MẸ HIỀN CỦA TÔI
HỒ THÍCH 胡適 (1891-1962) tự là Thích Chi 適之, quê ở
Tích Khê, tỉnh An Huy. Năm 1910, ông được Đại Học Thanh Hoa tuyển đi học ở Mỹ,
đỗ cử nhân triết học (Đại Học Cornell, 1915), và tiến sĩ triết học (Đại Học
Columbia, 1917). Ông là học trò triết gia John Dewey (1859-1952) và là tiến sĩ
danh dự của Trung Quốc trên ba mươi năm. Năm 1917 ông trở về Trung Quốc giảng
dạy tại Quốc Lập Bắc Kinh Đại Học.
Năm 1919
Hồ Thích viết bài Văn Học Cải Lương Xô
Nghị (Bàn Về Cải Cách Văn Học) trên tạp chí Tân Thanh Niên (do
Trần Độc Tú sáng lập).([1]) Hồ Thích đề xướng việc sử
dụng văn bạch thoại (văn nói bình dân thường ngày) thay thế cho thể văn cổ điển
(văn ngôn). Bài báo gây chấn động dư luận, từ đó phong trào Tân Văn Học phát
động, đưa đến cuộc cách mạng văn học Bốn tháng Năm (Ngũ Tứ vận động 1919). Kết
quả, Bộ Giáo Dục chấp nhận việc dạy bạch thoại trong các trường học kể từ 1920.
Năm 1931 Hồ Thích làm viện trưởng Bắc Đại Văn Học Viện (Viện Văn Học thuộc Đại Học
Bắc Kinh). Thời kháng Nhật, ông
làm đại sứ Trung Quốc tại Mỹ. Sau thời kháng Nhật, ông làm hiệu trưởng Đại Học
Bắc Kinh. Năm 1948 ông sang Mỹ dạy tại Đại Học Cornell và đồng thời làm chủ
nhiệm khoa Trung Văn của đại học này. Năm 1958 ông qua Đài Loan làm viện trưởng
Trung Ương Nghiên Cứu Viện và qua đời tại nhiệm sở này ngày 24-02-1962. Ông trứ
tác rất nhiều. Tác phẩm chính có Trung
Quốc Triết Học Sử Đại Cương, Bạch Thoại Văn Học Sử, Hồ Thích Văn Tồn, Hồ Thích Luận
Học Cận Trứ, v.v...
Ngoài
những tác phẩm danh tiếng nói trên, Hồ Thích có viết một hồi ức, kể lại những
năm tháng ngắn ngủi được mẹ dạy dỗ khi cha đã mất.([2]) Tuy chỉ ở bên mẹ đến năm mười
bốn tuổi, ông chịu ảnh hưởng rất sâu đậm của mẹ ông - một bà mẹ hiền mà cũng là một người cha nghiêm
khắc. Như ông bộc bạch, sự
nghiệp đời ông do mẹ mà có.
Tôi sinh
ngày 17 tháng 11 năm Quang Tự 17 (tức là 17-12-1891). Bấy giờ gia đình tôi cư
trú phía ngoài Đại Đông Môn của Thượng Hải. Sau khi tôi chào đời được hai
tháng, tuần phủ Thiệu Hữu Liêm tấu trình lên trên để thuyên chuyển cha đến Đài
Loan. Tuần phủ ở Giang Tô có can thiệp cho cha nhưng không hiệu quả. Cuối tháng
2 năm Quang Tự 18 (1892), cha đến Đài Loan, mẹ con tôi dọn về Xuyên Sa (phía
đông Thượng Hải) và cư trú ở đó được một năm.
Ngày 26
tháng 2 năm Quang Tự 19 (1893), cả nhà tôi gồm mẹ, chú tư Giới Như, anh hai Tự
Cự, anh ba Tự Phi, và tôi từ Thượng Hải cùng dọn đến Đài Loan. Chúng tôi ở Đài
Loan mười tháng. Tháng 5 năm Quang Tự 19, cha làm tri châu của châu Trực Lệ ở
Đài Đông kiêm nhiệm tổng quản các doanh trại hậu quân ở Trấn Hải. Bấy giờ Đài Đông
mới được thành lập, mọi thứ đều mới mẻ nên cha không mang gia quyến đi theo.
Cuối năm Quang Tự 19, chúng tôi mới dọn đến Đài Đông và cả gia đình cư trú ở đó
trọn một năm.
Năm Giáp
Ngọ (1894) chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ. Đài Loan cũng thuộc vùng có chiến
sự. Cha bèn nhờ chú tư đưa gia đình trở về cố hương An Huy, chỉ có anh hai Tự
Cự còn ở lại Đài Đông với cha.
Tháng Giêng
năm ấy, Trung-Nhật nghị hòa thành công nhưng Đài Loan bị cắt nhượng cho Nhật.
Các thân sĩ và cư dân Đài Loan cực lực phản đối sự cắt nhượng này và yêu cầu
tuần phủ Đường Cảnh Tung phải cố thủ. Đường Cảnh Tung thỉnh cầu các nước phương
Tây ra tay can thiệp nhưng không ai nhận lời. Dân chúng Đài Loan thỉnh cầu
Đường Cảnh Tung làm đại tổng thống của nước Đài Loan Dân Chủ. Bang biện quân vụ
là Lưu Vĩnh Phúc ([3])
làm chủ quân đại tổng thống. Cha làm nhiệm vụ phòng giữ Hậu Sơn ở Đài Đông. Lúc
đó điện báo bị cắt liên lạc. Còn cha thì bị bệnh, chân trái không cử động được.
Cha cố thủ đến mồng 3 tháng 5 nhuận thì bắt đầu rời bỏ Hậu Sơn. Lúc cha đến An
Bình, Lưu Vĩnh Phúc nài giữ để xin cha trợ giúp, chứ không chịu ra hàng. Đến
ngày 25 tháng 6, hai chân cha bị liệt hẳn, Lưu Vĩnh Phúc đem cha ra hàng Nhật.
Ngày 28 tháng 6, Nhật đến Hạ Môn, bấy giờ cả tứ chi cha đều tê liệt và qua đời
tại Hạ Môn ngày mồng 3 tháng 7 năm Ất Mùi (1895).
Khi cha
tôi mất, mẹ tôi mới hai mươi ba tuổi.
Sau khi
kết hôn không lâu, cha tôi đưa mẹ tôi đến chung sống tại Thượng Hải, giúp mẹ
tôi thoát cảnh khổ sở của một đại gia đình. Cha rất yêu mẹ. Dù bận bịu trăm
công ngàn việc, nhưng cha vẫn dành thời giờ để dạy mẹ tôi nhận biết mặt chữ
Hán. Những năm ấy gia đình cực kỳ hạnh phúc. Thuở thơ ấu, tôi rất được cha yêu
thương chìu chuộng. Khi tôi chưa đầy ba tuổi, cha lấy những tờ giấy hồng điều
có viết chữ Hán mà trước đây cha đã từng dạy cho mẹ đem ra dạy lại cho tôi. Cha
là thầy giáo của tôi và mẹ tôi đứng bên cạnh làm phụ giảng. Khi tôi học chữ mới
thì mẹ cũng có dịp ôn lại những chữ mẹ đã học. Lúc cha quá bận rộn thì mẹ thay
cha dạy chữ cho tôi.
Lúc gia
đình chúng tôi rời Đài Loan, mẹ đã nhận biết được non một ngàn chữ Hán và tôi
thì biết được trên bảy trăm chữ. Những chữ Hán vuông vuông trên giấy hồng điều
là do đích thân cha viết chân phương theo lối chữ khải và mẹ đã trân trọng gìn
giữ những tấm giấy hồng điều có chữ ấy trọn cả một đời, bởi vì đó là kỷ vật
thiêng liêng ghi dấu những ngày tháng đoàn viên ấm cúng và hạnh phúc nhất của
cha, mẹ, và tôi.
Hồi ở
Đài Loan tôi bệnh nặng nửa năm, sức khỏe rất yếu. Lúc trở về quê cũ, tôi đã năm
tuổi mà chưa thể nhảy qua khỏi cái ngạch cửa cao mấy tấc. Nhưng mẹ rất tha
thiết cho tôi học tiếp chữ Hán ngay. Mẹ gởi tôi đến trường học của chú tư Giới
Như cho tôi tiếp tục học chữ. Bấy giờ vóc người tôi rất nhỏ bé, phải có người ẵm
lên ghế hay ẵm xuống ghế mới được. Nhưng trong trường tôi không phải là học
sinh lớp thấp nhất vì trước khi vào đây tôi đã biết gần một ngàn chữ Hán rồi.
Mỗi sáng
sớm mẹ đánh thức tôi dậy, bảo mặc quần áo. Tôi không rõ mẹ thức dậy hồi nào và
đã ngồi bên tôi được bao lâu. Mẹ đợi tôi tỉnh táo hẳn rồi mới bảo tôi biết ngày
hôm qua tôi đã làm chuyện gì sai, đã nói lời gì không phải. Rồi mẹ bảo tôi phải
nhận lỗi và phải hứa cố gắng học hành. Đôi khi mẹ kể cho tôi nghe những việc
làm tốt đẹp của cha: “Con phải noi theo bước chân của cha. Trọn đời mẹ chỉ biết
có một người toàn diện, chính là cha con đó. Con phải học tập gương cha con,
đừng để cha con phải xấu hổ mất mặt vì con, con nhé!” Khi nói đến chỗ thương
tâm, mẹ xúc động không cầm được nước mắt.
Khi trời
thật sáng hẳn, mẹ mới mặc quần áo đẹp cho tôi và đưa tôi đến trường. Chìa khóa
cổng trường thì để ở nhà thầy giáo. Đến trường, tôi nhìn xem cổng đã mở chưa.
Nếu chưa thì tôi chạy ù sang nhà thầy lấy chìa khóa rồi chạy về trường mở cổng
và bắt đầu học bài mới. Trong mười ngày đi học thì có đến tám chín ngày tôi là
học sinh đến trường sớm nhất. Khi thầy giáo đến trường thì tôi đã thuộc bài
rồi. Sau đó mới về nhà ăn sáng.
Mẹ quản
tôi rất nghiêm. Mẹ vừa là một từ mẫu vừa là một nghiêm phụ. Nhưng mẹ không bao
giờ mắng nhiếc tôi hoặc đánh tôi trước mặt người khác. Mỗi khi tôi phạm lỗi, mẹ
chỉ nhìn tôi một cái. Thấy ánh mắt nghiêm nghị của mẹ là tôi sợ và thôi ngay.
Nếu tôi phạm lỗi nhỏ mẹ đợi đến sáng sớm hôm sau, sau khi tôi tỉnh giấc hẳn,
bấy giờ người mới dạy bảo. Nếu tôi phạm lỗi lớn, ngay buổi tối hôm đó, đợi mọi
người ngủ yên thì mẹ gài cửa phòng lại, trước tiên là khiển trách tôi, sau đó
lại ra hình phạt: hoặc quỳ gối, hoặc cấu véo da thịt tôi. Dù hình phạt nào,
không bao giờ mẹ để người khác nghe tiếng tôi khóc. Đối với mẹ, việc dạy con
không phải là giận thét ầm ĩ để người khác nghe thấy.
Một
chiều đầu thu, ăn cơm xong, tôi chơi trước cửa, trên người mặc phong phanh
chiếc áo cộc. Dì Ngọc Anh là em gái của mẹ cùng ở chung với chúng tôi thấy thế,
sợ tôi cảm lạnh bèn đi vào lấy áo khác và bảo tôi mặc. Tôi không chịu. Dì
khuyên: “Mặc vào đi cháu, kẻo lạnh đấy.” Tôi vọt miệng trả lời: “Dì này á. Lạnh
lẽo cái quái gì?” Ngay lúc nói xong, quay đầu lại tôi thấy mẹ từ trong nhà bước
ra. Tôi vội vội vàng vàng xỏ áo. Nhưng mẹ đã nghe hết những lời hỗn hào tôi nói
với dì Ngọc Anh rồi. Tối hôm ấy, khi mọi người đã ngủ yên, mẹ phạt tôi quỳ và
trách mắng một trận dữ dội: “Con không còn cha nữa nên đắc ý ăn nói mồm mép như
vậy hả?” Mẹ giận lắm, ngồi mắng tôi mà cứ run cả người. Rồi mẹ không cho tôi
đứng dậy đi ngủ. Tôi quỳ mãi và khóc, tay lau nước mắt, không ngờ tay bẩn làm
sau đó bị viêm mắt kéo dài hơn một năm, chạy thầy chạy thuốc không khỏi. Mẹ quá
ân hận. Nghe nói bệnh viêm mắt này có thể dùng đầu lưỡi rơ vào thì khỏi. Một
tối nọ, mẹ đánh thức tôi dậy, dùng đầu lưỡi rơ mắt cho tôi. Ôi, mẹ tôi, một
người cha nghiêm khắc mà cũng là một mẹ hiền!
Mẹ đối
đãi với người khác rất nhân từ và ôn hòa, chưa bao giờ thốt một lời xúc phạm
làm người khác phải đau lòng. Nhưng mẹ rất cương trực và khẳng khái, không để
ai xúc phạm đến mình. Trong gia đình tôi, chú năm là một lãng tử, không nghề
nghiệp chính đáng. Một hôm tại quán nước chú la lối bất mãn cho rằng trong gia
đình tôi hễ có việc cần thì nhờ người ngoài giúp đỡ chứ không để việc tốt ấy
cho chú. Lời nói này đến tai mẹ. Mẹ rất giận và khóc, rồi thỉnh mời tất cả mọi
người trong đại gia đình lại, trách chú năm trước mặt đông đủ mọi người, rồi
buộc chú năm nhận lỗi, mẹ mới thôi.
Tôi được
mẹ thương yêu dạy dỗ nghiêm khắc được chín năm, chịu ảnh hưởng rất sâu đậm của
mẹ. Khi tôi mười bốn tuổi (thực ra là mười hai tuổi ba tháng) thì phải rời mẹ
xa nhà đi học hơn hai mươi năm không ai quản thúc. Nếu tôi học tập được mảy may
tính chất tốt đẹp nào, nếu tôi học tập được thái độ ôn hòa trong cư xử với tha
nhân, nếu tôi có thể khoan dung thứ tha được người khác, thì tất cả là nhờ ở mẹ
hiền của tôi mà có.
LÊ ANH MINH
Dịch từ Trung văn: Ngã Đích Mẫu Thân, 1930.
Bản
tiếng Việt đăng Đại Đạo Văn Uyển, tập
23, năm 2017.