22. NGÔ KHAI TÂM PHÁP ĐỘ QUẦN MÊ
Tý thời, ngày 16-4 Đinh Dậu (Thứ Tư 15-5-1957)
NGÔ khai tâm
pháp ([1]) độ quần mê ([2])
CAO hạ trần
ai nguyện được về
TIÊN Phật muốn thành, công quả lập
GIÁNG thăng pháp đạo
luyện đơn khuê.([3])
Bần Đạo chào chư Thiên ân, chư hiền sĩ.
Giờ này Bần Đạo đến đây điểm qua thời gian thất nhựt tu tịnh cơ bản của chư hiền sĩ trong khóa
mười tám ngày.
Mỗi người vào mật thất ([7]) được trao khẩu
khuyết để khai tâm. Truyền khẩu khuyết là truyền cái gì? Truyền cái yếu nhiệm then chốt của cơ Tạo Hóa để tạo Tiên tác Phật. Có
làm được Tiên Phật mới độ dẫn được chúng sanh.
Các hiền đây là người Lễ Sanh Đầu Họ, người được Hội
Thánh chia cắt coi giữ một địa hạt, trông nom một số đạo đồ. Người Đầu Họ là người rất quan trọng, được Thầy
ban quyền ban pháp, chăm nom trực
tiếp đàn chiên.([8]) Quyền hành ấy rất là trọng hệ; phải có pháp để độ mình, độ người. Pháp đó phải nương nơi quyền;
quyền được tỏ sáng là bởi ở tâm hạnh mà ra.
Tâm hạnh muốn được nảy
nở tươi xanh phải lập trụ ở phần trúc cơ
([9]) khẩu khuyết. Mà pháp đã trao là cơ bí mật tự nhiên hé lần, cũng như tấm màn được cuốn.([10])
Vậy hôm nay Bần Đạo trao cho khẩu khuyết yếu ước ([11]) pháp môn để bảo toàn thân tâm Tứ Bửu. Sự trao quyền pháp
này không vì cá nhân mà vì một số lớn nhơn sanh đang núp dưới quyền pháp.
Người môn đồ đạt cơ mầu nhiệm là phải được tâm hạnh viên dung.([12]) Sự trao đây cũng như
trao cái chìa khóa mở các kho
tàng mầu nhiệm của Tạo Hóa. Nhưng trao cho không
phải trao cái chìa cho người tịnh viên nắm giữ, mà trao bằng khẩu khuyết, chỉ
để nhớ là đủ.
Nghĩa là khóa này không chìa mà khóa này
khóa bằng số, hay khóa chữ. Khóa
chữ thì truyền chữ để mở. Khóa số có ba bánh xe ghép lại mới thành mà mỗi bánh gồm đủ chín số; mỗi số vị trí không nhất
định vì pháp đạo thường hành, hàm tàng biến hóa.
Không thường trụ ([13]) mà tự tại.([14]) Không thường trụ mà
trụ. Trụ mà không trụ là cơ mầu
nhiệm của nó. Biết được nó thì phải
được truyền mới biết mà thôi.
Người được truyền là
người đã được lòng tin cậy của kẻ trao truyền.
Kẻ được trao truyền mà tiết lộ cho người gian xảo biết thì mất mát đồ dùng, báu
vật trong kho tàng ấy sao?
Người được truyền mà lòng còn gian tham cũng như bè lũ với đám gian tham thì có truyền cho rồi cũng thành vô dụng. Vì sao? Vì khóa không chìa,
muốn mở phải dùng bằng số, dù ai đã biết số rồi mà người chủ cái kho tàng đó
thấy không đủ tin cậy, hay bị mất mát thì tức khắc đổi thay số khác, làm
cho kẻ gian không hề biết được sự
mầu nhiệm. Vậy, các hiền cần thật lòng mình cho lắm. Nghĩa là còn
tham dục thì tức khắc bánh xe chữ quay
liền, khiếu quan ([15]) lấp
lại, cửa Huyền Quan ([16]) không
còn tự do cho ý tình lui tới. Vậy ý nghĩa của sự khẩu truyền là thế.
Nói vậy các hiền cũng
chưa rõ. Để rõ hơn, là yếu khuyết vào tịnh hôm nay có hai phần: phần tâm pháp
và phần tướng pháp. Tướng mà tâm là Tứ Bửu đã trao cho người chức sắc có quyền từ Giáo Hữu trở lên mà đặc biệt là
người làm đầu trong họ, coi một thánh thất.
Người làm Đầu Họ thánh
thất có đủ bốn pháp. Bốn pháp đã nói rõ tên ấy có hai phần công dụng: một là
pháp thể, hai là pháp dụng. Như thế nào sẽ có khẩu truyền.
Bây giờ Bần Đạo nói qua
nhiệm vụ của người Đầu Họ có sứ mạng trong giai đoạn hoàn thành chỉnh
cơ lập pháp.
Để tiếp ân Khai Cơ Giáo Pháp, người Đầu Họ cầm giữ bộ
đạo, bộ đời thì cái hồn nhơn sanh đã gởi vào tay quyền pháp của người chức sắc
có sứ mạng. Người chức sắc ấy được hồng ân Thiên sứ,([17]) quyền pháp tối linh là Tứ Bửu.
Hội Thánh đã chia quyền
chăm nom, sửa trị nền đạo một nơi thì nhơn sinh còn mất, vui khổ bởi người.
Toàn đạo đều núp dưới ân oai quyền pháp của người. Đạo hữu chết, người có quyền
cầu xin siêu độ. Sanh đau, già khổ đều do người thay Thầy và Hội Thánh mà cứu. Đạo
hữu trong họ thuộc trọn quyền người xin tha xin phạt. Nếu đau, người cho phép
chữa bịnh. Tai nạn, nghiệp chướng người cho phép giải oan. Lầm lỗi, người tẩy
tịnh. Khờ dại, người khai đàn. Biết tùy sự, tùy khả năng mà phân công an vị.
Giáo hóa giác ngộ là trấn thần. Cứu đói trợ nghèo, chia đau sớt buồn, xây dựng
quyền sống thế gian là chẩn bạt.([18]) Chẩn
bạt cho phần hồn mới liễu kiếp.([19])
Nên quyền pháp người
Đầu Họ trở nên quan trọng. Đầu Họ mới có quyền thay cho Hội Thánh, mà quyền ấy
lại có bốn pháp hay cứu hay độ được người. Nếu có phép, có quyền mà không lo an
dưỡng tu học thì trái lại rất nguy hiểm. Đã đành hư thân phạm vào tam khổ,([20]) mà còn làm cho bao nhiêu người bị xa lìa pháp đạo, đọa lạc
trầm luân.
Chuồng chiên ([21]) đã
giao cho chăn giữ, không nên nhốt chiên mãi trong chuồng, bỏ tù phạt đói (nỗi
sợ mất đạo) hoặc thả đi rông cương, không theo coi chừng, chăm sóc, hướng dẫn nơi ăn chỗ núp (phó mặc đạo hữu).
Cũng như các con chiên bị bịnh, không đi ăn được mà không cỏ nuôi thân (chẩn
tế). Nhiều con bị ghẻ chốc lở
lói, không kiếm thuốc đắp đặt cho lành (trị bịnh). Đám chiên nhơ bẩn bùn lầy,
không lo tắm rửa (tẩy tịnh) thì nào khác chi đạo hữu trong họ nhiều kẻ nhơ bẩn,
phạm phải quy giới, đạo pháp mà không làm các pháp trên để cứu độ về phần hồn
cũng như đời sống. Dù có làm các pháp ấy đi nữa cũng chỉ làm cái mộng ([22]) mê tín chứ không làm được cái đức tin quyền pháp, cái lực
lượng cứu thế trong quyền pháp giữa mọi người cùng Thượng Đế. Vậy các hiền
trong khóa tịnh này nên ghi nhớ lời Bần Đạo để được cứu.
Ngày gần đây các đệ
cũng như mọi người cùng trong cảnh khổ. Nhưng cái khổ của thế gian có kết quả
trầm mê,([23]) chứ
cái khổ của người trong quyền pháp nó vui tươi, không thể ai thấy. Vậy danh lợi
chi mà cầu xin? Của cải chi mà ham muốn? Vợ con, nhà cửa, bạn bè đều là nghiệp
oan dính dáng. Vui sướng là mưu chước phỉnh phờ; khổ đau là phương hình phạt.
Nhiều người chức sắc
còn quá luyến mến gia đình. Rủi con chết, vợ chết lòng sinh đảo điên, không chủ
được tâm thanh tịnh nên không làm gương hướng đạo cho toàn thể tín đồ.
Các hiền đệ kỳ này gắng
đạt lấy tiêu đề mà Bần Đạo đã dặn dò. Nếu được thì đợt hai sẽ khẩu truyền bí
pháp nữa.
Bây giờ đây đã sáng
rồi. Bần Đạo ra lệnh cho Liên Hoa ([24]) coi lại bài thánh giáo trước để khẩu truyền Tam Bảo Hoàn
Châu và coi lại các pháp môn Tứ Bửu, rồi có dịp sẽ dạy thêm.
Tối nay Thanh ([25]) tiếp bài điểm danh các tịnh viên. Giờ này được nghỉ.
Bần Đạo chào chư hiền.
([8]) chiên (cao dương 羔羊; miên dương 綿羊): Cừu; nghĩa bóng là tín đồ dưới quyền chức sắc hướng đạo
(người chăn chiên).
([9]) trúc cơ 築基: Xây nền đắp móng; xây dựng nền tảng.
Tiên Học Từ Điển 仙學辭典 của Đới Nguyên Trường 戴源長 giảng rằng tích lũy tinh khí là trúc
cơ.
([12]) tâm hạnh viên dung 心行圓融: Tâm
hạnh có thể hòa hài mọi khác biệt một cách hoàn hảo, không bị ngăn ngại.
([14]) tự tại 自在: 1/ Thong dong; thoải mái. – 2/ Tự do; không bị ràng buộc vì không
còn bị phiền não, không còn bị lục dục và thất tình sai khiến.
([15]) khiếu quan: Quan khiếu 關竅, là thuật ngữ tu đơn, để
gọi những lỗ trống trong thân thể mà hành giả vận khí đi qua đó. Phép đạo
dẫn 導引 cho rằng luyện tinh
hóa khí, và khí phải đi qua quan 關 (trạm gác, cửa ải). Theo y học cổ truyền, trên mạch Nhâm 任 và mạch Đốc 督 trong thân người có
nhiều lỗ khí (khí huyệt 氣穴) và cũng có nhiều trạm gác (quan 關). Hành giả tu đơn
dẫn khí qua các trạm gác này để vận hành khí đi khắp toàn thân.
([16]) cửa Huyền Quan: Cũng gọi là
Huyền Quan Khiếu 玄關竅, Tổ
Khiếu 祖竅, Thiên Môn 天門, Côn Lôn Đảnh 崑崙嵿. Nó ở trong não, phía dưới Nê Huờn Cung 泥環宮,
ngang cặp lông mày, là cửa xuất nhập của chơn thần. Tây y gọi là Não Thất Ba (the Third Ventricle).
([18]) chẩn bạt 賑拔: Chẩn
là cứu tế, cứu trợ, cứu giúp. – Bạt là kéo ra ngoài (thoát khỏi chỗ nguy hiểm hay nơi
khổ đau).
([20]) tam khổ
三苦: Ba
loại khổ là: khổ khổ 苦苦 cái
khổ vì chính nỗi khổ gây ra; hoại khổ
壞苦 cái khổ vì sự mất mát hay vì bị tước đoạt; hành khổ 行苦 cái khổ vì sự vô thường. – Phân biệt với tam đồ khổ 三途苦: Cái khổ bị sa vào ba đường dữ là hỏa đồ 火途 (đường
lửa); đao đồ 刀途 (đường dao kiếm), và huyết đồ 血途 (đường
máu). Tam đồ
cùng nghĩa với tam ác đạo 三惡道 (ba đường dữ) là địa
ngục 地獄, ngạ quỷ 餓鬼, và súc
sanh 畜生. Đây là ba nơi hồn tội nhân
phải tới để đền nợ gây tạo ba nghiệp ác về thân, khẩu, ý. 1/ Hỏa
đồ là địa ngục đạo 地獄道 (tội nhơn bị luộc trong dầu sôi, bị nướng trên lửa). 2/ Đao đồ là ngạ quỷ đạo 餓鬼道 (tội nhân bị gươm đao đâm chém). 3. Huyết đồ là súc sanh đạo 畜生道 (tội
nhân ăn thịt và uống máu lẫn nhau).