Chủ Nhật, 15 tháng 9, 2024

16. ĐOẠN TRẦN TÌNH TRÍ HUỆ KHAI THÔNG

 Chúng tôi kính mong quý đạo hữu, đạo tâm hoan hỷ đọc giúp bản thảo để chỉ cho chúng tôi các chỗ cần sửa chữa hay bổ túc. Chúng tôi vô cùng biết ơn. Khi phản hồi, để khỏi bị sót, kính đề nghị quý đạo hữu, đạo tâm dùng "Tin nhắn" của FB Dũng Lê hay gởi email về: daidaovanuyen@gmail.com.

16. ĐOẠN TRẦN TÌNH TRÍ HUỆ KHAI THÔNG

Trung Hưng Bửu Tòa

Ngày 16-12 Bính Thân (Thứ Tư 16-01-1957)

THI

ĐẠI nghiệp nguyện cầu giúp một tay

ĐỨC công chung góp gắng luôn ngày

CAO Đài giáo Đạo thi tu tiến

TIÊN Phật hộ trì khỏi đắng cay.

Bần Đạo chào chư hiền đồ nam nữ.

Giờ nầy Bần Đạo đến đây để ban linh điển cho chư hiền đồ, để khi học đạo có đủ tâm thành mà đạt cơ Tạo Hóa. 

Hôm nay ngày đông đã nhường bước cho ngày xuân tươi đẹp. Người và cỏ cây đều gội nhuần dương khí trong bầu trời thiên nhiên mầu nhiệm. Ngày xuân lên cao làm cho linh quang khí thể nhẹ nhẹ nảy sanh, cơ thể trong người được tắm rửa bằng hạo nhiên chi khí. Chư hiền đồ rất hân hạnh là khi xuất tịnh được thuận cơ vận chuyển, ôn luyện khí thần nhằm buổi dương sanh. Vậy chư hiền đồ suy gẫm lại mà vui vẻ tu học trong dịp xuân sang.

Chư hiền đồ cầu nguyện để tiếp nguồn linh điển.

Đem nước âm dương. Bần Đạo ban phép Khử Trược để thưởng công thời gian nhập tịnh. Pháp này cũng như phép ban Thánh Thể, nghĩa là cầu nguyện trước bửu điện mà lãnh lấy. 

THI

Trung Tông cơ Đạo sắp huy hoàng

Nhưng bị tiền khiên ([1]) trái với oan

Nên bước vừa qua còn chậm chạp

Gắng lên hướng đạo, để chu toàn!

BÀI

Ngày lành tháng tốt mùa sinh

Gắng công tu học, dưỡng tinh, khí, thần

Luyện cho tâm mười phần thanh tịnh

Dưỡng cho thần xuất lịnh tri cơ ([2])

Minh minh yểu yểu ([3]) mờ mờ

Kinh kinh ngộ ngộ đơn thơ đặng thành.

TÍN tâm đạo luyện phanh ([4]) cơ thể

Đoạn trần tình,([5]) trí huệ khai thông

Hư hư, hốt hốt, hồng hồng

Yên yên, hoãn hoãn, gia công ([6]) lên, hiền! ([7])

Hiền đồ gắng chí tịnh và tu

Chờ ngọn tuệ quang vẹt lối mù

Sẽ thấy huyền linh nơi cảnh thật

Chơn ngôn thị hiện ([8]) thoát ta bà.

Ở trong bốn vách ([9]) khó mà ra

Nhờ được thánh tâm chế ngự tà

Mới rõ trần gian là cõi tạm

Mau chân bôn tẩu ([10]) lại quê nhà.([11])

Tiên thiên chi khí ([12]) khắp ngàn mây

HẬU quả tiền nhân được dẫy đầy

Đầy đủ một lòng thanh tịnh tịnh

Hồng quang bao phủ thấy sum vầy.

Tứ đại thân ([13]) tu cầu giải khổ

Diệt bảy tình tìm chỗ an an

Thanh thanh, tịnh tịnh, bàn hoàn ([14])

Phiêu phiêu,([15]) phất phất, vượt ngàn băng non.

Non cao kiếm động tìm Thầy

Học tu chế luyện nhờ bày phương môn

Chơn Nhơn du ngoạn bảo tồn

Một hô một hấp đưa hồn xuống lên.

Lên non xuống biển tìm châu

Hoàn nguyên phản bổn thượng đầu cửa khai

ĐỀ huề ba sáu bảy hai

Châu thiên độ số cao tài tìm ra.

Ra vào cửa Thánh ngó đông tây

Thấy Phật ngồi tu trước điện Thầy

Thầy dạy chơn ngôn gìn thánh đức

Người người tỉnh ngộ sớm ra tay.

Tay chấp, lưng ngay, mắt chiếu tâm

Để tu tánh mạng khỏi sai lầm

Gìn lòng thanh tịnh vô vi cảnh

Chiến thắng ba ma,([16]) chín quỷ trần.([17])

Trầm trầm, nổi nổi, luyện thường xuyên

BÌNH tĩnh thân tâm sẽ đắc truyền

Truyền dạy phân thân chơn tánh hiện

Hiện về mở cửa thấy Huyền Thiên.

Thiên (Trời), Địa (Đất), Nhơn (Người)

Tam tài đồng thể nhuần tươi tinh thần

Luyện hồn chế phách mài thân

Vô vô, hữu hữu, phàm trần diệt tiêu.

Tiêu tan vọng ngã,([18]) não phiền ([19])

Chế kiềm bản tánh cầu truyền Thánh Linh ([20])

Chơn hồn yểu yểu minh minh

Đoạt cơ thoát tục siêu sinh cõi Trời.

Trời cao, đất thấp, người đông

Một bầu linh dược gắng công giữ gìn

CƯ thành chế biến cầu xin

Không không, có có, tin tin, phòng phòng.

Cơ truyền đạo chỉ quy căn ([21])

Căn cơ bổn tánh chuyển thăng điều hòa

Tiếng người vẳng vẳng xa xa

Kề tai nghe đặng lời Ta chỉ truyền.

Truyền dạy pháp tu khá được cần

Lòng thành tin tưởng được tròn cân

Cân đi nhắc lại còn bao lượng

Bồi dưỡng tu công xuất được Thần.

 Phép Khử Trược: Đốt hương. Để hương trên miệng bình.

Chơn chơn hống hống ([22]) được giao hòa

ĐÀO tạo lòng thành chế luyện ra

Ra cõi tiên thiên phi đảnh thượng ([23])

Chơn tâm trực khởi ([24]) tắm ngân hà.([25])

Hà Đồ, Bát Quái gắng công tìm

Để thấy Khôn Càn thấy Thổ Kim

Khỏe khỏe, vui vui, hồn tánh hiện

An an, định định, thấy không chìm.

Ra công tu học hằng giờ

Gội lòng để thấy huyền cơ tại Trời

Hoàn thành cơ chỉ ([26]) mọi nơi

Nơi không hóa có, có thời về không.

Không không thì rất quý vô chừng

TUYẾN điện ([27]) chạy cùng khắp thể xuân

Xuân khí hừng đông qua cảnh mới

Mới ôn ([28]) mới thấy ngát ([29]) muôn trùng.([30])

Trùng trùng điệp điệp vạn chơn linh

Chế luyện siêng năng sẽ nhẹ mình

Mình giữ hòa thân, công đức đủ

Minh minh lý đạo bá công trình.

Chư hiền gắng công suy nghiệm lời của Bần Đạo chỉ đó. Nên luôn học thuộc để làm khuôn mẫu.

Khóa tịnh này kể ra cũng chưa đúng danh từ của nó, nhưng mà lần thứ nhất của Trung Hưng nên cũng được hồng ân ban đặt.

Thôi, chư hiền đồ luôn luôn cầu nguyện.

Bần Đạo thăng.

*



([1]) tiền khiên 前牽: Nói đủ là nợ tiền khiên. Tiền là trước; khiên là lôi kéo, vướng vít, ràng buộc, liên lụy. Nợ tiền khiên là nợ do kiếp trước gây nghiệp xấu, qua kiếp này bị nó đòi và phải trả.

([2]) tri cơ 知幾: Biết được cái triệu chứng (mầm mống nhỏ nhặt mới vừa hiện ra).

([3]) yểu yểu minh minh 杳杳冥冥: nói gọn là yểu minh 杳冥 (hỗn độn và mập mờ).

([4]) luyện phanh: Phanh luyện 烹煉; nấu và đốt. Phép tu Tiên (tu đơn, tu thiền, tịnh luyện) dùng hình ảnh bắc lò bát quái, luyện đơn nấu thuốc.

([5]) đoạn trần tình 斷塵情: Cắt đứt tình cảm phàm tục (đoạn phàm tâm tục tình 凡心俗情).

([6]) gia công 加功: Cố gắng; nỗ lực; ra sức.

([7]) hiền : Tức là chư hiền đồ 賢徒; các học trò.

([8]) thị hiện 示現: Bày ra, hiện rõ cho thấy.

([9]) bốn vách: Nói đủ là bốn vách trần tù. Thế gian có bốn thứ giam hãm con người trong ham muốn và nghiện ngập, khiến con người mất tự do, giống như bị nhốt trong bốn vách nhà tù. Bốn vách là tửu, sắc, tài, khí 酒色財氣 (rượu, sắc dục, tiền bạc, và ma túy).

([10]) bôn tẩu 奔走: Chạy vội; chạy trốn.

([11]) quê nhà: Cố hương 故鄉; cố quận 故郡; quê cũ trên trời trước khi xuống trần làm người.

([12]) tiên thiên chi khí 先天之氣: Khí tiên thiên.

([13]) tứ đại thân: Thân tứ đại (tứ đại đích thân thể 四大的身體): Theo nhà Phật, thân xác con người do bốn chất căn bản tạo thành là đất (da thịt…), nước (máu; các chất lỏng…), lửa (hơi ấm, thân nhiệt), gió (hơi thở).

([14]) bàn hoàn 盤桓: Bồi hồi; lưu luyến.

([15]) phiêu phiêu 飄飄: Hiu hiu; hây hẩy; nhẹ nhàng; lâng lâng.

([16]) ba ma: Tam ma 三魔. Ba cảnh dối gạt mà hành giả tu đơn phải trừ khử. 1/ Cảnh thấy ngoài thân thì không thể chấp nhận. 2/ Cảnh thấy trong thân thì phải xét kỹ là chân thật hay hư giả, đừng nhận giặc làm con để rồi bị nó mê hoặc. 3/ Cảnh thấy trong lúc nằm mơ thì không thể chấp nhận.

([17]) chín quỷ trần: Chín con quỷ (cửu quỷ 九鬼) ở trần gian, tức là chín khó khăn (cửu nan 九難) trong đời sống tu hành, cản trở sự thành đạo. Chúng là: 1/ Cơm áo ràng buộc. 2/ Tình ái trói buộc. 3/ Danh lợi lôi kéo. 4/ Tai họa thình lình. 5/ Thầy mù (không phải minh sư 明師) dẫn dắt. 6/ Lời ngụy biện mê hoặc khiến cho lầm lạc. 7/ Thời ly loạn, chiến tranh. 8/ Không bền lòng tu tập, nửa đường bỏ dở. 9/ Buông trôi năm tháng vô ích, phí uổng kiếp người.

([18]) vọng ngã 妄我: Cái ta sai lầm của con người phàm tục (phàm ngã 凡我), trái với chơn ngã 真我.

([19]) não phiền: Phiền não 煩惱. Những thứ làm cho tâm hồn rối loạn, buồn sầu, khổ não. Bất kỳ thứ gì tác động đến tâm hồn, làm trở ngại sự tu tập để đạt được tâm thanh tịnh hay sự giác ngộ đều là phiền não. Vì bị mê lầm (ảo tưởng hay huyễn tưởng) chi phối, vì muốn thỏa mãn ham muốn mà tâm hồn bị phiền não. Trái nghĩa với phiền não là thanh tịnh 清淨.

([20]) Thánh Linh 聖靈: 1/ Theo Công Giáo thì: Ngôi Một là Chúa Cha (Thượng Đế); Ngôi Hai là Chúa Con (Ngôi Lời); Ngôi Ba là Chúa Thánh Thần (Thần Khí). Tin Lành gọi Thần Khí là Thánh Linh. 2/ Thiên điển của Đức Chí Tôn.

([21]) quy căn 歸根: Trở về gốc cội (nguồn gốc). Đạo Đức Kinh, Chương 16, chép: Quy căn viết tĩnh... 歸根曰靜... Trở về gốc cội gọi là tĩnh lặng. Theo Tiên Học Từ Điển 仙學辭典, của Đới Nguyên Trường 戴源長, mỗi lần vòng tiểu chu thiên 小周天 trở về chỗ xuất phát thì gọi là quy căn.

([22]) chơn hống 真汞: Hống là thủy ngân 水銀. Chơn hống là nguơn thần 元神. (Tiên Học Từ Điển, của Đới Nguyên Trường)

([23]) phi đảnh thượng: Bay lên trời.

([24]) trực khởi 直起: Thẳng xông lên.

([25]) ngân hà 銀河: Là mạch Đốc ở thân người. Ngân hà ám chỉ lúc vận chu thiên 周天, chỉ thăng lên mà không giáng xuống. (Tiên Học Từ Điển, của Đới Nguyên Trường)

([26]) cơ chỉ 基趾: Nền móng; căn bản.

([27]) tuyến điện: Luồng điện.

([28]) ôn : Ấm áp; ôn hòa.

([29]) ngát: Bát ngát; bao la; mênh mông.

([30]) muôn trùng: Rộng khắp khôn cùng, chẳng thể nào kể cho xiết.


Huệ Khải & Lê Anh Minh hiệp chú