Chúng tôi kính mong quý đạo hữu, đạo tâm hoan hỷ đọc giúp bản thảo để chỉ cho chúng tôi các chỗ cần sửa chữa hay bổ túc. Chúng tôi vô cùng biết ơn. Khi phản hồi, để khỏi bị sót, kính đề nghị quý đạo hữu, đạo tâm dùng "Tin nhắn" của FB Dũng Lê hay gởi email về: daidaovanuyen@gmail.com.
14.
NGÔ TÂM THANH TỊNH PHÁT XUNG HÒA
Tý thời, ngày 10-12 Bính Thân (Thứ Năm 10-01-1957)
NGÔ tâm ([1]) thanh tịnh phát xung hòa ([2])
CAO pháp ([3]) truyền ban độ giới ba ([4])
TIÊN Phật thành công tu tánh mạng ([5])
GIÁNG thăng điều dưỡng nhứt nguơn ([6]) a.
Bần Đạo chào chư hiền đồ.
Hôm nay Bần Đạo đến cùng chư hiền đồ
với một nguồn sinh lực mà lâu nay chư hiền đồ đã gia công
phanh luyện,([7]) nên được phát xuất ra
mà xung chiếu với hạo nhiên vô thể.
Sinh lực mà Bần Đạo nói
đây là lằn điển quang tinh chuyên
của chư hiền đồ đã dày công phu ôn dưỡng, huân tập.([8]) Lằn quang chiếu nháng
lòa mà thế gian thường gọi là quang phách. Điển này do chơn hống ([9])
nơi tâm hun bồi,([10])
gặp lằn điển quang nơi ngoài thì lóm nhóm đủ màu, nên sự thay hình đổi sắc của nó còn trong trạng thái phôi tập.([11])
Ngày nào chư hiền đồ biết lợi dụng nó để
thần thái chơn diên ([12])
nơi Khảm cung để cộng hợp hai
khối tinh ba làm một thì thoát
khỏi ngục tù của sắc tài tửu khí làm tường bao giữ. Lấy
được chơn kim ([13])
nơi thận thủy thì vạn bịnh đều tiêu, ba tai ([14]) tránh
khỏi.
Vì chư đồ đệ còn đề phòng, còn dè dặt, còn
nghi ngờ, còn lo sau ngừa trước, nên mỗi lúc chơn thần gọi lên thì thức
thần ([15])
ngụy biện ([16])
làm cho tấn thối khó lòng.
Vậy mà đợt tịnh này đã rút gọn còn năm mươi bốn ngày. Cũng vì Đức Chí Tôn thấy lòng ưu tư của chư
đồ đệ không yên tâm ngồi an trong
ngày xuân tháng Tết, mà Chí Tôn
mới chế phần cho hợp pháp, chia ra năm mươi bốn
ngày đợt đầu và mười tám ngày
đợt sau để hoàn thành nhứt bộ, châu
thiên trúc cơ lập mạng.
Vậy mười tám ngày trong kỳ hạ chí từ đây trở đi phải gắng nuôi dưỡng ân cần. Ít ra một ngày phải hai giờ nắm chặt. Không khéo thì đến kỳ tiếp tục lại bị gián đoạn mà phạm phải như khóa trước bị phế giới thất nguyện đổi
người. Tiếc thay!
Đợt này đáng ra hành pháp Tứ Bửu đi đúng lời hứa
của Bần Đạo, nhưng các hiền đồ
chưa ôn cố cần mẫn, làm còn bợ ngợ sai thất.
Vả lại phù chú đợt tu vì mờ tối của Liên Hoa ([17]) mà quên đi. Vậy bảo
nó phải thiền định mà nhớ
lại, và để nhớ cho chu tất ([18]) thì phải đại
định bảy ngày ở mật thất ([19]) mới
được. Vậy tiếp tục, chư hiền đồ
chỉ làm bấy nhiêu đó mà chờ lịnh.
Hôm nay có Bát Tiên đến mừng chư đệ tử và
sẽ khải thị([20]) bằng hồng danh. Vậy tái cầu, Thanh ([21]) chấp bút
để đón quý vị đến chơi và tiếp
tục những đêm chấp bút để điểm
công cho đợt tịnh.
Còn đợt này, các hiền đồ kiểm điểm lại. Về đức tin, bị gián
đoạn hai kỳ. Bị lòng hoài nghi về pháp,
một ít người, và ba đệ tử lơ là
với công phu lắm đó.
Thôi, Bần Đạo ban ơn lành. Bần
Đạo thăng.
([5]) tu tánh mạng: Tánh mạng (tính mệnh) song tu 性命雙修. Tu tánh thì luyện thần là chánh.
Tu mạng thì luyện tinh khí là chánh. Tánh mạng song tu là đồng thời vừa tu tánh
vừa tu mạng; đây là phép tu thượng thừa. Có câu: Chỉ tu tánh bất tu mạng thử thị tu hành đệ
nhất bệnh. 只修性不修命, 此是修 行第一病. (Chỉ tu tánh mà không tu mạng là sai lầm hạng nhứt của việc tu
luyện.)
([6]) nhứt nguơn 一元: Tiên Học Từ Điển 仙學辭典, của Đới
Nguyên Trường 戴源長, chép: Thiên đắc nhứt nguơn dĩ thanh. Địa đắc nhứt nguơn dĩ ninh. Nhơn đắc
nhứt nguơn dĩ sanh. Tại vũ trụ vi chơn không. Tại nhơn vi nguơn thần, vi Thái Ất. 天得一元以清. 地 得一元以寧. 人得一元以生. 在宇宙為眞空. 在人為元神, 為太乙. (Trời
được nhứt nguơn để trong sáng. Đất được nhứt nguơn để yên ổn. Người được nhứt
nguơn để sinh sống. Tại vũ trụ là chơn không. Tại con người là nguơn thần, là Thái Ất.)
([7]) phanh luyện 烹煉: Nấu và đốt. Phép tu Tiên (tu thiền, tịnh luyện) dùng hình ảnh bắc
lò bát quái, luyện đơn nấu thuốc.
([9]) chơn hống 真汞: Hống là thủy ngân 水銀 (mercury; Hg).
Chơn hống là nguơn thần 元神. (Tiên Học Từ Điển)
([12]) chơn diên 真鉛: Theo Tiên Học Từ Điển, chương Huyền Yếu 玄要 chép: Hậu thiên tra chỉ vi vô
dụng, tiên thiên nhứt điểm hiệu chơn diên. 後天渣滓為 無用, 先天一點號眞鉛. (Hậu thiên cặn đục là vô dụng, một điểm tiên
thiên hiệu chơn diên.) Tổ Sư Hoàn Dương 還陽 nói: Nhựt tinh nhược dữ nguyệt hoa hợp, tự hữu chơn diên xuất thế lai. 日精若與月華合, 自有眞鉛出世來. (Nếu tinh của mặt trời hợp với ánh sáng mặt trăng, tự nhiên
chơn diên xuất thế.)
([14]) ba tai: Tam tai 三災. 1/ Gồm phong tai 風災 (dông bão), thủy tai 水災 (lũ lụt), hỏa tai 火災 (cháy rừng, núi lửa, hỏa hoạn). Đây là ba tai họa lớn, nên gọi là đại tam tai 大三災. – 2/ Gồm đói kém (mất
mùa), dịch bệnh, binh đao (chiến tranh). Đây là ba tai họa nhỏ, nên gọi là tiểu tam tai 小三災.
([15]) thức thần 識神: Là âm thần 陰神. Lúc hài nhi lọt lòng mẹ (nhơn sanh xuất thai 人生出胎) khóc ré lên một tiếng
thì thức thần theo tiếng kêu mà nhập vào. Khi ấy nguơn thần tiên thiên 先天元 神 ẩn thối 隱退 để thức thần hậu thiên 後天識 神 thế chỗ. Nguơn khí
tiên thiên 先天元氣 ẩn đi mà khí hô hấp hậu thiên
後 天呼吸 hiện ra. Cảnh Sầm 景岑 nói rằng thức thần “là cội gốc sanh tử từ vô lượng kiếp đến
nay [vô lượng kiếp lai sanh tử bổn 無量劫來死本].” (Theo Tiên Học Từ Điển)