4. PHẢI PHÁT TÂM THỀ NGUYỀN VỚI THẦY
Ngày 27-7 Bính Thân (Thứ Sáu 31-8-1956)
THI
NGÔ Đạo ([1]) truyền trao cứu vạn linh
MINH tâm kiến tánh ([2]) đáo ([3]) trung
đình
CHIÊU thiên hiển hiện cơ mầu nhiệm
GIÁNG hổ thăng long bá nhật trình.
Bần Đạo chào chư Thiên ân, hướng đạo, và toàn thể môn sinh.
Mặc dù ngày giờ ít, công
việc nhiều, mà mỗi hiền
đồ gắng công dốc chí ([5])
còn hơn là thời gian rộng mà không quyết chí thì việc
cũng khó thành.
Bần Đạo được lệnh Phụ Hoàng chủ
trì trong đợt tịnh này. Nếu hiền đồ nào tin nơi Ta thì
lo gì không thành tựu.
Về phần khẩu
khuyết,([6])
Bần Đạo ra lịnh Liên Hoa phải tâm truyền, không nên nghi ngờ mà trái mạng.([7])
Mỗi hiền
đồ phải phát tâm
thề nguyền với Thầy mới mong kết quả.
Việc nhập tịnh
sẽ dạy kỹ trong các kỳ đàn, cần được lý hội tập thành.([8])
Nhưng có điều phải có nguyện lực,([9])
phải trọn đức tin. Không trọn tin
không bao giờ đắc pháp. Không nguyện
lực không mấy thuở thành công.
Bần Đạo ước mong lòng giác ngộ của
chư hiền quyết tu, việc phải trái
không lo. Lo là lo lòng mình còn nuôi phải trái. Từ xưa đến nay trên lịch
sử tiến hóa, hễ ai có ý thức nào thì sự ứng hiện tùy theo mình. Tâm giả gặp giả,
tâm chơn gặp chơn. Chư hiền đồ chớ ngại.
Bần Đạo buộc phải làm những việc như sau:
1. Phải
họp nhau mà làm bài Hồng Thệ,
xưng tụng hằng ngày
theo bốn điểm Bần Đạo đã dạy.
2. Phải
tụng kinh Thông Minh, Nhụy Châu,
và xưng tụng công đức Chí Tôn.
3.
Phải kiểm điểm mình mỗi buổi ([10])
trước mặt Thầy bằng kinh Cảm Ứng.
4. Phải có đạo
y.
5. Ăn đúng
bữa, tu đúng giờ.
6.
Sửa cải tính tình bằng nét mặt, giọng cười. Khi ngồi, lúc đi
cho ra hình Tiên Phật. Nghĩa là
tinh tiến, dõng mãnh, hoan hỷ Bồ Tát. Các hiền
đồ có đồng ý chăng?
7. Không lậu Thiên cơ.
Làm được bảy điểm ấy không?
Cứ tin nơi Bần
Đạo.
Còn về chơn
truyền, có sửa cải chi thì việc ấy
để tự Bần Đạo cùng Tam Giáo.
Vì chánh pháp trước ngày vào đợt tịnh này Bần Đạo đã lập thành, nội luật dâng lên Tam
Thanh Điện chấp y. Nhưng nơi đây Bần
Đạo cũng chế giảm nhiều rồi vì muốn cho Hội Thánh Truyền Giáo có một quyền pháp uy nghi. Chớ nếu tín đồ thì phải y, không một ai được trái luật.
Vì vậy mà trong thời kỳ nhập tịnh chế bớt ba bài Tam Giáo, ngoài ra thời y. Kỳ xuất tịnh tùy chư hiền đồ.
Hôm nay Bần Đạo phụ cơ cũng đã trái lệnh với Tam Giáo. Vì có lệnh ngưng cơ, đáng ra chấp bút. Nhưng Bần Đạo cầu xin hồng ân được chế miễn. Hôm sau chư hiền đồ cẩn thận.
Về người
sứ mạng, nếu cãi ý Trời thì bị Trời phế, dù việc nhỏ việc lớn cũng vậy.
Nên kỳ chỉnh cơ lập pháp cốt là
rèn luyện đức tin.
Ngoài ra thì Thầy cũng miễn
cả, vì không phải người tông đồ hành pháp. Cẩn thận cho
lắm. Nhớ, nhớ lấy, chư hiền đồ!
Đem y pháp trấn thần. Đốt hương. Để châu lên trên.
Trấn châu.
Việc Hội Thánh
thì cả hiền đồ y theo Thánh ý đã ra. Kỳ nầy toàn đạo nhập tịnh. Chư tín đồ tu công ([11])
cầu nguyện để tránh bớt tai họa của đời.
Bần Đạo không muốn xây dựng một cơ sở nào bằng tâm dục vọng. Phải đứng trên đạo pháp mới trường tồn. Lời nói của người thiếu đạo hạnh dù hay cũng hay trong chốc lát; việc làm dù có tài, cũng đứng vững trong chớp mắt mà thôi.
Nếu
chư hiền đồ có hạnh
Bồ Tát,([12])
có tâm bồ đề,([13])
dù cả nửa thế giới công kích cũng vô ích. Có bao nhiêu kẻ phá hoại cũng chẳng đổ xô được. Vì vậy mà chư hiền đồ phải
đi trên thuần chơn vô ngã,([14])
mặc ai tiếng thị lời phi. Mà dù có thị phi ó dậy ([15])
đi nữa, tai Bồ Tát nghe như lời tụng niệm kinh kệ, không thấy thù mà là bạn Linh Sơn cốt nhục.([16])
Đán,([17])
hiền đồ còn lịnh hai mươi sáu
ngày nữa. Có đủ điều kiện thì vào Nam để biết qua tình
hình và điều chỉnh sự
lệch lạc trong tình huynh đệ.
Ngoài có Hậu, Cư, Tín.
Có việc bất trắc ([18])
thì được quyền đến Hiệp Thiên Đài cầu xin chấp bút. Nhưng không lo gì; các Thánh Tử Đạo đã hộ trì chế ngự.
Việc ngoại giao, nội bộ
sẽ do Huỳnh Chơn Nhơn lo trong đợt này. Chư hiền yên tâm
mà tu học.
Việc
lập thất phải
được hành sự sáu tháng mới ban lịnh và cho hiệu. Ngoài
Giáo Tông, chư hiền trong Lưỡng Đài
có quyền, nếu là đúng luật. Lấy chữ “Trung” đặt đầu các hiệu thất.
Vậy,
Bần Đạo mười sáu hôm sẽ đến một lần. Chư hiền làm xong bài Hồng Thệ rồi đến giờ Tý ngày mai vào công phu. Ngoài hai tháng mười ba ngày, muốn giữ hoặc tạm nghỉ cũng
được, nhưng cấm lậu truyền. Ngoài đợt nầy còn hiền đồ
nào công phu tập sự cũng được.
Vậy đợt
một thì ba, sáu, chín, mười hai. Liên Hoa y lệnh.
Bần Đạo ban ơn. Bần Đạo thăng.
*
([2]) minh tâm kiến tánh 明心見性: Sáng
lòng (không còn bị dục vọng che lấp) thì thấy được bổn tánh, tức là đắc đạo,
thành Phật thành Tiên. Nhà Phật nói là “kiến
tánh thành Phật” 見性成佛 (thấy
tánh thành Phật).
([9]) nguyện lực 願力: Sức mạnh của lời thề nguyền. Người tu nhờ lập nguyện,
phát nguyện mà thành đạo. Người xưa nói: Vô
nguyện bất thành Phật dữ Tiên; Phật Tiên vô nguyện bất điều hiền. 無愿不成佛與仙; 佛仙無愿不調賢. (Người không lập nguyện chẳng thành Phật
Tiên; Phật Tiên chẳng độ người không lập nguyện.) Sinh thời, ngài Ngô Minh
Chiêu có dịch bốn lời đại nguyện của các bậc cổ đức thành lục bát như sau: Một là sanh chúng hằng hà / Dốc lòng cứu
vớt, lòng ta thề nguyền / Hai là phiền não nối chuyền / Thề nguyền đoạn tuyệt
như thuyền ra khơi / Ba là chí học chiều mơi / Phép mầu sâu nhiệm, thảnh thơi
có ngày / Bốn là Phật Đạo công dày / Nguyện thành chánh quả kíp tày chí ta.
(Chúng sanh vô biên, thệ nguyện độ/ Phiền não vô tận, thệ nguyện đoạn/ Pháp môn
vô lượng, thệ nguyện học/ Phật Đạo vô thượng, thệ nguyện thành. 眾生無邊誓願度 / 煩惱無盡誓願斷 / 法門無量誓願學 / 佛道無上誓 願成.)
([12]) hạnh Bồ Tát: Bồ Tát
hạnh 菩薩行; cũng gọi Bồ Tát
đạo 菩薩道. Con đường tu tập của bậc Bồ Tát để thành
Phật, đó là tự lợi lợi tha 自利利他 (làm lợi cho mình và cho người khác); vì thế, mỗi hành
động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sanh, vì lợi ích chúng sanh.
([13]) tâm bồ đề: Bồ đề tâm 菩提心; tâm đạo; tâm cầu mong thành Tiên thành Phật. Tâm bồ đề
là ruộng tốt nuôi dưỡng hạt giống sinh ra Tiên Phật. Có phát tâm này thì mới
ham tu hành. Tâm bồ đề là chỗ bắt đầu của thệ nguyện cầu đạo, tu hành.
([14]) thuần chơn vô ngã 純真無我: Thuần
chơn là hồn
nhiên 渾然 và
không ô nhiễm, tức là vô nhiễm 無染. – Vô ngã là không có cái ta tư riêng; không có cái tôi.
([16]) Linh
Sơn 靈山: Núi Linh Thứu 靈鷲山 (thứu: chim kên kên). Trên núi này Đức Phật Thích Ca đã thuyết kinh Diệu
Pháp Liên Hoa 妙法蓮華經, gọi tắt là kinh Pháp Hoa 法華經. Những ai có mặt nghe pháp lúc ấy là những người dự hội Linh Sơn (Linh
Sơn hội thượng nhân 靈山會上人). Người tu thường gọi tình bạn đạo
thân thiết là tình Linh Sơn cốt nhục.
Cốt nhục 骨肉 là xương thịt, nghĩa bóng là tình máu mủ cùng cha cùng mẹ rất mực thân thiết.
Khi người tu nói tới tình Linh Sơn cốt nhục, hoặc nói tắt là tình Linh Sơn, ngụ
ý rằng chúng ta đâu phải mới gặp nhau, mới biết nhau kiếp này; đúng ra, xa xưa
trong nhiều kiếp, chúng ta đã cùng dự hội Linh Sơn, cùng nghe Đức Thế Tôn giảng
kinh Pháp Hoa. Sâu xa hơn, khi nhắc nhau tình Linh Sơn tức là ngụ ý hãy giữ cho
tâm chúng ta gần gũi nhau trong đạo mạch thiêng liêng, vi diệu để cùng thương
nhau, hiểu nhau, cảm thông nhau, bảo bọc nhau, quyết không để lòng phàm tánh tục
chia cách đồng đạo chúng ta.