Thứ Ba, 17 tháng 9, 2024

17. TIÊN PHÀM CŨNG MỘT THÂN TU LUYỆN

17. TIÊN PHÀM CŨNG MỘT THÂN TU LUYỆN

Trung Hưng Bửu Tòa

Tý thời, ngày 17-12 Bính Thân (Thứ Năm 17-01-1957)

THI

NGÔ Đạo ([1]) hòa đồng hiệp Ngũ Chi

ĐẠI căn sớm gặp buổi Tam Kỳ

TIÊN phàm cũng một thân tu luyện

GIÁNG hổ nhờ long phục tứ vi.([2])

Bần Đạo chào chư môn đệ.

Hôm nay Bần Đạo giáng bút tiếp tục điểm danh tịnh chúng([3]) và nói qua về sự học hỏi.

Chư đệ vừa học qua bài kinh Cứu Khổ. Tuy nói nhiều nhưng chưa đi sâu được vào địa phận của nó vì hiện nay chư đồ chưa phát được trí tuệ nên phần thảo luận không đem vào tâm được mấy. Khi xuất tịnh phải cần tham thiền nhiều về nó và chú Kim Quang yếu ước.([4])

Khi ngồi tu nên bớt vọng niệm ([5]) để hồn linh thong thả mà hình hiện thánh đức chế ngự ma tà, diệt tận vô minh, phá tan nghiệp thức,([6]) hầu tìm đàng trực chỉ Thiên Môn.

Năm mươi ngày qua chư đồ đã tu nhiều nhưng chưa chế ngự nổi vọng niệm, còn mê vọng theo cảnh sắc nên chưa đặng thỏa nguyện tu trì. Vậy, cố gắng! Vào tu chỉ có phương hàng phục mê vọng là then chốt, là bước đường đi đầu dọn sạch chông gai, để bước đi sau được suốt thông mạch tiến.

THI

Nguyện cầu thánh đức ngập trong ta

DINH trưởng hư tiêu pháp đạo hòa

Hòa hợp khí thần tu tánh mạng

Con đường xuất thế hiện hình ra.

Ra ngó thử đi, mới chạy qua

Vào trong cầm gậy chạy hò la

La lên hốt hốt, bàng hoàng động

Động đến Linh Tiêu chiếu điển lòa.

Ngày ngày ngồi tụng cuốn tâm kinh ([7])

Nghe ngóng đàng sau có kẻ rình

Rình thử có ai còn ngã vọng ([8])

Nhứt thời đả phá ([9]) để cho kinh.([10])

Quang năng chuyển động trong người

Thấy mà không thấy, cười mà không vui

SUM sê cây đạo ngọt bùi

Bùi sai theo đón con người Thánh Linh.

Linh năng, linh điển, linh quang

Tồn vô nhứt vật ([11]) mơ màng cõi xưa

Một lòng ngồi xuống nghỉ trưa

Canh ba giờ Tý vào thưa trình Thầy.

Thầy Tiên bạn Thánh dạy khuyên mình

Mình nhớ mà làm kẻo chúng khinh

Khinh trọng đôi đường phân phải trái

Trái tai gai mắt bởi vô tình.

Tình thương một khối ấp yêu nhau

TRÂN trọng vài câu hiểu có ngày

Ngày tháng một lòng tu tánh mạng

Mạng lìa khí trược hết đường say.

Say sưa với sự tu hành

Chờ Tiên ban pháp luyện phanh ([12]) khí thần

Chơn hồn nhẹ nhẹ lâng lâng

Ra ngoài để tắm sông Ngân thiên hà.([13])

Chơn không một điểm hiện vào trong

Thấy được nhờ tu pháp lặng lòng

DƯƠNG trưởng bởi nhờ âm cũng phát

Phát tâm gột rửa nghiệp căn trần.

Trần trung ([14]) linh tánh giáng thăng

Thăng lên thượng giới vô ngằn ([15]) bạn xưa ([16])

Ba anh ([17]) thành kỉnh đương ngừa

Dưới trần sáu cậu ([18]) kéo bừa trở ra.([19])

Ra vào thong thả được vui tươi

Nhờ được luyện tu pháp độ người

Người đến lo đi tìm xá lợi

Lợi cùng tánh mạng khó không nguôi.

Hào quang xung chiếu sáng lòa

CÁN cân lên xuống nhờ ra công làm

Thiền thiền định định Thầy ban

Chỉ truyền chơn pháp sơ tam công trình.

Trình Thầy về các pháp tu thân

Thân thể chuyên tu khỏe khoắn lần

Lần tới mà nhìn công quả Phật

Phật hình, Phật tánh, Phật toàn thân.

Nghe mà chẳng nhớ mới hay

Thấy mà chẳng thấy nhờ bày nhãn quan

Ngồi trên chiếc bát nhã thoàn

Nhẹ mình phơi phới khỏi đàng trái căn.

Căn cơ đạo chỉ quy mô

Kiên tâm học tập ra vào cửa không

Một ngày thập nhị huyền công

Một năm sẽ được đắc thông cơ huyền.

Huyền Thiên Bắc Đế chiếu minh châu

Châu pháp đem lên ráp thượng đầu

Đầu thượng Cao Đài danh niệm tụng

Huyền huyền nhứt khí một tâm bầu.

Bầu trời xán lạn trăng sao

Dưới sông tôm cá ào ào kéo đi

Đi tìm lục thức ([20]) mê si

Để mà kết bạn tương tri giữ gìn.

Gìn giữ mà tu để được truyền

HÒE kỳ bái tụng viếng Hà Tiên

Tiên Cô dẫn độ mau chơn bước

Bước đến ba xe ([21]) được đón liền.

Liền liền gắng chí nguyện tu công

Bốn khúc thường xuyên phải giữ đồng

Đồng đẳng thọ trì chơn pháp bửu

Bửu kỳ năm đoạn chế thành long.

Long môn tụ hội đông vầy

Chế rèn thánh đức đông tây tận tường

Tường trình ([22]) công quả mười phương ([23])

Phương nam phải giữ an khương một lòng.

Lòng thành chế luyện Tiên môn

Môn phương giải khổ tây thôn giấu truyền

THỤC thuần ([24]) nhờ luyện thường xuyên

Xuyên qua Tổ Khiếu,([25]) hống diên ([26]) giao hòa.

Hòa hòa, trực trực, minh minh

Hốt nhiên ([27]) đại ngộ chơn kinh khẩu truyền

Truyền thành nhứt bộ tam thiên

Thiên cơ tri giả,([28]) Khôn Kiền phục ngôi.

Chư đồ đệ cần tham cứu và thiền định lại những lời Bần Đạo đã chỉ. Tham thiền để minh giải lấy nó làm yếu quyết.

Danh từ về Tam Cung Cửu Khiếu cũng là Bát Bộ Châu Thiên trong thân người; phải học, phải biết cặn kẽ mà tu để khỏi sai thất chơn truyền và mới thấy huyền linh mầu nhiệm.

Khi xuất tịnh phải kiểm điểm lại những hành động, tư tưởng lúc vào nhập tịnh mà sám hối để xứng đáng với bước tu công. 

Dịp Tết này chư đồ đệ nên soát xét lại và tiếp tục giúp công việc Hội Thánh để thanh toán bớt việc làm đã ứ đọng. 

Vậy chư đồ đệ rán nhớ. 

[Phẩm bạch ...] 

Pháp Tứ Bửu chỉnh đốn chưa đầy đủ và lý giải chưa trọn, nhưng muốn mở lớp truyền cho Lễ Sanh thì cũng tốt. Vậy rán chỉ dẫn cho rành để khỏi sai. 

Bài Hồng Thệ của chư đệ đã được Tam Giáo chấp chuẩn và hứa giúp đỡ. Vui lên mà đón lấy. 

Công việc nhiều mà cũng bận về khóa tịnh nên chưa được sự giáo pháp trọn vẹn. 

Duyên nghiệp nơi đây còn nặng lắm. Kẻ biết được đôi chút lại kích bác lời lẽ của sự mầu vi. Người không biết thì lơ là, bỏ qua Thánh ý. Kiểm thảo lại đi!

Thôi, từ nay khóa tịnh nên nhớ lại lời Hồng Thệ mà giữ mình trong lúc xuất tịnh, kẻo mang tội nặng nề. 

Chư đồ đệ dâng lòng thành lên đi! Khó nói bằng cơ bút lắm. Nên luyện tâm đón chờ. Chư đồ hiểu chăng? 

[Hậu bạch ...] 

Gắng mà suy nghiệm để mở trí tuệ, hiện thần quang.

Bần Đạo chào chư đồ đệ. Thăng.

*



([1]) Ngô Đạo 吾道: Đạo của Ta.

([2]) tứ vi 四圍: Bốn bên; ý nói bao bọc xung quanh.

([3]) tịnh chúng: Chư tịnh sĩ; các tịnh viên.

([4]) yếu ước 要約: Tóm tắt quan trọng.

([5]) vọng niệm 妄念: Tà niệm 邪念; những ý nghĩ hư vọng 虛妄, bất chánh 不正; trái với chánh niệm 正念.

([6]) nghiệp thức 業識: Cũng gọi là tùy nghiệp thức 隨業識; cái thức do duyên theo nghiệp mà phát sanh; nó nương theo vô minh mà dấy động bản tâm.

([7]) Câu này ý nói hàng ngày ngồi tịnh luyện, tọa thiền. (Tâm kinh 心經 tức là vô tự kinh 無字經.)

([8]) vọng ngã 妄我: Cái ta sai lầm của con người phàm tục (phàm ngã 凡我), trái với chân ngã 真我.

([9]) đả phá 打破: Đánh tan; đập vỡ.

([10]) kinh : Kinh sợ; sợ hãi.

([11]) tồn vô nhứt vật 存無一物: Không giữ trong tâm một điều gì.

([12]) phanh luyện 烹煉: Nấu và đốt. Phép tu Tiên (tu đơn, tu thiền, tịnh luyện) dùng hình ảnh bắc lò bát quái, luyện đơn nấu thuốc. Trong thơ, để hiệp vận nên đảo ngữ là luyện phanh.

([13]) sông Ngân thiên hà: Ngân hà 銀河 là mạch Đốc ở thân người. Ngân hà ám chỉ lúc vận chu thiên 周天, chỉ thăng lên mà không giáng xuống. (Tiên Học Từ Điển 仙學辭典, của Đới Nguyên Trường 戴源長)

([14]) trần trung 塵中: Trong cõi trần tục.

([15]) vô ngằn: Vô số.

([16]) bạn xưa (cố hữu 故友): Hôm nay là người tu giữa cõi tục, nhưng xưa kia vốn ở trên trời và đã xin Thầy xuống thế độ đời; do đó, vô số các Đấng thiêng liêng trên thượng giới là “vô ngằn bạn xưa” của người tu.

([17]) ba anh: Là tam bành 三彭; ba vị ác thần họ Bành (là Bành Cứ 彭倨, Bành Chất 彭質, Bành Kiểu 彭矯) ngự trị trong thân thể con người: Bành Cứ ở tại thượng tiêu (từ họng xuống đến miệng trên dạ dày); Bành Chất ở tại trung tiêu (từ miệng trên dạ dày xuống miệng dưới dạ dày); Bành Kiểu ở tại hạ tiêu (từ trung tiêu xuống vùng bụng dưới). Tam bành thường xúi giục người ta nổi lòng tham dục mà làm điều hung ác. Tam bành theo nghĩa rộng là tánh nóng giận, hung dữ; do đó, hành giả phải đem lòng “thành kỉnh đương ngừa” vì nổi sân thì sẽ cháy kim đơn 金丹. (Ngừa là ngăn ngừa nóng giận.)

([18]) sáu cậu: Lục tặc 六賊; lục dục 六欲.

([19]) bừa: Càn; ẩu tả; bất kể đúng sai. kéo bừa trở ra: Kéo đại ra ngoài; tức là phá hoại công phu tu tập của hành giả.

([20]) lục thức 六識: Sáu cái biết là chức năng của sáu cơ quan (lục căn 六根) trong thân người. Do mắt thấy mà có nhãn thức 眼識 (cái biết của mắt). Do tai nghe mà có nhĩ thức 耳識 (cái biết của tai). Do mũi ngửi mà có tỵ thức 鼻識 (cái biết của mũi). Do lưỡi nếm mà có thiệt thức 舌識 (cái biết của lưỡi). Do da thịt đụng chạm sinh cảm giác mà có thân thức 身識 (cái biết của thân). Do ý tiếp xúc tư tưởng, sinh nghĩ suy mà có ý thức 意識 (cái biết của ý).

([21]) ba xe: Phải chăng là tam thừa? tam thừa 三乘 (tiểu thừa , trung thừa中乘, thượng thừa 上乘) là ba bực tu, gồm có: 1/ Tiểu thừa hay hạ thừa là bực tu hành cho bản thân, giữ gìn quy giới chặt chẽ để sống đúng luân lý, đạo đức. 2/ Trung thừa là bực tu hành biết cố gắng đem đạo lý vào đời, giúp cho người khác cũng biết tu học, hành đạo như mình. 3/ Thượng thừa là bực tu thực hành tâm pháp (thiền, tịnh luyện) để giải thoát luân hồi sinh tử. Như vậy tam thừa bao gồm cả hai phương diện tu hành là thế đạo và thiên đạo.

([22]) tường trình 詳呈: Nói rõ cho bề trên biết.

([23]) mười phương (thập phương 十方): Gồm có Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, trên, dưới; nghĩa bóng là khắp nơi khắp xứ. Các vị Tiên Phật và chúng sanh trong mười phương được gọi là thập phương Tiên Phật 十方仙佛, và thập phương chúng sanh 十方眾生.

([24]) thục thuần: Thuần thục 純熟; thành thạo và nhuần nhuyễn.

([25]) Tổ Khiếu 祖竅: Cũng gọi Huyền Quan Khiếu, Thiên Môn, Côn Lôn Đảnh. Nó ở trong não, phía dưới Nê Hườn Cung, ngang cặp lông mày, là cửa xuất nhập của chơn thần.

([26]) hống diên 汞鉛: Hống là thủy ngân (Hg) và diên là chì (Pb). Trong phép tu nội đơn, hống ám chỉ tim, tim thuộc hành hỏa (quẻ Ly); diên ám chỉ thận, thận thuộc hành thủy (quẻ Khảm).

([27]) hốt nhiên 忽然: Đột ngột; thình lình; bất chợt.

([28]) Thiên cơ tri giả 天機知者: Người biết cơ Trời.

HUỆ KHẢI và LÊ ANH MINH hiệp chú