh, Bạch Long Cung Hoàng, và Đại Thanh trong đêm 01-7 nhuần Mậu Dần (Thứ Năm
25-8-1938).
([43]) Giới tu thiền (công phu, tịnh luyện) thường hiểu: Khai đạo tại Nam là khi công phu vận hỏa
khởi từ Nam phương (Bính, Đinh, hỏa); thành
đạo tại Trung là quy tam bửu hiệp ngũ hành tại trung ương (Mồ, Kỷ, thổ; tỳ
thổ). Nhưng giới tu hành tại miền Trung nhiệm ý từ hai câu thánh thi của Đức
Chí Tôn: “Trung từ đây đắp xây chánh đạo
/
([44]) duy nhứt nội bộ: Thống nhứt nội bộ (tôn giáo Cao Đài)
thành một khối, không thể chia tách được.
([46]) thiên đạo 天道: Con đường nội tu (tịnh luyện) để giải thoát, cũng gọi thiên
đạo đại thừa, thiên đạo giải thoát.