Thứ Sáu, 16 tháng 8, 2024

11. TỨ TƯỢNG CHẾ LUYỆN HÀ ĐỒ

 11. TỨ TƯỢNG CHẾ LUYỆN HÀ ĐỒ

Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng)

Ngày 24-10 Bính Thân (Thứ Hai 26-11-1956)

THI

Ngoài vòng cương tỏa ([1]) mới là vinh

Hưởng thú nhàn Tiên dạ thái bình

Chén rượu Tiên đơn quên thế sự

Ngâm câu thi tứ lắm thanh bình.

NGÔ ĐẠI TIÊN

Chào chư hiền đồ. Chư hiền đại tịnh. Bần Đạo miễn lễ.

Giờ này Bần Đạo tiếp dạy qua một ít và ban thần hộ điển để trấn thần đạo y. Vậy chư hiền đồ an tọa. 

Đợt tịnh này Bần Đạo chuyển theo thời hỗn nguơn lập pháp, nên đặt tên là khóa Tứ Tượng Chế Luyện Hà Đồ, vì nó có năm mươi bốn ngày, mà năm mươi bốn ngày nằm trong thời kỳ âm dương hỗn hợp trước Đông Chí, sau Đại Hàn. Vì vậy số điểm Tứ Tượng Đồ là năm mươi bốn. Chư hiền lấy năm mươi bốn điểm này chia ra cho đến con số Thái Hư rồi lấy số Thái Hư nhơn với năm mươi bốn để tìm ra Bát Quái. 

Bần Đạo cho chư hiền thấy hai điểm đen và đỏ để trừ, cộng, nhơn; chỉ theo phép luyện châu mà tìm ra chơn tức.([2]) Giờ công phu sẽ đạt pháp mà Bần Đạo đã nói. Đợt này Bát Tiên có xin ngự bút, nên kỳ ngưng cơ bên Tam Giáo chưa chuẩn. Vậy chư hiền được người phò hộ, rán mà tu. 

Bần Đạo không dạy gì hơn nữa. Để lời kỷ niệm ngày vào khóa và lấy đây làm thước của thời gian tiến thủ.

THI

Tứ Tượng đồ hình để gẫm suy

Âm dương tiến hóa lắm mầu vi

Cọp rồng giao hội hòa quy phụng

Nhứt lộ đồng đăng ([3]) ngộ nhứt kỳ.

KỲ, NGỘ chơn Tiên được khẩu truyền

TÍN tâm sẽ thấu máy huyền thiên

Một hô một hấp ([4]) cơ mầu nhiệm

Nửa trước nửa sau kết hống diên.([5])

Duyên xưa mới gặp được Tam Kỳ

BÌNH tĩnh mà tu cướp hội ni ([6])

Một có một không thành bí mật

Đường lành thong thả bước cùng đi.

Đi vào cõi Thánh lắm xa xăm

Công quả, công trình phải mấy năm

DINH đạt cơ huyền ([6b]) thông vạn pháp

Pháp tâm u hiển ([7]) nhớ mà chăm.

Chăm chỉ cho thường kẻo lậu hư

DƯƠNG quang khởi động phải như như

Nước lên lửa xuống chừng mô mới

Mới được Thần về hội Thánh Sư.

Sư phụ truyền trao pháp chế đơn

Đơn linh nấu luyện chóng lần hơn

KIÊN(G) dè cho lắm khi nhiều lửa

Lửa bớt cơm sôi chớ có hờn.

Có hờn có giận mà chi

Có tu mới gặp được kỳ Long Hoa

THANH cao là dễ gần Ta

Vô tư mới thấy Huỳnh Bà ([8]) đưa tin.

Tin ở nơi mình, ở pháp tu

SUM tam, bát mộc vận công phu

Công phu cho thấy say sưa mới

Mới nhập Tiên cung hiệp vạn thù.([9])

Vạn thù quy nhứt bổn ([10]) là đây

Đây mới là nơi để gặp Thầy

TRÂN trọng ngày đêm hành pháp đạo

Đạo mầu chưa dễ mấy người hay.([11])

Hay dở làm rồi mới biết thôi

Hay thời hạ thủ ([12]) gấp chiều mơi

CÁN cân công luật Thầy cho nhích

Mới thấy huyền linh ở tại người.

Người mau nhẹ gót theo Thầy

Theo Thầy học đạo từ rày ([13]) về sau

Theo Thầy mà cứu độ nhau

ĐỀ huề ([14]) chung cuộc sang giàu nhà Tiên.

Tiên Phật hằng mong giúp đỡ người

TUYÊN trò nhẹ gót lánh xa đời

Đời là bể khổ, lo phương cứu

Cứu được mình xong để cứu người.

Người đời mấy kẻ nghĩ xa

Cuộc đời nào khác như hoa bốn mùa

ĐÀO hồng vườn hạnh há đua

Xuân về tươi thắm cành ra quả lành.

Lành giữ, dữ xa mới phải mầu

Đạo Thầy ở đó có xa đâu

Hễ thanh cao được nhiều thanh phước

THỤC chí ([15]) tu cầu khó chẳng lâu.([16])

Lâu mau sự ấy tùy mình

Công phu dồn dập công trình càng cao

HÒE kỳ đại xá được trao

Nữ nhi đáng phận, động đào ([17]) xứng ngôi.

Ngôi lành chờ sẵn thưởng công cho

CƯ xử đôi bên phải được nào

Tu hạnh lập công lo tiến bước

Công phu rèn luyện chí thanh cao.

Cao quyền do ở lòng nhân

Cao ngôi do chí ân cần công minh

Cao Tiên hay chế luyện hình

HẬU kỳ Thánh đức thùy tình ([18]) ban phong.

Phong cho chư sĩ lắm công trình

PHẨM vị Thầy dành kẻ đức tin                   

Tin có quyền năng không cách mấy ([19])

Thì đâu ngần ngại bước tiền trình.([20])

Tiền trình còn lắm khó khăn

ĐÁN(G) ([21]) ra cũng phải đôi trăng ([22]) mới rồi

Hôm nay công hạnh trau giồi

Điển lành Thầy ngự tài bồi ([23]) cho thêm.

Coi đó mà tu.

Đạo y. Nhang. 

Kỳ tịnh này đợt đầu mười tám ngày rèn luyện Tứ Bửu theo chương trình và ôn lại thời luyện châu. Pháp Tứ Bửu phải chỉnh đốn, nhưng nay phải làm theo mỗi thời để trị tâm chế dục và cầu lấy ân điển cứu mình và luyện pháp ấy cho thuần thục, được linh để cứu người trị bịnh:

Lấy nước dương cúng xong lại dùng làm pháp. Bưng lên cung kính cầu nguyện rồi họa phù Tam Thiên, Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh, v.v... để trên ấn Tý và thư phù luyện chú. Xong để bình bát nơi tay mặt, ngay ngực, úp ấn Tý nơi miệng bình mà định thần cầu nguyện. 

Pháp Khai Đàn, An Vị: Cũng thế. Để bình nơi ấn Kiết Tường và úp ấn Kiết Tường sau khi quyết ấn lên trên bình bát một lúc. 

Chẩn Tế: Để bình nơi ấn Tam Ngung, họa phù, đọc chú xong trao bình lại tay mặt, rồi úp ấn Ngũ Lôi lên trên miệng bình. 

Giải Oan: Cũng thế. Để bình trên ấn Tam Ngung mà trì chú, xong cũng úp ấn Tiên Thiên vào miệng bình.

Ấn Ngũ Lôi như thế này: Ngón tay cái đè hai ngón vô danh và út, ngón trỏ và ngón giữa ngay lên.

Ấn Tiên Thiên: Tay trái ngón cái ấn vào đầu ngón vô danh, cung tròn thành hình Vô Cực. Tỵ, Ngọ, Thân thẳng ra. Tỵ ngã về sau ba ly. Ngọ thẳng. Thân ngã về trước ba ly. Để lên miệng bình cầu nguyện chuyển điển. 

Phù Nam, Bắc phương sửa lại: Bắc, Nam. 

Nghĩa là ba ngôi tượng hình vẽ thành con người đứng. 

[Phẩm bạch ...] 

Tẩy Tịnh rồi Khai Đàn luôn một điển (...). Trấn Thần một điển (...). An Vị một điển.

Còn hỏi gì các pháp đó không? 

Phép Trì Bình: Mỗi khi làm phép xong khóa bình bằng chữ Tốc. Khi Khai Bình bằng chữ Y hoặc phù Tam Thiên dọc cũng được (...).

Bình ai nấy giữ để làm phép. Sau quy liễu trao lại cho người mà mình tín nhiệm. Bằng kim khí cũng tốt, nhưng phải là bạch kim để khỏi ten rét mất vệ sinh. 

Ở Hiệp Thiên Đài, chư chức sắc nào cũng phải biết qua các pháp mà lịnh trên ban xuống. Đợt này cũng được đồng thọ.([24])

Giờ hành pháp luyện pháp cũng Tẩy Tịnh, Khai Đàn bằng phù chú đủ phép, nhưng không đứng dậy. Làm xong mười ba ngày, nghĩa là bắt đầu Tý 25 các hiền thi hành. Còn các giờ công phu sau đợt này sẽ hành trì chế luyện hỏa dược ([25]) thiền định. Ngay đợt này luyện châu mà thôi. Còn dư giờ cũng luyện chứ không cần đủ mấy vòng, nghĩa là luyện để an thần chế dục. Coi theo bài Đông Phương Lão Tổ về pháp luyện châu. Cuối đợt có đàn. Liên Hoa sẽ được lịnh truyền qua những pháp môn hành trì ôn dưỡng. 

Thôi, Bần Đạo ban ơn lành. 

Bãi đàn các hiền nghỉ.

Chư phận sự Hiệp Thiên Đài đọc bài chú Thông Minh. Cắm nhang lên đầu cần cơ (nhang để xây đầu xuống ngòi bút) và đốt nhang. Bần Đạo trợ điển. 

 Thôi, Bần Đạo chào chư hiền đồ. Thăng.

*


([1]) cương tỏa : Sự trói buộc.

([2]) chơn tức 真息: Hơi thở (tức) có hai loại: Phàm tức 凡息 là hơi thở của người phàm, thở ra từ miệng và mũi; và chơn tức là hơi thở của chơn nhơn 真人. Chơn tức cũng là thai tức 胎息; là hơi thở giống như của bào thai trong tử cung người mẹ; khi ấy hành giả thở rất nhẹ nhàng mà không dùng mũi và miệng.

([3]) nhứt lộ đồng đăng 一路同登: Cùng đi chung một con đường; cùng tu theo một pháp môn; cùng theo một đạo (tôn giáo).

([4]) hô hấp 呼吸: Thở ra () và hít vào (hấp).

([5]) hống diên 汞鉛: 1/ Hống là thủy ngân (Hg), chỉ nguơn thần; diên là chì (Pb), chỉ nguơn tinh. 2/ Trong phép tu nội đơn 内丹, diên ám chỉ thận, mà thận thuộc hành thủy (quẻ Khảm); hống ám chỉ tim, mà tim thuộc hành hỏa (quẻ Ly). Thủy hỏa ký tế 水火既 濟 (thủy hỏa cứu giúp nhau), tức là chiết Khảm điền Ly 折坎填離 để trở nên thuần dương: Ly trở thành Càn, tức thành chơn nhơn 真人.

([6]) hội ni: Hội này.

([6b]) cơ huyền: Huyền cơ 玄幾; cơ mầu; nguyên lý mầu nhiệm.

([7]) u hiển 幽顯: Vừa giấu kín (u) vừa bày ra cho thấy (hiển); vừa ẩn vừa hiện.

([8]) Huỳnh Bà 黃婆: 1/ Trong Ngũ Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) thì Thổ là trung ương ở giữa, màu vàng; thổ lại là trung tâm của Thủy, Hỏa, Kim, Mộc, nên gọi Thổ là Huỳnh Bà. 2/ Lá lách (tỳ ) sản sinh máu và nuôi dưỡng các cơ quan trong thân thể. Với chức năng này, lá lách được ví như Huỳnh Bà, tức là người mẹ chăm chỉ, vô tư chăm sóc con cái. 3/ Một ẩn ngữ trong phép tu nội đơn 內丹 của đạo Lão.

([9]) vạn thù 萬殊: Muôn điều khác biệt.

([10]) vạn thù quy nhứt bổn 萬殊歸一本: Muôn vàn khác biệt đều trở về một gốc.

([11]) chưa dễ mấy người hay: Khó có người giỏi.

([12]) hạ thủ 下手: Bắt tay làm; ra tay làm; khởi sự làm.

([13]) từ rày: Từ nay.

([14]) đề huề: Vui vẻ, hòa thuận, và giúp đỡ lẫn nhau.

([15]) thục chí 熟志: Rèn luyện ý chí.

([16]) khó chẳng lâu: Sớm dễ dàng.

([17]) động đào: Đào tức là đào nguyên 桃源 (cõi Tiên). Động là nơi Tiên ở. Động đào là cảnh Tiên, cõi Tiên.

([18]) thùy tình 垂情: Thùy niệm 垂念: rủ lòng nghĩ tới.

([19]) không cách mấy: Rất gần gũi, cận kề; chẳng ngăn cách.

([20]) tiền trình 前程: Tiền đồ 前途; con đường phía trước; tương lai.

([21]) Đán: Như Sơ Nguyễn Đán (1905-1958). đáng ra: Đáng lẽ, đáng lý, lẽ ra thì.

([22]) đôi trăng: Vài tháng.

([23]) tài bồi 栽培: Vun bồi cho tốt thêm.

([24]) đồng thọ 同受: Cùng nhau thọ nhận.

([25]) hỏa dược 火藥: Động là hỏa; tĩnh là thủy. Động là tinh; tĩnh là khí. Lấy tinh luyện khí, uống vào thì bất tử nên gọi là dược. Lấy hỏa luyện dược mà thành đơn .


Huệ Khải chú thích