Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2017

5/6 NHỚ ĐẠT LINH / NĂM NĂM ĐI TÌM THÁNH SỞ CAO ĐÀI VỚI ĐẠT LINH

NĂM NĂM ĐI TÌM THÁNH SỞ CAO ĐÀI VỚI ĐẠT LINH
Đạt Truyền
Buổi ban sơ
Năm 1998 tôi vào Cơ quan Phổ thông Giáo lý Đại đạo với quyết tâm tu học theo đạo Cao Đài. Trước hết tôi liên tục thu thập các kinh sách Cao Đài để tìm hiểu và học hỏi, sau đó tôi sẵn sàng giúp các bạn khác những kinh sách cần thiết.
Tôi lần lượt đọc các sách được bày bán trong một tủ nhỏ ở quán chay Định Ý như: Tìm hiểu tôn giáo Cao Đài (Cơ Quan PTGL); Cao Đài khái yếu (Đạt Đức); Tìm hiểu đạo Cao Đài (Đỗ Vạn Lý), Lịch sử đạo Cao Đài phần vô vi, phần phổ độ (Đồng Tân); Nói chuyện Cao Đài (Thiên Vương Tinh); Tìm hiểu kinh cúng tứ thời, Quan Thánh xưa và nay, Lịch sử đạo Cao Đài thời kỳ tiềm ẩn 1920-1926 (Lê Anh Dũng)...
Tôi cũng sớm được đọc Lược sử thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, rồi Đôi nét về một số thánh sở tại thành phố và phụ cận (họ đạo Trung Minh). Tôi ao ước muốn tìm biết Đạo Thầy đã có bao nhiêu thánh thất, thánh tịnh? hiện ở đâu?
Không thỏa mãn với những tài liệu hiện có về các thánh sở Cao Đài, tôi quyết tâm tự đi tìm tài liệu. Trước tiên, khoảng cuối năm 1998 tôi gặp hiền huynh Lê Anh Dũng tại văn phòng Trung tâm Ngoại ngữ của huynh trong khuôn viên trường Đại học Kinh tế (đường Nguyễn Đình Chiểu, quận 3). Đây là lần đầu tiên chúng tôi biết nhau, và nhờ đó biết thêm rằng chúng tôi cùng xuất thân từ trường Quốc gia Thương mại (thời huynh Dũng đổi tên là Ban Thương mại, Phú Thọ).
Buổi sơ ngộ, tôi chỉ nói đơn giản, chung chung là đang muốn tìm công quả để dễ bề tu học. Hiền huynh Lê Anh Dũng không do dự, bàn ngay với tôi về việc sưu tầm hình ảnh, sử liệu các thánh sở Cao Đài trong toàn quốc để viết và in thành sách. Hiền huynh sốt sắng soạn ngay một thư ngỏ và ký tên với tư cách cá nhân, kèm theo mẫu hướng dẫn thu thập thông tin ban đầu về các thánh sở. Hiền huynh cũng tặng tôi các đầu sách do huynh viết về đạo Cao Đài để khi đi các nơi, tôi có món quà làm quen với đạo hữu gần xa.
Cái khó nhất ban đầu là làm sao có được sơ bộ danh sách các thánh thất, thánh tịnh của các hội thánh trong khi tôi chỉ là một nhân viên mới vừa bước chơn vô Cơ quan Phổ thông Giáo lý, chẳng những chưa quen thân với người trong Cơ quan, mà cũng chưa hề biết người nào trong các hội thánh. Những tổ chức đạo Cao Đài rất thiêng liêng đối với tôi. Tôi đến thánh thất Sài Gòn, đi Tây Ninh, rồi Bến Tre nhiều lần để làm quen, để tìm tài liệu. Tôi tham gia đi liên giao hành đạo các nơi cũng với mục đích trên.
May mắn đầu tiên là một hôm tôi nhận được điện thoại của hiền huynh Lê Anh Dũng mời vào ngay văn phòng của huynh, vì đang có hiền huynh Khai thế Nguyễn Văn Lãnh ở đó. (Văn phòng này từng là chỗ huynh Khai thế ghé vào mỗi khi từ Bến Tre lên Thành phố họp. Sau này cũng là chỗ tôi thường hay lui tới để bàn việc đạo.)
Nhà tôi khá gần trường Đại học Kinh tế. Tôi vội đến nơi. Sau khi được giới thiệu, tôi đặt ngay yêu cầu xin huynh Khai thế cung cấp danh sách các thánh sở Cao Đài của Ban Chỉnh Đạo. Không bao lâu sau, tôi được toại nguyện với danh sách ba trăm thánh sở của Hội thánh Ban Chỉnh Đạo.
Còn với Hội thánh Tây Ninh thì khó lòng có được. Thiết tha mong muốn, rất bền lòng chờ đợi, sau rốt, tôi được hiền huynh Lễ sanh Nguyễn Văn Thọ (Phó cai quản thánh thất Sài Gòn, nay là Thái giáo hữu cai quản thánh thất Sài Gòn) giúp cho chúng tôi danh sách các thánh thất Tây Ninh do hiền huynh tự thu thập lấy.
Vậy là bước đầu tôi đã có cái mốc để tiến hành điền dã.
Đầu năm 1999 tôi mang máy chụp ảnh nhỏ, một mình chạy Honda đi tìm từng thánh sở trong Thành phố rồi qua đến các tỉnh lân cận để chụp ảnh và thu thập tài liệu. Để biết phương hướng đi, tôi dùng các bản đồ của từng tỉnh riêng lẻ (nguyên là phụ bản của báo Sài Gòn Mới in năm 1959-1960 để tặng độc giả) hoặc các bản đồ khác. Khi tôi trao đổi với huynh Lê Anh Dũng về các bản đồ này, huynh liền nhờ tôi sao lại mỗi thứ một bản, vì bấy giờ huynh đang tham khảo tài liệu Cao Đài lưu trữ ở Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 2 (quận 1), nên cũng cần tìm hiểu các địa danh thời trước.
Mãi đến giữa năm 1999 tôi mới tình cờ gặp được tập bản đồ hành chánh của Bộ Thương binh Xã hội dùng để tính tiền trợ cấp các vùng sâu vùng xa nghèo khó. Nhờ vậy mà tôi có phương tiện tỉ mỉ hướng dẫn đường đi tốt hơn. (Vài năm sau tôi tìm thêm được Tập bản đồ hành chính Việt Nam in tại Hà Nội năm 2003, rất đẹp và chi tiết. Tôi vốn thích bản đồ từ thời đi học.)
Quen anh Ba Tài và biết thánh thất Bàu Sen
Khoảng gần cuối năm 1999, tôi nghe tiếng đồn ở thánh thất Bàu Sen (quận 5) có anh Nguyễn Văn Tài (Ba Tài), người rất tốt, luôn sốt sắng chăm lo công việc đạo. Tôi bèn ghé Bàu Sen làm quen và bàn với anh mời với một số anh em khác đi thăm một số thánh sở ở Tiền Giang.
Đầu năm 2000, mở màn với chuyến đi Tiền Giang. Cùng quý anh Ba Tài, anh Năm Hạnh (em anh Ba Tài), anh Hồ Văn Dẫu (Hai Dẫu), anh Nguyễn Quang Thoại, anh Nguyễn Văn Phát (Năm Phát), và anh Trần Văn Quang (Sáu Quang), tôi đi thăm trước nhứt là thánh thất Khổ Hiền Trang với mục đích đến ngọn núi Lan, ghé nơi Đức Phạm Hộ pháp cho đào lấy Long Tuyền kiếm, phá huyệt ếm của ngoại bang (vì họ không muốn cho nhân tài Việt Nam xuất hiện).
Chúng tôi cậy nhờ ông cai quản thánh thất Khổ Hiền Trang xin phép công an địa phương và hướng dẫn đi đến nơi, nhưng ông cai quản tỏ vẻ rất lo ngại và hứa sẽ xin phép sau. Rốt cuộc chúng tôi không đến được.
Kế tiếp, chúng tôi viếng Tòa thánh Cao Đài Việt Nam, Tòa thánh Chơn Lý, chùa Vĩnh Tràng. Lại xuống Gò Công thăm đền thờ Trương Công Định rồi qua Gò Công Đông, trở về Sài Gòn theo ngả phà Mỹ Lợi (cầu Nổi cũ).
Sau chuyến đi nầy, tinh thần anh em có phần phấn khởi, hứng thú. Tôi và anh Ba Tài dành thì giờ ưu tiên cho các chuyến đi tiếp về sau. Cứ khoảng một tuần lễ sau ngày trở về, chúng tôi cùng hẹn nhau trong một vài ngày là tiếp tục đi chuyến khác.
Ban đầu trong gia đình, người nhà hay hỏi chúng tôi đi đâu, chừng nào về. Chúng tôi không trả lời được vì địa chỉ thánh sở không rõ ràng, đường đi thì không biết rõ, không biết tên đường tên ấp, có nhiều thánh sở không biết tên và địa chỉ. Đa phần là các thánh sở nầy ở dạng đơn lập, không thuộc chi phái nào, hoặc ở nơi hẻo lánh. Nhiều lần trải qua tình trạng như vậy, cả hai gia đình tôi và anh Ba Tài không còn hỏi nữa và như vậy, khi đi, hai chúng tôi không hề liên lạc về nhà. Khi nào công việc xong thì mới về. Chúng tôi không liên lạc về nhà còn có lý do là không có thì giờ, và thường ở nơi hẻo lánh chưa có phương tiện liên lạc, chưa có điện thoại di động như ngày nay.
Điền dã
Mùa mưa, đi vùng cao; mùa khô nắng chúng tôi đi vùng đồng bằng. Cùng đèo nhau trên một chiếc xe Honda. Tỉnh gần thì cỡi Honda 50, còn nơi xa thì đi dùng xe Honda 100 phân khối của huynh Tài. Thông thường huynh Tài chạy xe, tôi ngồi phía sau dò bản đồ để định hướng, định nơi đến.
Chúng tôi nhắm hướng mà đi, tìm người mà hỏi thăm. Suốt năm năm trời, đi khắp từ Bắc chí Nam trên mọi nẻo đường, chúng tôi chấp nhận bị phạt về tội không đội nón bảo hiểm. Lý do là nón bảo hiểm quá cồng kềnh, không chỗ để, làm choán hết chỗ đựng kinh sách, lại làm tăng sự chú ý của người khác. Mầu nhiệm thay! Qua thời gian dài như vậy, dù gặp nhiều trạm kiểm soát cố định và lưu động của cảnh sát giao thông dọc con đường thiên lý, chúng tôi chưa hề bị… thổi còi lần nào.
Trước khi đi, chúng tôi vẽ trước một số điểm đến trên bản đồ tỉnh, sau đó tôi nối liên tiếp các điểm đến thành con đường phải đi. Vì vậy, con đường đi của chúng tôi sẽ không theo con đường cái, mà nó rất quanh co trên khắp nẻo đường đi tắt. Chúng tôi thường không đi trở về bằng con đường đã đi qua để giữ an toàn và rút ngắn đoạn đường.
Có một hôm trên đường đi tắt từ một xã nầy qua xã khác ở huyện Tam Bình, phải qua một cây cầu khỉ, tôi dẫn xe đi trước, anh Ba Tài đi sau, giữa cầu thình lình bánh xe trước lọt xuống cầu. Hai anh em chúng tôi cùng cố hết sức ghì phía sau xe lại, không thể nào khiêng xe lên nổi, cả hai cùng la lên khiến người hàng xóm chạy ra khiêng giúp xe vô mé bờ.
Rất nhiều phen chúng tôi chạy xe trên đường bờ ruộng để đến thánh thất. Một hôm trên bờ chạy đến thánh thất Long Phụng, trong lúc chạy gấp, gặp phải con mương được lấp đầy bằng bó rơm mà không biết, hai anh em chúng tôi vấp phải mé mương, té nhào xuống ruộng. Cả hai khắp mình mẩy đều dính đầy bùn. Đến vùng Bạc Liêu, Cà Mau, có nhiều lần hai chúng tôi đi bằng tắc ráng (loại xuồng nhỏ và dài). Năm 2003, chỉ để chụp được ảnh thánh tịnh Hắc Long Môn, chúng tôi phải thuê một chiếc tắc ráng với giá một trăm ngàn đồng cho lượt đi và lượt về.
Thường, buổi sáng chúng tôi bắt đầu đến một thánh sở ở xa nhứt rồi lần lượt quay về. Chúng tôi có chỉ tiêu mỗi ngày phải tìm được tối thiểu là mười thánh sở. Mỗi khi tìm gặp được một thánh sở Cao Đài. Chúng tôi rất sung sướng và vui mừng như thắng một trận, chiếm được một chiến lợi phẩm. Khi tìm được một thánh sở xong, chúng tôi lập tức lo chạy đi tìm thánh sở khác nên không có thì giờ nghỉ ngơi.
Chúng tôi gặp rất nhiều vị đầu họ đạo, hội trưởng, cai quản thánh sở, chủ đàn, thủ đàn. Có vị có tướng mạo tiên phong. Có vị có tâm từ bi quảng đại. Có vị tỏ rõ ý chí sắt son theo Thầy. Tất cả đã làm cho chúng tôi phải học tập, phải ghi nhớ.
Có vị nhận được quyển Đại thừa chơn giáo do chúng tôi mang theo biếu, mừng vô kể bèn lấy năm mươi ngàn đồng xin công quả. Có vị nói có mấy chậu kiểng, muốn lấy chậu nào cũng được. Có vị nhận kinh thiên đạo thế đạo mà rất mừng vì thánh thất không có.
Các thánh thất, thánh tịnh ở nơi xa rất thiếu thông tin, không biết nơi đâu có sách, không có thì giờ đi mua và nhất là yếu kinh tế, không phương tiện đi lại. Anh em chúng tôi đã có quyết tâm làm công quả, không hề nhận tiền của ai. Nỗi vui mừng của anh em chúng tôi nhiều hơn khi thấy sự vui mừng của các vị nhận kinh sách. Cứ như vậy mà suốt thời gian dài nhiều năm liên tiếp, hai anh em chúng tôi kiên trì điền dã trong nỗi vui mừng, không hề thấy cực khổ, gian nan.
Giờ làm việc để chụp hình là từ khi có ánh mặt trời đến khi mặt trời sắp lặn. Giờ đi và về thì chạy vào lúc trời tối. Có một lần đến 18 giờ tối mà chúng tôi mới vừa chụp hình xong một thánh thất ở huyện Càng Long (tỉnh Trà Vinh). Đến 22 giờ đêm, chúng tôi mới về gần đến Tân An. Thình lình có một anh (chắc là bệnh tâm thần) chạy băng qua đường, làm xe của chúng tôi quẹo cổ quăng cả hai anh em chúng tôi ra phía trước. Tưởng không còn mạng sống. Chúng tôi ráng chạy xe vô bệnh viện Long An xin cấp cứu. Nhưng được Ơn Trên hộ trì, anh Ba Tài chỉ chảy máu chút ít ở chân, còn tôi cũng bị một vết trầy xước trên vai. Hôm sau về Thành phố đi chụp hình mới biết tôi bị nứt xương bả vai.
Hư xe dọc đường
Xe Honda 100 phân khối của huynh Tài thì mới, không hư dọc đường, nhưng cũng bị bể hết vè trước, bể mặt trên ghi đông, trầy tróc khắp nơi, phải đi thay. Còn xe Honda 50 của tôi thì bị hư nhiều hơn, hư sên hư dĩa, carter.
Ngày 31-8-2002, tôi và huynh Tài chạy xe Honda 50 từ Huế qua đèo Hải Vân vào Đà Nẵng. Xe lên gần đến đỉnh đèo, máy nóng quá làm xe không còn nhúc nhích tới lui được. Hai anh em chúng tôi bèn kéo xe vô lề ngồi ngắm cảnh, vừa chờ cho máy xe nguội lại. Bỗng đâu có hai con chim nhỏ bay đuổi đánh nhau quyết liệt, đến nỗi một con bị quỵ mà con kia chưa chịu tha, khiến chúng tôi phải… “can thiệp”.
Tưởng máy xe bị kẹt piston hư luôn, không ngờ máy lại tiếp tục nổ và chúng tôi chạy về Đà Nẵng rồi leo xe đò lên Kontum. Từ đấy chạy xe trở xuống Pleiku, về Ban Mê Thuột.
Ngày 02-12-2004, buổi sáng trên đường đất nối liền thị trấn Trần Văn Thời (tỉnh Cà Mau), chúng tôi xuống thị trấn Sông Đốc ở sát cửa biển. Bận về gặp trời tối lại bị mưa trái mùa, xe tôi chỉ chạy được số một và số hai vì đường rất trơn trợt, lầy lội. Khi huynh Tài mệt, bị té, tôi chạy thay. Người nào cũng mấy lần bị té.
Khi về gần đến thị trấn Trần Văn Thời, đường vẫn còn lầy lội, trời lại tối om, vỏ xe trước của tôi bị bể, bánh xe trước suýt rớt ra vì ốc bù loong đùm xe đã lỏng suýt rơi mất. Thêm phần vỏ bánh xe bị kẹt dính đầy đất, hai anh em chúng tôi cùng đẩy xe, dẫn bộ rất khó khăn. Rất may là chúng tôi tìm được chỗ rửa xe, sửa xe, vá xe gần đó.
Suốt hơn năm năm chạy xe khắp ba miền từ Nam ra Bắc, từ vùng biển lên cao nguyên, xe chúng tôi không bị hư đến nỗi phải nằm lại dọc đường lần nào. Lạ lùng là lần nào xe cũng chỉ “đợi” gần tới chỗ có thợ sửa xe mới chịu… hư. Chúng tôi vẫn thường nói riêng với nhau là mình đã được sự hộ trì rất lớn của chư thần trên đường đi, nên mọi trắc trở đều bình an vượt qua.
Tìm thánh sở
Ngày 08-6-2001 qua cù lao Tân Thới giữa sông Tiền. Trên đường đi tìm thánh tịnh Thanh Huệ Long thì bị trợt chân rớt dép. Ngay lúc đó, trước mặt không xa hiện ra thánh tịnh Vĩnh Thanh Quang mà không hay. Rất mừng vì chúng tôi vừa tìm thêm một thánh tịnh mới. Thánh tịnh Vĩnh Thanh Quang trước năm 1975 trực thuộc Cao Đài Thống nhứt. Vì không biết trước nên đó không phải là mục tiêu chúng tôi đi tìm. Còn nhiều trường hợp tình cờ tìm ra thánh sở như vậy, chúng tôi tin là nhờ có Thiêng liêng hộ trì.
Tìm người để hỏi cũng không phải dễ vì tính trung bình trong nước, số người theo đạo Cao Đài chỉ có khoảng bốn phần trăm dân số. Rất hiếm người biết thánh sở, biết cách chỉ đường. Thông thường người cho tin chỉ đúng sáu mươi phần trăm. Để hỏi thăm thánh sở, chúng tôi tìm người hỏi thăm theo “tiêu chí” như sau: người lớn tuổi, đàn ông, mặc áo trắng, có để râu (có vẻ là đạo hữu). Nếu không gặp đúng người như mong muốn thì chúng tôi hạ thấp tiêu chí xuống dần dần.
Như trường hợp đi tìm cơ sở đạo Nghệ An ở thành phố Vinh. Sau khi chạy đến bến xe, đứng một hồi quan sát, chúng tôi tìm thấy một người tốt nhứt theo tiêu chí. Chúng tôi chạy theo người ấy về đến tận nhà, khi vừa quẹo vào cổng, chúng tôi liền hỏi địa chỉ cơ sở đạo. Theo lời chỉ dẫn, chúng tôi đi một mạch đến cơ sở đạo mà không phải tìm hỏi thêm người thứ hai.
Người chúng tôi muốn tìm, chúng tôi biết chắc là con của Thầy. Nhưng để con của Thầy nhận biết chúng tôi là cùng một Cha, cùng một Thầy, không phải bằng lời nói phút chốc mà được tin ngay. Chúng tôi phải chứng minh bằng cách tặng ngay một số kinh sách cần thiết mà người ấy có nhu cầu. Sau đó chúng tôi nói chuyện đến những người ở hội thánh mà người anh em ấy có quen biết. Từ đó chúng tôi thông cảm và hiểu nhau hơn.
Thần minh giúp sức
Ngày 27-3-2003 giữa vùng Đồng Tháp Mười không một bóng người ở, chỉ có rừng tràm mênh mông và đồng nước bao la, không còn biết phương hướng đi tìm thánh thất Phú Cường. Sau khi qua đò, đến ngã ba đường, không biết quẹo hướng nào, thì đột nhiên có người chạy ngang chỉ giúp. Ôi, mừng biết bao!
Ngày 29-5-2002, trên đường đi tìm thánh thất Thạnh Phú ở huyện Thạnh Hóa, xe chạy gần đến thánh tịnh Võ Ca Tràng chưa đầy năm phút, một chiếc xuồng chở lúa vừa cất hàng xong, liền chở giúp anh em chúng tôi đi khá xa, ra đến bên kia mé sông Vàm Cỏ Tây, đậu ngay trước thánh thất. Nơi nầy không có đường xe vào, người ta thường đi lại bằng xuồng. Quả thật may mắn!
Nhiều phen chúng tôi tìm được một thánh thất ở nơi rất hẻo lánh, đường sá khó khăn. Tưởng như tình cờ mà ngẫm ra chẳng tình cờ chút nào cả. Chúng tôi cảm nhận rõ là luôn có thần minh giúp sức để chỉ dẫn, và xui khiến có người đến giúp chúng tôi đúng lúc.
Bữa cơm ngon đặc biệt
Ngày 02-12-2003, sau khi lên Phú Thọ thăm Đền Hùng, anh em chúng tôi chạy về Bắc Ninh cũng vừa đúng ngọ. Hai anh em chúng tôi đến thăm chùa Tiêu (còn gọi chùa Thiên Tâm, nơi Đức Vạn Hạnh Thiền sư sáng lập và nuôi dạy Lý Công Uẩn, tức vua Lý Thái Tổ).
Chùa cất trên ngọn núi nhỏ, quanh phía dưới là con sông Tương (Tương Giang) thơ mộng. Trên ngọn núi có tượng lộ thiên rất to tạc hình Đức Thiền sư Vạn Hạnh. Dưới chân núi có nhiều tháp rất xưa của các sư trụ trì trong đó có tháp của Thiền sư Vạn Hạnh. Sau khi chúng tôi viếng chùa và chụp ảnh, ni sư trụ trì rất hiếu khách đã mời và thết đãi anh em chúng tôi bữa cơm chay rất ngon. Ngon vì tài khéo léo của người nấu ăn, vì quá đói sau mấy ngày liền không gặp nơi nào bán cơm chay dọc đường. Ni sư không cùng ăn mà sau rốt lại còn gởi tiền lì xì mỗi người mười ngàn đồng để kỷ niệm, mặc dù nhà chùa rất thanh bần.
Ngày 24-3-2004, trên đường từ Huế về, chiều tối đến Hội thánh Truyền giáo ở Đà Nẵng xin ngủ đêm để sáng hôm sau đi Kontum. Như người anh cả thân thương, Anh Lớn Truyền trạng Ngô Minh Chính mời chúng tôi ngủ cùng phòng, chăm sóc buổi ăn tối trọng hậu ở bên ngoài, và đặc biệt buổi ăn lúc bốn giờ sáng trước khi chúng tôi lên đường đi Kontum.
Trong chuyến đi lần nầy chúng tôi bị “ông tổ bản đồ” quở. Tôi thấy Kontum gần Đà Nẵng, thấy có đường nối liền hai nơi. Không ngờ, sau khi xe chạy một hồi lâu mới biết xe không đi thẳng mà lại chạy vòng vo xuống Quảng Ngãi, chạy luôn đến Bình Định. Từ đây qua Pleiku và từ Pleiku trở ngược lên Kontum. Khi đến nơi thì trời vừa hết nắng.
Ngủ nhà Thầy
Thông thường hai anh em chúng tôi không ngủ lại trong thánh thất, thánh tịnh mà tìm chỗ trọ ở ngoài để tránh làm phiền bổn đạo và cũng có phần tự do. Chỉ khi cần thiết lắm như ở thánh thất Thủ đô Hà Nội, vì cần tìm nhiều tài liệu, và vì chị Hai Hương Bình quá nhiệt tình. Anh em chúng tôi còn ngủ lại ở thánh thất Kontum, nhưng lại thức gần suốt đêm để nghe kể chuyện Thiêng liêng chữa bịnh và giữ chùa.
Trong chuyến đi thăm Đền Hùng bằng Honda, đi về đến Đà Nẵng gặp lúc tối, chúng tôi ghé vào Hội thánh Truyền giáo trong mùa tịnh mà không biết. Chúng tôi vô cùng ái ngại vì vô tình phá vỡ sự yên tĩnh tịnh trường của Hội thánh mà chúng tôi rất kính trọng. Nhưng quý anh lớn Phối sư Thượng Hậu Thanh, Thừa sử Nguyễn Thanh Giang, Truyền trạng Ngô Minh Chính rất vui vẻ, nồng hậu tiếp đãi, chuyện trò và mời chúng tôi ở lại ngủ đêm. Tình thương chân thật của quý anh lớn như thế, ngoài đời hiếm tìm thấy. Chúng tôi vô cùng hạnh phúc được ngủ ở nhà Thầy với những người anh, ngưòi chị, người đồng đạo, cùng một lòng tôn kỉnh một Đấng Cha Trời chung. Thật là mừng vui, sung sướng biết bao!
Có rất nhiều trường hợp, anh em chúng tôi và con của Thầy chưa hề biết nhau, chưa hề gặp nhau, dù cách xa ngàn dặm mà rất cảm thông, rất quý mến, rất thân thương. Chỉ do một điều duy nhứt là cả hai bên đều là anh em, là con cùng một Thầy, một Đức Chí tôn Thượng phụ.
Ở tỉnh Trà Vinh, một hôm không tìm được nhà Thầy, phải ngủ đêm tại huyện Cầu Ngang, tìm hoài không thấy nhà trọ tốt, rốt cuộc cũng phải thuê một cái phòng có một giường bằng tre. Đêm nầy ngủ không được vì mùng rách, bị muổi cắn. Lại một đêm kế ngủ không được nữa vì thuê phải một phòng ngủ mà khách trọ phòng sát cạnh nhậu nhẹt, hò hát suốt đêm. Có đêm ngủ tại Hải Phòng mà phải thuê hai lần khách sạn. Tại khách sạn thứ nhứt, lấy phòng vào nghỉ lưng chưa được một tiếng đồng hồ, bỗng tiếng trống tiếng kèn trỗi lên điếc tai. Ra xem, mới hay rằng đang có đám tang trong khách sạn! Liền phải cuốn gói dọn đi tìm khách sạn khác.
Nhịn đói mà không thấy đói
Nhiều lần nhịn đói vì mải miết đi mà quên ăn cơm. Nhiều lần phải chờ đến nơi có bán cơm chay nên trễ giờ. Nhiều lần không có cơm thì ăn trái cây trừ cơm. Nhưng đặc biệt trên đường đi từ Bắc Ninh qua Hải Dương đến Vịnh Hạ Long, không tìm thấy chỗ bán thức ăn nào. Phần đường xa, phần trời tối, nên ráng chạy xe cho đến nơi, và đành phải nhịn đói suốt từ trưa tận đến 10 giờ đêm. Rốt lại được đền bồi bằng bữa ăn cháo đêm đặt nấu trong khách sạn tại Bãi Cháy, vịnh Hạ Long.
Bốn lần thay máy ảnh
Cả hai anh em chúng tôi đều thay bốn lần xác máy chụp ảnh. Máy ảnh của huynh Tài tốt hơn máy của tôi. Lúc nầy chưa có máy chụp hình kỹ thuật số. Chúng tôi chụp bằng phim màu. Cả hai đều có trên một trăm hai mươi album. Ảnh của tôi rửa khổ 9x12cm, còn huynh Tài rửa 10x15cm. Trong khi tôi hạn chế mỗi thánh thất chỉ chụp ba ảnh thì huynh Tài chụp không giới hạn. Ảnh của huynh Tài chất trong hai thùng to, còn album ảnh của tôi thì chỉ đầy một thùng.
Khi đến một thánh sở, tôi vào trước, tự giới thiệu, tặng kinh sách làm quen, sau đó xin vào lễ Đức Chí tôn. Huynh Tài đứng ngoài chụp ảnh trước rồi dẫn xe vào sau và cùng lên bửu điện đảnh lễ. Ở thánh sở thuận tiện thì còn thong thả nói chuyện và chụp ảnh. Nhưng có nhiều nơi phải chụp nhanh, rút lui lẹ, như thể kẻ làm việc ám muội, lén lút!
Ngày 06-11-2001, đến chụp ảnh thánh thất Hữu Đạo thì có người từ trong chùa đi ra hỏi làm gì; muốn tham quan chụp ảnh thì phải trình với công an để xin phép...
Ngày 27-2-2003 đến thánh thất Tân Hồng, cửa trước cửa sau đều đóng kín. Hai anh em chúng tôi đành đứng sát rào chụp ảnh. Một người đi ngang hỏi chúng tôi có xin phép chưa mà chụp.
Ngày 09-4-2003 đến thánh thất N.T.C. không thấy người coi giữ. Các em nhỏ dẫn chúng tôi vào thất, vừa chụp xong thì người thủ tự đến yêu cầu chúng tôi phải đến công an xin phép.
Những trường hợp khó khăn như trên chúng tôi phải chụp nhanh rồi lật đật rời khỏi, không kịp bảo quản máy ảnh. Đường lộ liên xã, liên huyện hầu hết đều gồ ghề, chưa tráng nhựa; đường đồng thì nhỏ, nhiều chỗ lầy lội, chưa được lót tấm “đan” xi măng. Máy ảnh có lúc bị rớt, bị dơ, bị hư nên buộc phải thay máy khác.
Thăm danh thắng, các vì vua và danh nhân đất nước
Trước khi đi đến một tỉnh nào, chúng tôi đều tham khảo quyển Hướng dẫn du lịch để biết qua các nơi đặc biệt. Hai anh em chúng tôi không bỏ cơ hội để đi thăm các danh thắng, lăng tẩm, nơi an nghỉ của các vì vua, và danh nhân đất nước.
Ngày 30-11-2003 chúng tôi đi thăm chùa Hương ở Hà Tây, nay thuộc thành phố Hà Nội.
Ngày 01-12-2003 trên đường thăm Đền Hùng, chúng tôi thăm đền thờ Hai Bà Trưng ở Mê Linh, nay trực thuộc thành phố Hà Nội.
Ngày 02-12-2003, chúng tôi đến Bắc Ninh thăm đền thờ Lý Bát Đế (thờ tám vì vua đời Lý), thăm khu mộ vua Lý Thái Tổ, khu mộ vua Lý Cao Tông, Lý Thánh Tông và Lý Thần Tông, mộ của nguyên phi Ỷ Lan, đền thờ Lý Chiêu Hoàng, thăm Đền Gióng, chùa Thiên Tâm (thờ Đức Vạn Hạnh Thiền sư).
Ngày 03-12-2003 ở Hải Dương, chúng tôi thăm chùa Côn Sơn (thờ Nguyễn Trãi), thăm đền Kiếp Bạc (thờ Đức Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, vợ và bốn con trai), rồi thăm lăng vua Trần Minh Tông và mộ các vua Trần ở An Sinh (Đông Triều, Quảng Ninh). Sau đó đi thăm vịnh Hạ Long.
Ngày 04-12-2003, chúng tôi thăm đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở xã Lý Học, thành phố Hải Phòng. Rồi xuống Nam Định thăm khu di tích Phủ Giầy thờ Bà Chúa Liễu Hạnh, đền thờ Lý Nam Đế và Hoàng hậu, đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng.
Ngày 06-12-2003 thăm đền thờ và lăng vua Lê Đại Hành và Thái hậu Dương Vân Nga, vua Lê Long Đỉnh. Sau đó đến tỉnh Quảng Trị thăm thánh địa Đức Mẹ La Vang.
Ngày 31-8-2002 thăm lăng vua Khải Định, vua Minh Mạng, vua Thiệu Trị, vua Tự Đức, bà Từ Dũ, vua Kiến Phúc, vua Đồng Khánh, vua Gia Long.
Ở Quảng Nam thăm phố cổ Hội An, thánh địa Mỹ Sơn. Vào Bình Định thăm lăng Võ Tánh, đền thờ vua Quang Trung.
Anh em chúng tôi viếng hầu hết các vị lãnh đạo danh nhân trong Nam, không bỏ sót vị nào. Đặc biệt là các vị tiền bối khai đạo Cao Đài.
Nơi ấn tượng nhất
Ấn tượng nhất là thăm động Thần Quang, sâu dưới chân núi, dưới chùa Thầy (thờ Từ Đạo Hạnh, ở Quốc Oai, Hà Nội). Trong đó có thờ cốt ba ngàn lính của tướng Lữ Gia bị quân Tàu bao vây, đã liều chết cố thủ trong động cách nay gần một ngàn năm.
Ghé chùa Đậu thăm tượng táng hai Thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường ở Thường Tín (Hà Nội).
Tưởng khó mà dễ
Miền Trung vừa xa xôi vừa xa lạ phong tục tập quán, chúng tôi chưa hề quen biết một ai, nên có phần lo ngại. Nào ngờ, Hội thánh Truyền giáo đã nồng hậu tiếp đón chúng tôi và còn cho người chở đi từng thánh thất để giới thiệu trực tiếp. Kết quả rất tốt, công việc trở nên dễ dàng. Rút ngắn thời gian rất nhiều, chi phí không đáng kể.
Hội thánh Cầu Kho − Tam Quan cũng giống y trường hợp trên, rất hiếu khách, rất nồng hậu và cũng giúp chúng tôi đến từng thánh thất để giới thiệu, cung cấp tin tức và chụp ảnh.
Thánh thất Thủ đô Hà Nội, nơi cách xa nhứt cái rún đạo, cũng nồng nhiệt tiếp đón không kém, lại còn cho chúng tôi nhiều tin tức sử đạo và của các thánh thất có quan hệ.
Chuyến đi cuối cùng
Sau khi phát bệnh, hiền huynh Đạt Linh vẫn hành đạo tích cực. Lúc tạm khỏe, vẫn còn đi với tôi nhiều lần nữa đến nhiều thánh sở để chụp ảnh và tìm tài liệu bổ sung.
Bất kể lúc nào hiền huynh Huệ Khải hẹn đến nhà huynh họp để chọn lựa ảnh và kiểm tra danh sách các thánh sở, huynh Đạt Linh đều đến đúng giờ, mang theo các album ảnh cồng kềnh. Chẳng chút quản ngại.
Giữa năm 2008, khi cùng hiền huynh Huệ Khải duyệt lại bản thảo để chuẩn bị xin xuất bản quyển đầu tiên trong bộ sách là cuốn Các thánh sở Cao Đài tỉnh Long An, chúng tôi thấy cần thay một số ảnh cũ, bổ túc một số thông tin cần thiết. Nhưng thấy sức khỏe của hiền huynh Đạt Linh sút kém nhiều, nên tôi “lén” đi một mình, không dám cho Hiền Huynh hay trước.
Đến khi duyệt lại bản thảo quyển Các thánh sở Cao Đài tỉnh Bến Tre, do yêu cầu bổ sung ảnh và thông tin, tôi cũng định đi môt mình và chỉ rủ tu sinh Minh Trung, quê ở huyện Thạnh Phú (Bến Tre) cùng đi. Không ngờ hiền huynh Đạt Linh biết được và nhứt quyết cùng đi.
Ngày 14-8-2008, sau khi đến Bến Tre, chúng tôi chia nhau: Minh Trung chở hiền huynh Đạt Linh đi tách về huyện Thạnh Phú. Cao Hoàng Phong chở tôi đi huyện Mỏ Cày chụp hình. Hẹn nhau đến sáu giờ chiều hôm ấy, hai xe chúng tôi gặp lại tại Mỏ Cày rồi cùng trở về Sài Gòn.
Trời mưa suốt đường về. Đến chín giờ đêm chúng tôi mới tới nhà. Chúng tôi rất lo sức khỏe của hiền huynh Đạt Linh, nhưng may quá, không sao.
Những hình ảnh chụp ở huyện Thạnh Phú, in trong quyển Các thánh sở Cao Đài tỉnh Bến Tre, chính là những hình chụp sau cùng của hiền huynh Đạt Linh.
ĐẠT TRUYỀN
Tân Định, 14-02-2009