11. TỨ TƯỢNG CHẾ LUYỆN HÀ ĐỒ
Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng)
Ngày
24-10 Bính Thân (Thứ Hai 26-11-1956)
THI
Ngoài
vòng cương tỏa ([1]) mới là vinh
Hưởng
thú nhàn Tiên dạ thái bình
Chén
rượu Tiên đơn quên thế sự
Ngâm
câu thi tứ lắm thanh bình.
NGÔ ĐẠI TIÊN
Chào chư hiền đồ. Chư hiền đại tịnh. Bần
Đạo miễn lễ.
Giờ này Bần Đạo tiếp dạy qua một ít và ban
thần hộ điển để trấn thần đạo y. Vậy chư hiền đồ an tọa.
Đợt tịnh này Bần Đạo chuyển theo thời hỗn
nguơn lập pháp, nên đặt tên là khóa Tứ Tượng Chế Luyện Hà Đồ, vì nó có năm mươi
bốn ngày, mà năm mươi bốn ngày nằm trong thời kỳ âm dương hỗn hợp trước Đông
Chí, sau Đại Hàn. Vì vậy số điểm Tứ Tượng Đồ là năm mươi bốn. Chư hiền lấy năm
mươi bốn điểm này chia ra cho đến con số Thái Hư rồi lấy số Thái Hư nhơn với
năm mươi bốn để tìm ra Bát Quái.
Bần Đạo cho chư hiền thấy hai điểm đen và
đỏ để trừ, cộng, nhơn; chỉ theo phép luyện châu mà tìm ra chơn tức.([2]) Giờ công phu sẽ đạt pháp mà Bần Đạo đã
nói. Đợt này Bát Tiên có xin ngự bút, nên kỳ ngưng cơ bên Tam Giáo chưa
chuẩn. Vậy chư hiền được người phò hộ, rán mà tu.
Bần Đạo không dạy gì hơn nữa. Để lời kỷ
niệm ngày vào khóa và lấy đây làm thước của thời gian tiến thủ.
THI
Tứ
Tượng đồ hình để gẫm suy
Âm
dương tiến hóa lắm mầu vi
Cọp
rồng giao hội hòa quy phụng
Nhứt
lộ đồng đăng ([3]) ngộ nhứt kỳ.
KỲ,
NGỘ chơn Tiên được khẩu truyền
TÍN
tâm sẽ thấu máy huyền thiên
Một hô
một hấp ([4]) cơ mầu nhiệm
Nửa
trước nửa sau kết hống diên.([5])
Duyên
xưa mới gặp được Tam Kỳ
BÌNH
tĩnh mà tu cướp hội ni ([6])
Một có
một không thành bí mật
Đường lành
thong thả bước cùng đi.
Đi vào
cõi Thánh lắm xa xăm
Công
quả, công trình phải mấy năm
DINH
đạt cơ huyền ([6b]) thông vạn pháp
Pháp
tâm u hiển ([7]) nhớ mà chăm.
Chăm
chỉ cho thường kẻo lậu hư
DƯƠNG
quang khởi động phải như như
Nước
lên lửa xuống chừng mô mới
Mới
được Thần về hội Thánh Sư.
Sư phụ
truyền trao pháp chế đơn
Đơn
linh nấu luyện chóng lần hơn
KIÊN(G)
dè cho lắm khi nhiều lửa
Lửa
bớt cơm sôi chớ có hờn.
Có hờn
có giận mà chi
Có tu
mới gặp được kỳ Long Hoa
THANH
cao là dễ gần Ta
Vô tư
mới thấy Huỳnh Bà ([8]) đưa tin.
Tin ở
nơi mình, ở pháp tu
SUM
tam, bát mộc vận công phu
Công
phu cho thấy say sưa mới
Mới
nhập Tiên cung hiệp vạn thù.([9])
Vạn thù quy nhứt bổn ([10]) là
đây
Đây
mới là nơi để gặp Thầy
TRÂN
trọng ngày đêm hành pháp đạo
Đạo
mầu chưa dễ mấy người hay.([11])
Hay dở
làm rồi mới biết thôi
Hay
thời hạ thủ ([12]) gấp chiều mơi
CÁN
cân công luật Thầy cho nhích
Mới
thấy huyền linh ở tại người.
Người
mau nhẹ gót theo Thầy
Theo
Thầy học đạo từ rày ([13]) về sau
Theo
Thầy mà cứu độ nhau
ĐỀ huề
([14]) chung
cuộc sang giàu nhà Tiên.
Tiên
Phật hằng mong giúp đỡ người
TUYÊN
trò nhẹ gót lánh xa đời
Đời là
bể khổ, lo phương cứu
Cứu
được mình xong để cứu người.
Người
đời mấy kẻ nghĩ xa
Cuộc
đời nào khác như hoa bốn mùa
ĐÀO
hồng vườn hạnh há đua
Xuân
về tươi thắm cành ra quả lành.
Lành
giữ, dữ xa mới phải mầu
Đạo
Thầy ở đó có xa đâu
Hễ
thanh cao được nhiều thanh phước
THỤC
chí ([15]) tu cầu
khó chẳng lâu.([16])
Lâu
mau sự ấy tùy mình
Công
phu dồn dập công trình càng cao
HÒE kỳ
đại xá được trao
Nữ nhi
đáng phận, động đào ([17]) xứng ngôi.
Ngôi
lành chờ sẵn thưởng công cho
CƯ xử
đôi bên phải được nào
Tu
hạnh lập công lo tiến bước
Công
phu rèn luyện chí thanh cao.
Cao
quyền do ở lòng nhân
Cao
ngôi do chí ân cần công minh
Cao
Tiên hay chế luyện hình
HẬU kỳ
Thánh đức thùy tình ([18]) ban
phong.
Phong
cho chư sĩ lắm công trình
PHẨM
vị Thầy dành kẻ đức tin
Tin có
quyền năng không cách mấy ([19])
Thì đâu ngần ngại bước tiền trình.([20])
Tiền
trình còn lắm khó khăn
ĐÁN(G)
([21]) ra
cũng phải đôi trăng ([22]) mới rồi
Hôm
nay công hạnh trau giồi
Điển
lành Thầy ngự tài bồi ([23]) cho
thêm.
Coi đó mà tu.
Đạo y. Nhang.
Kỳ tịnh này đợt đầu mười tám ngày rèn
luyện Tứ Bửu theo chương trình và ôn lại thời luyện châu. Pháp Tứ Bửu phải
chỉnh đốn, nhưng nay phải làm theo mỗi thời để trị tâm chế dục và cầu lấy ân
điển cứu mình và luyện pháp ấy cho thuần thục, được linh để cứu người trị bịnh:
Lấy nước dương cúng xong lại dùng làm
pháp. Bưng lên cung kính cầu nguyện rồi họa phù Tam Thiên, Nguyên, Hanh, Lợi,
Trinh, v.v... để trên ấn Tý và thư phù luyện chú. Xong để bình bát nơi tay mặt,
ngay ngực, úp ấn Tý nơi miệng bình mà định thần cầu nguyện.
Pháp Khai Đàn, An Vị: Cũng thế. Để bình
nơi ấn Kiết Tường và úp ấn Kiết Tường sau khi quyết ấn lên trên bình bát một
lúc.
Chẩn Tế: Để bình nơi ấn Tam Ngung, họa
phù, đọc chú xong trao bình lại tay mặt, rồi úp ấn Ngũ Lôi lên trên miệng
bình.
Giải Oan: Cũng thế. Để bình trên ấn Tam
Ngung mà trì chú, xong cũng úp ấn Tiên Thiên vào miệng bình.
Ấn Ngũ Lôi như thế này: Ngón tay cái đè
hai ngón vô danh và út, ngón trỏ và ngón giữa ngay lên.
Ấn Tiên Thiên: Tay trái ngón cái ấn vào
đầu ngón vô danh, cung tròn thành hình Vô Cực. Tỵ, Ngọ, Thân thẳng ra. Tỵ ngã
về sau ba ly. Ngọ thẳng. Thân ngã về trước ba ly. Để lên miệng bình cầu nguyện
chuyển điển.
Phù Nam, Bắc phương sửa lại: Bắc,
Nam.
Nghĩa là ba ngôi tượng hình vẽ thành con
người đứng.
[Phẩm bạch ...]
Tẩy Tịnh rồi Khai Đàn luôn một điển (...). Trấn Thần một điển (...). An Vị một điển.
Còn hỏi gì các pháp đó không?
Phép Trì Bình: Mỗi khi làm phép xong khóa
bình bằng chữ Tốc. Khi Khai Bình bằng chữ Y hoặc phù Tam Thiên dọc cũng
được (...).
Bình ai nấy giữ để làm phép. Sau quy liễu
trao lại cho người mà mình tín nhiệm. Bằng kim khí cũng tốt, nhưng phải là bạch
kim để khỏi ten rét mất vệ sinh.
Ở Hiệp Thiên Đài, chư chức sắc nào cũng
phải biết qua các pháp mà lịnh trên ban xuống. Đợt này cũng được đồng thọ.([24])
Giờ hành pháp luyện pháp cũng Tẩy Tịnh,
Khai Đàn bằng phù chú đủ phép, nhưng không đứng dậy. Làm xong mười ba ngày,
nghĩa là bắt đầu Tý 25 các hiền thi hành. Còn các giờ công phu sau đợt này sẽ
hành trì chế luyện hỏa dược ([25]) thiền
định. Ngay đợt này luyện châu mà thôi. Còn dư giờ cũng luyện chứ không cần đủ
mấy vòng, nghĩa là luyện để an thần chế dục. Coi theo bài Đông Phương Lão Tổ về
pháp luyện châu. Cuối đợt có đàn. Liên Hoa sẽ được lịnh truyền qua những pháp
môn hành trì ôn dưỡng.
Thôi, Bần Đạo ban ơn lành.
Bãi đàn các hiền nghỉ.
Chư phận sự Hiệp Thiên Đài đọc bài chú
Thông Minh. Cắm nhang lên đầu cần cơ (nhang để xây đầu xuống ngòi bút) và đốt
nhang. Bần Đạo trợ điển.
Thôi, Bần Đạo chào chư hiền đồ.
Thăng.
([2]) chơn tức 真息: Hơi thở (tức) có hai loại: Phàm tức 凡息 là hơi thở của
người phàm, thở ra từ miệng và mũi; và chơn tức là hơi thở của chơn nhơn 真人. Chơn tức
cũng là thai tức 胎息; là hơi thở giống như của bào thai trong tử
cung người mẹ; khi ấy hành giả thở rất nhẹ nhàng mà không dùng mũi và miệng.
([3]) nhứt lộ đồng đăng 一路同登:
Cùng đi chung một con đường; cùng tu theo một pháp môn; cùng theo một đạo (tôn
giáo).
([5]) hống diên 汞鉛: 1/ Hống là thủy ngân (Hg), chỉ nguơn thần;
diên là chì (Pb), chỉ nguơn tinh. – 2/ Trong phép tu nội đơn 内丹, diên ám chỉ thận, mà thận thuộc hành thủy (quẻ Khảm);
hống ám chỉ tim, mà tim thuộc hành hỏa (quẻ Ly). Thủy hỏa ký tế 水火既 濟 (thủy hỏa cứu
giúp nhau), tức là chiết Khảm điền Ly 折坎填離 để trở nên thuần dương: Ly trở thành Càn, tức
thành chơn nhơn 真人.
([8]) Huỳnh Bà 黃婆: 1/ Trong Ngũ
Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) thì Thổ là trung ương ở giữa, màu vàng; thổ lại
là trung tâm của Thủy, Hỏa, Kim, Mộc, nên gọi Thổ là Huỳnh Bà. 2/ Lá lách (tỳ 脾) sản sinh máu và nuôi dưỡng các cơ quan trong
thân thể. Với chức năng này, lá lách được ví như Huỳnh Bà, tức là người mẹ chăm
chỉ, vô tư chăm sóc con cái. 3/ Một ẩn ngữ trong phép tu nội đơn 內丹 của đạo Lão.