Thứ Sáu, 11 tháng 8, 2017

ÁI HOA KHÔNG CÒN NỮA 03/10

BÓNG DÁNG SAU LƯNG
CHU TỰ THANH 朱自清 tự là Bội Huyền 佩弦, người làng Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, sinh năm 1898, bệnh mất tại Bắc Kinh (1948). Tốt nghiệp khoa Văn-Triết trường Đại Học Bắc Kinh (1920), ông dạy văn chương tại Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, và tại Dương Châu, tỉnh Giang Tô. Từ 1925 đến khi mất, dạy văn chương Trung Quốc tại Đại Học Thanh Hoa. Những dịp nghỉ hè, ông sang châu Âu học tập. Tác phẩm rất nhiều, đủ thể loại...
Trích trong tập truyện Bối Ảnh (xuất bản năm 1928), Bóng Dáng Sau Lưng như có hơi hướm bức tranh thủy mặc Trung Hoa. Ở đó, chân dung người cha không được vẽ lại với cái nhìn thẳng vào gương mặt, vậy mà tưởng như ta có thể nhìn thấy diện mạo người cha ấy, ngờ ngợ như đã có lần gặp ông đâu rồi. Phải, cái dáng dấp hơi thô kệch nhưng rất đỗi tỉ mỉ trong những cử chỉ dịu dàng khi chăm chút cho đứa con.

Bố và tôi không gặp nhau đã hơn hai năm nay. Không bao giờ tôi quên được dáng người của bố nhìn từ sau lưng.
Mùa đông năm ấy bà nội qua đời nhằm lúc bố mất việc. Quả tình họa vô đơn chí. Từ Bắc Kinh tôi ghé Từ Châu, định bụng gặp bố để về quê lo việc tang ma. Đến Từ Châu, nhìn sân nhà ngổn ngang đồ đạc, lại chạnh nhớ bà, tôi không cầm được nước mắt. Bố bảo: “Chuyện đã đến thế cũng chẳng phải buồn rầu. Còn may chưa đến nỗi cùng đường.”
Về quê nhà, cầm cố đồ đạc vẫn không đủ đâu vào đâu, bố phải vay tiền mượn bạc lo liệu ma chay. Những ngày ấy, cảnh nhà thực ảm đạm, phần vì tang tóc, phần vì bố mất việc.
Làm đám xong, bố đi Nam Kinh tìm kế mưu sinh, tôi về Bắc Kinh tiếp tục học hành. Hai bố con đi cùng một chuyến. Tới Nam Kinh, bè bạn tôi kéo đi chơi, cầm chân hết một ngày. Sáng hôm sau tôi qua sông đi Phố Khẩu, chiều đáp tàu hỏa đi Bắc Kinh. Bố bận việc, bảo không tiễn chân được. Anh dọn phòng của quán trọ vốn quen đường thuộc sá, bố nhờ đưa tôi đi. Bố dặn dò anh hai ba lượt, chu đáo cặn kẽ. Rồi bố lại phân vân do dự hồi lâu, e rằng anh ta thiếu cẩn trọng. Thực tình năm ấy tôi đã hai mươi tuổi đầu, từng lui tới Bắc Kinh một đôi lần, bố đâu phải bận lòng quá như vậy. Băn khoăn hồi lâu, rốt cuộc bố nhứt định đích thân đưa tôi lên đường. Tôi cản mãi, bất tất phải thế. Nhưng bố bảo: “Không sao mà. Anh ấy đi thì chẳng tiện.”
Hai bố con qua sông đến ga. Tôi mua vé còn bố coi hành lý. Đồ đạc nhiều, phải tốn chút ít tiền trà nước cho mấy người khuân vác. Bố lại mất công kỳ kèo mặc cả với họ. Lúc ấy tôi cho rằng mình lanh lợi lắm mà bố thì thiếu hoạt bát, ắt phải có tôi xen vô mới được. Nhưng rồi bố cũng ngã giá xong và đưa tôi lên tàu. Bố chọn cho tôi một chỗ gần cửa sổ, căn dặn tôi dọc đường phải cẩn trọng, ban đêm phải coi chừng, kẻo mà cảm lạnh. Bố còn gửi gắm anh phục vụ trên toa chăm sóc, giúp đỡ tôi. Tôi nghĩ bụng sao mà bố lẩm cẩm thế, mấy người phục vụ này chỉ biết có tiền, dặn họ cũng bằng thừa. Vả lại tôi nay đã lớn, há không xoay xở một mình được ư? Chao ôi, bây giờ nhớ lại, sao hồi ấy tôi “thông minh” đến thế!
Tôi nói: “Bố ơi, bố về đi.” Bố nhác trông ra ngoài toa, bảo: “Con ngồi đây, chớ đi đâu, để bố mua mấy trái quít.” Nhìn xa, bên ngoài hàng rào chắn các bậc thềm lên xuống của sân ga, tôi thấy có mấy người bán buôn vặt vãnh chi đó. Đến được chỗ họ phải băng qua đường ray, leo qua hàng rào, rồi nhảy xuống. Bố người đẫy đà, tới được đó mà mua vài trái quít thì mệt lắm. Tôi muốn đi thay nhưng bố không chịu, đành để bố đi vậy. Tôi thấy bố đội cái nón vải đen nhỏ, mặc áo ngắn đen, choàng ra ngoài manh áo xanh đen vì đang chịu tang bà tôi. Bố lom khom đi về phía đường ray. Bước qua đường ray rồi leo qua rào cũng chẳng dễ gì. Bố bám vào phía trên hàng rào và đu người lên, tấm thân đẫy đà nghiêng sang bên trái, vất vả làm sao. Nhìn dáng bố phía sau lưng, mắt tôi bỗng nhòa lệ. Tôi vội vàng lau nước mắt, sợ bố và người ta bắt gặp. Khi ngước nhìn qua cửa sổ toa tàu, tôi thấy bố cầm trong tay mấy trái quít chín đỏ. Lúc sắp băng qua đường ray, bố để quít dưới chân hàng rào, rồi khó nhọc leo qua, xong lại cầm mấy trái quít đi lên thềm ga. Bố sang đến bên này, tôi lật đật xuống đón. Bố theo tôi leo lên toa, rũ bụi đất bám trên áo, nom ra vẻ bằng lòng. Lát sau, bố bảo: “Thôi, bố về nhé. Tới nơi nhớ biên thư bố hay.” Bố đi, tôi cũng xuống dõi mắt trông theo. Được mấy bước, quay lại thấy tôi còn đứng đó, bố giục: “Lên toa ngồi đi con. Trển đâu có ai!”
Tôi vẫn đứng yên tại chỗ, đến khi bóng dáng bố đã nhập nhòa vào đám đông tôi mới trở về toa, nước mắt lại trào ra.
Mấy năm gần đây hai bố con cứ phải bôn ba kiếm sống. Cảnh nhà mỗi lúc một suy sụp hơn. Bố từ thuở nhỏ đã phải sớm tự lập mưu sinh và cũng đã gầy dựng được chút sự nghiệp. Ngờ đâu đến buổi xế chiều lại khốn đốn thế này. Bà qua đời, đã quẫn bách lại càng thêm quẫn bách, và bố không tự kềm chế được. Tâm tư u uất, chuyện vặt vãnh trong nhà cũng đủ làm bố nổi giận. Lâu ngày bố đối xử với tôi có khác hơn khi trước.
Nhưng mới hai năm nay không gặp lại nhau, bố đã quên hết những chuyện chẳng hay ho gì đối với tôi, mà chỉ nhớ tôi, nhớ đám cháu nội. Sau khi tôi về Bắc Kinh, bố viết thư bảo tôi rằng: “Bố trong người cũng khỏe, hiềm hai vai nhức mỏi nhiều, cầm cái chén đôi đũa cũng khó khăn. Ngày đi chắc cũng sắp rồi...” Đọc tới đó, nước mắt tôi bỗng tuôn trào. Qua màn lệ nhạt nhòa, tôi hình dung bóng dáng sau lưng của bố, cái dáng đẫy đà trong chiếc áo khoác ngoài xanh đen, đội cái nón đen. Hỡi ôi, biết đến bao giờ mới nhìn thấy bố nữa!
LÊ ANH MINH
Bà Chiểu, 05-6-1994
Bản tiếng Việt đăng Người Lao Động (bộ mới),
số 58, ngày 21-02-1995.
Dịch từ Trung văn: Bối Ảnh, 1928.