17. TIÊN PHÀM CŨNG MỘT THÂN TU LUYỆN
Trung Hưng Bửu Tòa
Tý thời, ngày 17-12 Bính Thân (Thứ Năm 17-01-1957)
THI
NGÔ Đạo ([1]) hòa đồng hiệp Ngũ Chi
ĐẠI căn sớm gặp buổi Tam Kỳ
TIÊN phàm cũng một thân tu luyện
GIÁNG hổ nhờ long phục tứ vi.([2])
Bần Đạo chào chư môn
đệ.
Hôm nay Bần Đạo giáng
bút tiếp tục điểm danh tịnh chúng([3]) và nói qua về sự học hỏi.
Khi ngồi tu nên bớt vọng niệm ([5]) để hồn linh thong thả
mà hình hiện thánh đức chế ngự ma tà, diệt tận vô minh, phá tan nghiệp thức,([6])
hầu tìm đàng trực chỉ Thiên Môn.
Năm mươi ngày qua chư đồ đã tu nhiều nhưng chưa chế ngự
nổi vọng niệm, còn mê vọng theo cảnh sắc nên chưa đặng thỏa nguyện tu trì. Vậy, cố gắng! Vào tu chỉ có phương hàng phục mê vọng là
then chốt, là bước đường đi đầu dọn sạch chông gai, để bước đi sau được suốt
thông mạch tiến.
THI
Nguyện cầu thánh đức ngập trong ta
DINH trưởng hư tiêu pháp đạo hòa
Hòa hợp khí thần tu tánh mạng
Con đường xuất thế hiện hình ra.
Ra ngó thử đi, mới chạy qua
Vào trong cầm gậy chạy hò la
La lên hốt hốt, bàng hoàng động
Động đến Linh Tiêu chiếu điển lòa.
Ngày ngày ngồi tụng cuốn tâm kinh ([7])
Nghe ngóng đàng sau có kẻ rình
Rình thử có ai còn ngã vọng ([8])
Nhứt thời đả phá ([9]) để cho kinh.([10])
Quang năng chuyển động trong người
Thấy mà không thấy, cười mà không vui
SUM sê cây đạo ngọt bùi
Bùi sai theo đón con người Thánh Linh.
Linh năng, linh điển, linh quang
Tồn vô nhứt vật ([11]) mơ màng cõi xưa
Một lòng ngồi xuống nghỉ trưa
Canh ba giờ Tý vào thưa trình Thầy.
Thầy Tiên bạn Thánh dạy khuyên mình
Mình nhớ mà làm kẻo chúng khinh
Khinh trọng đôi đường phân phải trái
Trái tai gai mắt bởi vô tình.
Tình thương một khối ấp yêu nhau
TRÂN trọng vài câu hiểu có ngày
Ngày tháng một lòng tu tánh mạng
Mạng lìa khí trược hết đường say.
Say sưa với sự tu hành
Chờ Tiên ban pháp luyện phanh ([12]) khí thần
Chơn hồn nhẹ nhẹ lâng lâng
Ra ngoài để tắm sông Ngân thiên hà.([13])
Chơn không một điểm hiện vào trong
Thấy được nhờ tu pháp lặng lòng
DƯƠNG trưởng bởi nhờ âm cũng phát
Phát tâm gột rửa nghiệp căn trần.
Trần trung ([14]) linh tánh giáng thăng
Thăng lên thượng giới vô ngằn ([15]) bạn xưa ([16])
Ba anh ([17]) thành kỉnh đương ngừa
Dưới trần sáu cậu ([18]) kéo bừa trở ra.([19])
Ra vào thong thả được vui tươi
Nhờ được luyện tu pháp độ người
Người đến lo đi tìm xá lợi
Lợi cùng tánh mạng khó không nguôi.
Hào quang xung chiếu sáng lòa
CÁN cân lên xuống nhờ ra công làm
Thiền thiền định định Thầy ban
Chỉ truyền chơn pháp sơ tam công trình.
Trình Thầy về các pháp tu thân
Thân thể chuyên tu khỏe khoắn lần
Lần tới mà nhìn công quả Phật
Phật hình, Phật tánh, Phật toàn thân.
Nghe mà chẳng nhớ mới hay
Thấy mà chẳng thấy nhờ bày nhãn quan
Ngồi trên chiếc bát nhã thoàn
Nhẹ mình phơi phới khỏi đàng trái căn.
Căn cơ đạo chỉ quy mô
Kiên tâm học tập ra vào cửa không
Một ngày thập nhị huyền công
Một năm sẽ được đắc thông cơ huyền.
Huyền Thiên Bắc Đế chiếu minh châu
Châu pháp đem lên ráp thượng đầu
Đầu thượng Cao Đài danh niệm tụng
Huyền huyền nhứt khí một tâm bầu.
Bầu trời xán lạn trăng sao
Dưới sông tôm cá ào ào kéo đi
Đi tìm lục thức ([20]) mê si
Để mà kết bạn tương tri giữ gìn.
Gìn giữ mà tu để được truyền
HÒE kỳ bái tụng viếng Hà Tiên
Tiên Cô dẫn độ mau chơn bước
Bước đến ba xe ([21]) được đón liền.
Liền liền gắng chí nguyện tu công
Bốn khúc thường xuyên phải giữ đồng
Đồng đẳng thọ trì chơn pháp bửu
Bửu kỳ năm đoạn chế thành long.
Long môn tụ hội đông vầy
Chế rèn thánh đức đông tây tận tường
Tường trình ([22]) công quả mười phương ([23])
Phương nam phải giữ an khương một lòng.
Lòng thành chế luyện Tiên môn
Môn phương giải khổ tây thôn giấu truyền
THỤC thuần ([24]) nhờ luyện thường xuyên
Xuyên qua Tổ Khiếu,([25]) hống diên ([26]) giao hòa.
Hòa hòa, trực trực, minh minh
Hốt nhiên ([27]) đại ngộ chơn kinh khẩu
truyền
Truyền thành nhứt bộ tam thiên
Thiên cơ tri giả,([28]) Khôn Kiền phục ngôi.
Danh từ về Tam Cung Cửu
Khiếu cũng là Bát Bộ Châu Thiên trong thân người; phải học, phải biết cặn kẽ mà
tu để khỏi sai thất chơn truyền và mới thấy huyền linh mầu nhiệm.
Khi xuất tịnh phải kiểm
điểm lại những hành động, tư tưởng lúc vào nhập tịnh mà sám hối để xứng đáng
với bước tu công.
Dịp Tết này chư đồ đệ
nên soát xét lại và tiếp tục giúp công việc Hội Thánh để thanh toán bớt việc
làm đã ứ đọng.
Vậy chư đồ đệ rán
nhớ.
[Phẩm bạch ...]
Pháp Tứ Bửu chỉnh đốn
chưa đầy đủ và lý giải chưa trọn, nhưng muốn mở lớp truyền cho Lễ Sanh thì cũng
tốt. Vậy rán chỉ dẫn cho rành để khỏi sai.
Bài Hồng Thệ của chư đệ
đã được Tam Giáo chấp chuẩn và hứa giúp đỡ. Vui lên mà đón lấy.
Công việc nhiều mà cũng
bận về khóa tịnh nên chưa được sự giáo pháp trọn vẹn.
Duyên nghiệp nơi đây
còn nặng lắm. Kẻ biết được đôi chút lại kích bác lời lẽ của sự mầu vi. Người
không biết thì lơ là, bỏ qua Thánh ý. Kiểm thảo lại đi!
Thôi, từ nay khóa tịnh
nên nhớ lại lời Hồng Thệ mà giữ mình trong lúc xuất tịnh, kẻo mang tội nặng
nề.
[Hậu bạch ...]
Gắng mà suy nghiệm để
mở trí tuệ, hiện thần quang.
Bần Đạo chào chư đồ đệ.
Thăng.
*
([6]) nghiệp thức 業識: Cũng gọi là tùy nghiệp thức 隨業識;
cái thức do duyên theo nghiệp mà phát sanh; nó nương theo vô minh mà dấy động
bản tâm.
([12]) phanh luyện 烹煉: Nấu và đốt. Phép tu Tiên (tu đơn, tu thiền, tịnh luyện) dùng hình
ảnh bắc lò bát quái, luyện đơn nấu thuốc. Trong thơ, để hiệp vận nên đảo ngữ là
luyện phanh.
([13]) sông Ngân thiên hà:
Ngân hà 銀河 là mạch Đốc ở thân người. Ngân hà ám
chỉ lúc vận chu thiên 周天, chỉ thăng lên mà không giáng xuống. (Tiên
Học Từ Điển 仙學辭典, của Đới Nguyên Trường 戴源長)
([16]) bạn xưa (cố hữu 故友): Hôm nay là người tu giữa cõi tục, nhưng xưa kia vốn ở
trên trời và đã xin Thầy xuống thế độ đời; do đó, vô số các Đấng thiêng liêng
trên thượng giới là “vô ngằn bạn xưa” của
người tu.
([17]) ba anh: Là tam bành 三彭; ba vị ác thần họ Bành (là Bành
Cứ 彭倨, Bành Chất 彭質, Bành Kiểu 彭矯) ngự trị trong thân thể con người: Bành Cứ ở tại thượng tiêu (từ
họng xuống đến miệng trên dạ dày); Bành Chất ở tại trung tiêu (từ miệng trên dạ
dày xuống miệng dưới dạ dày); Bành Kiểu ở tại hạ tiêu (từ trung tiêu xuống vùng
bụng dưới). Tam bành thường xúi giục người ta nổi lòng tham dục mà làm điều
hung ác. Tam bành theo nghĩa rộng là
tánh nóng giận, hung dữ; do đó, hành giả phải đem lòng “thành kỉnh đương ngừa” vì nổi sân thì sẽ cháy kim đơn 金丹. (Ngừa là ngăn
ngừa nóng giận.)
([19]) bừa: Càn; ẩu
tả; bất kể đúng sai. – kéo bừa trở ra:
Kéo đại ra ngoài; tức là phá hoại công phu tu tập của hành giả.
([20]) lục thức 六識: Sáu cái biết là chức năng của sáu cơ quan (lục căn 六根) trong thân người. Do
mắt thấy mà có nhãn thức 眼識 (cái biết của mắt). Do tai nghe mà có nhĩ thức 耳識 (cái biết của tai). Do mũi ngửi mà có tỵ thức 鼻識 (cái biết của mũi). Do lưỡi nếm mà có thiệt thức 舌識 (cái biết của lưỡi). Do da thịt đụng chạm sinh cảm giác mà có thân thức 身識 (cái biết của thân). Do ý tiếp xúc tư tưởng, sinh nghĩ suy
mà có ý thức 意識 (cái biết của ý).
([21]) ba xe: Phải
chăng là tam thừa? – tam thừa 三乘 (tiểu thừa 小 乘, trung thừa中乘, thượng thừa 上乘) là ba bực tu, gồm có:
1/ Tiểu thừa hay hạ thừa là bực tu hành cho bản thân, giữ gìn quy giới chặt chẽ để
sống đúng luân lý, đạo đức. – 2/ Trung thừa là
bực tu hành biết cố gắng đem đạo lý vào đời, giúp cho người khác cũng biết tu
học, hành đạo như mình. – 3/ Thượng thừa
là bực tu thực hành tâm pháp (thiền, tịnh luyện) để giải thoát luân hồi sinh
tử. Như vậy tam thừa bao gồm cả hai phương diện tu hành là thế đạo và thiên
đạo.
([23]) mười phương (thập phương 十方): Gồm có Đông, Tây, Nam, Bắc,
Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, trên, dưới; nghĩa bóng là khắp nơi khắp
xứ. Các vị Tiên Phật và chúng sanh trong mười phương được gọi là thập phương Tiên Phật 十方仙佛, và thập phương chúng sanh 十方眾生.
([25]) Tổ Khiếu 祖竅: Cũng gọi
Huyền Quan Khiếu, Thiên Môn, Côn Lôn Đảnh.
Nó ở trong não, phía dưới Nê Hườn Cung, ngang cặp lông mày, là cửa xuất nhập
của chơn thần.
HUỆ KHẢI và LÊ ANH MINH hiệp chú