Thứ Tư, 14 tháng 8, 2024

8. NGÔ TÂM THANH TỊNH CHỨNG THIÊN TIÊN

 8. NGÔ TÂM THANH TỊNH CHỨNG THIÊN TIÊN

Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng)

Tý thời, ngày 15-9 Bính Thân (Thứ Năm 18-10-1956)

NGÔ tâm ([1]) thanh tịnh chứng Thiên Tiên

MINH giáo ([2]) truyền trao pháp diệu huyền

CAO thượng Chí Tôn khai Đại Đạo 

TIÊN Thần đến thế ([3]) độ căn nguyên.([4])

Bần Đạo chào chư Thiên ân, chư hiền đồ. Chư Thiên đồ ([5]) thành tâm nghe dạy. 

Cơ Đạo vận chuyển đến do cơ duyên tốt đẹp của chư hiền nơi này thọ kỳ bí pháp.([6]) Thánh ý cho biết sự chuyển vận đến đây đã giáp một cuộc tuần hoàn; cơ Đạo lại phục sinh. Chư hiền được may mắn tiếp kỳ Thánh ân, thọ kỳ bí pháp.

Kể từ năm Bần Đạo thọ pháp cùng Thầy, khai nguyên Đại Đạo, cơ mật truyền rồi được hoằng dương ([7]) huy hoàng là Tòa Thánh Tây Ninh, chuyển đến Tiên Thiên, Minh Chơn Lý, Minh Chơn Đạo, Liên Hòa Tổng Hội, rồi đến cơ hỗn hợp thống nhất còn gồm đủ bảy chi là một cuộc tuần hoàn từ quẻ Càn đến quẻ Khôn.

Nay, nơi này là tượng hình quẻ Phục, thì ta lấy đó mà suy tiền đồ vận mệnh,([8]) thành bại suy hưng. Suy gẫm quẻ Phục là tượng khí nhứt dương sơ động, cũng còn đen tối lạnh lùng, kinh cụ ([9]) lắm. Từ Đông Chí tiếp khí để chuyển qua một giai đoạn vô cùng cố gắng đến Đại, Tiểu Hàn còn phải gặp giá tuyết lạnh lùng mới bước đến ngày xuân ấm áp. (...). 

Đây nói qua về đợt tịnh. Đợt tịnh có hai phần khuyết điểm: 

1. Các hiền chưa trọn vẹn đức tin; chưa quyết tâm hành trì([10]) pháp đạo. 

2. Ban Giám Thị chủ trì ([11]) thiếu tin tưởng; chưa thành thật giúp đỡ trọn vẹn.

Vì vậy, kỳ vừa qua mười sáu hôm bị trôi hết một phần yếu quyết.([12]) Bây giờ phần ấy quy cho vận hội,([13]) nhơn duyên.([14]) Thôi, cố gắng đợt sau sẽ tiếp tục.

Về bài Hồng Thệ, Bần Đạo đã đệ trình lên Tam Giáo. Nếu chư hiền làm được những lời trong đó, chắc chắn không bao lâu cửa huyền vi sẽ mở tâm thức,([15]) chư hiền sẽ đoạt quả vị, chắc chắn thành công. (Các bài Hồng Thệ riêng sẽ dạy riêng.) 

Về phần cúng:

Từ nay Tý đọc y như cúng trước, nghĩa là có ba bài Tam Giáo.

Mẹo bỏ bài Khai Kinh, thế bởi Cửu Thiên, thêm Cảm Ứng, đọc bài Hồng Thệ sau bài Niệm Hương.

Ngọ y như trước.

Dậu bài Cửu Thiên, bài Nhụy Châu, bài xưng tụng công đức Chí Tôn, ba biến Cứu Khổ, rồi Ngũ Nguyện. Đem bảo pháp ra trước trụ phướn nguyện tiêu, chẩn tế pháp diêm m([16]) (một cái đĩa để hai chung nhỏ muối gạo và một chung nước, một tép bông). Bài Cứu Khổ đến chỗ “cứu hộ” đọc “chư đẳng chúng cô hồn, âm hồn”. Nếu trở ngại, làm sau bàn Hộ Pháp do người chủ trì hành pháp. Sau đợt hai sẽ đổi bài Ngọc Hoàng Cứu Khổ.

Những giờ hành lễ cố gắng làm cho đúng, nghĩa là cho tôn nghiêm, thứ tự rập ràng và cung kính nghe! Các hiền chức sắc liệu lấy nghe! 

Công phu: Bớt giờ cúng nước quỳ hương trưa, và những giờ ngọa thiền dưỡng sanh cũng bớt ít lại để lo góp phần xây dựng giáo quyền, Giáo Hội. Nghĩa là từ đây phải chung lo thảo soạn các pháp môn chỉnh cơ lập pháp, làm cho sáng tỏ một đường lối như Đạo Luật, Nội Lệ nơi cơ quan quyền hành của Hội Thánh, của nhơn sanh; đường lối ngoại giao, nội vụ.

Sơ,([17]) hiền bắt đầu sau ngày nầy nên làm lễ nhập tịnh để tiếp lấy ân điển mà định tâm thể. Mỗi ngày một giờ cúng nước, theo phép thiền định quán chiếu. 

Về pháp tu, mỗi giờ Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu có hai pháp thiền định mở năng khiếu nơi người bằng quán chiếu (một là tâm, hai là thần), và lo sửa chữa những phần khuyết điểm vừa qua. 

Định mà bất định; thiền mà vô thiền. Nghĩa là tư tưởng chưa duy nhất, tâm thể còn loạn động, ý chí còn mông lung. Vì Bần Đạo hằng ngày tiếp lấy luồng điển quang của chư hiền, nói chung người nào cũng chưa trọn vẹn. Một giờ công phu thì vô được một mà vọng tâm đến chín. Cũng như giờ quỳ hương mà tư tưởng xiên ngoa lắm. Luồng điển cứ đứt khúc mà tản mát đi, không trụ một chỗ nên cấu tạo hình thể nơi thượng giới chưa được. Vì vậy mà cần phải duy nhứt tư tưởng để tạo hình thể nơi cõi trời, mới tiện sự học hỏi về cơ bí truyền, gần gũi mà nghe thấy hành vi của các vị Đế Quân mà truyền thần cho tâm thức.

Nơi này lo phần sửa chữa. Vậy chư hiền phải tập trung tinh thần và tư tưởng tốt đẹp mà xây đắp lấy chơn thể của mình. Có chơn thể ấy mới giao tiếp cùng các Đấng thiêng liêng được. Mà chơn thể ấy xây dựng bằng những tư tưởng trong giờ công phu. Tư tưởng ấy không được trộn lẫn cái thứ ô uế làm cho bệnh tật chơn thể. 

Mỗi một lần công phu là các hiền đến trước Ta, nhưng các hiền nào biết được. Vậy từ nay phải làm là: Giờ cúng Thầy phải gom tư tưởng duy nhứt mà gieo bủa nguồn lành, hòa với không khí để cứu độ chúng sanh. 

Vậy chương trình coi đây mà hành trì pháp đạo. 

BÀI

Ngày đêm dốc hết lòng thành 

Để tâm tiếp lấy nguồn lành thiên nhiên. 

Giờ tồn dưỡng ([18]) thần yên khí định

Lóng tai nghe mệnh lệnh Thầy truyền 

Mắt trông vào cõi Đơn Điền 

Nhẹ nhàng hơi thở, não phiền sạch không.

Ngồi ngay thẳng mà trông Thầy đến

Đến những con biết mến biết nghe 

Nghe Thầy chỉ dạy mọi bề 

Khổ vui cũng nhận, đề huề ([19]) dưới trên. 

Trên xây dựng Thánh Đền tượng thể

Thể chơn nhơn khí tuệ đủ đầy 

Chơn Nhơn muốn được từ đây

Phải là tu luyện cho đầy đức tin.

Giờ Mẹo, Dậu cầu xin tắm gội

Gội sạch lòng đen tối nghiệp oan 

Cho thân thong thả an toàn 

Nương dây hạo khí lên đàng về nguyên.

Giờ Tý, Ngọ ngồi yên đại định

Để tâm không, tịnh tịnh thanh thanh 

Để cho tình ý lặng tanh 

Cho tiên thiên điển ơn lành gội ban. 

Nơi Bắc hải nghinh ngang rùa ngạnh

Chốn non Nam chớp cánh phụng hoàng 

Cọp lần xuống hố mau toan

Rồng lên mây bạc cho toàn châu thiên. 

Thiên vận khí chưa truyền để đó 

Phương điều thần phải có đức tin 

Lặng lòng tai lóng, mắt nhìn

Nhẹ nhàng hơi thở mà vin ([20]) khí thần. 

Tâm cho được mười phần thanh tịnh ([21])

Ý phải tuân mệnh lệnh từ giờ 

Vọng tình thức chớ ngẩn ngơ

Lặng im phăng phắc mà chờ tuệ quang.

Khi nằm xuống mơ màng dứt sạch

Để tâm hồn thanh bạch tịnh yên

Ơn Trên có đến dạy truyền

Tỉnh ra ghi nhớ cần chuyên tu bồi.

Khi ngồi tịnh một hồi sáng tỏ

Hiện Thánh tâm từ đó lần phăng 

Phăng lần cho đến trí năng 

Trí năng nó giải khó khăn cho mình. 

Mình thanh tịnh, Thần Minh ([22]) đến dạy

Dạy cho mình lẽ phải pháp lành

Tịnh tu mới thấy cao minh 

Lo chi không được, lo mình không chăm. 

Vậy, việc tu tịnh từ nay chư hiền sửa lại một tý là được nhiều huệ phước. Tu đây cũng ví như là châm chích. Châm cho trúng huyệt; chích chỗ bịnh sanh. Bịnh không lành là châm không trúng. Có hại là bởi chích sai. Vậy phải làm đúng theo lời truyền; không được theo cựu truyền nơi sách vở.

Bắt đầu đợt hai phải chỉnh đốn một chút. Có một nội quy và mỗi người phải phát nguyện. Đợt tiếp theo đợt một phải xây dựng cho đầy đủ hơn. Vì các hiền gặp kỳ tịnh trước Đông Chí mà cũng gặp kỳ ngưng cơ nữa, nên phần truyền pháp, giáo pháp không có, phải thiệt thua.([23])

Vậy, chư hiền lo kiểm thảo buổi chiều theo tinh thần bài Hồng Thệ. Sau bữa mai sửa mình cho đúng đắn theo kinh Cảm Ứng tụng đọc.

Bốn giờ tu giờ đầu để y. Giờ sau chia làm hai: một phần điều tức; một phần quán tâm.

Phần điều tức: Vận tức (theo âm phản âm, dương phản dương).

Phần quán tâm: Ngó yên, ngó sâu vào khí huyệt. Chừng nào thấy trong đó có một đốm sáng thì bảo đồng ([24]) lập đàn ta sẽ dạy.

Còn việc đi Thừa Thiên cũng như việc xây dựng cơ sở ngoại giao: Chờ lịnh và coi trong quẻ Phục.

Thôi Bần Đạo chào.

*



([1]) Ngô tâm 吾心: Lòng Ta.

([2]) minh giáo 明教: Chánh giáo 正教.

([3]) thế : Thế gian 世間; cõi đời.

([4]) căn nguyên: Nguyên căn ; đồng nghĩa với nguyên khách 原客, nguyên nhân 原人; tức là linh căn 靈根 có nguồn gốc trên cõi Trời, xưa kia nhận lãnh sứ mạng xuống thế gian độ đời; khác với hóa nhân 化人 là người từ kim thạch, thảo mộc, cầm thú tiến hóa lên.

([5]) Thiên đồ 天徒: Học trò của Trời.

([6]) bí pháp 秘法: Phương pháp tu luyện chỉ truyền riêng cho người được tuyển chọn, không truyền dạy rộng rãi.

([7]) hoằng dương 弘揚: Hoằng khai 弘開; phát triển rộng lớn.

([8]) tiền đồ 前途: Tương lai. vận mệnh 運命: Số mạng; định mệnh.

([9]) kinh cụ 驚懼: Sợ hãi; hoảng sợ.

([10]) hành trì 行持: Thực hành 實行trì thủ 持守 (không buông bỏ; giữ chặt).

([11]) chủ trì 主持: Quản lý; quản trị; điều hành; coi sóc.

([12]) yếu quyết 要訣Khẩu quyết (khẩu khuyết) quan trọng.

([13]) vận hội 運會: Thời thế 時勢; thời vận ; hoàn cảnh 環境.

([14]) nhơn duyên 因緣: Mối quan hệ tiền định.

([15]) tâm thức 心識: Hiểu là tâm (coi “thức” và “tâm” đồng nghĩa). Tâm và thức là cùng thể mà khác tên. (Tâm dữ thức vi đồng thể nhi dị danh. 心與識為同體異名.)

([16]) diêm mễ 鹽米: Muối và gạo.

([17]) Như Sơ Nguyễn Đán (1905-1958).

([18]) tồn dưỡng 存養: Tồn tâm dưỡng tánh 存心養性.

([19]) đề huề: Vui vẻ, hòa thuận, và giúp đỡ lẫn nhau.

([20]) vin: Níu kéo; nương dựa.

([21]) mười phần thanh tịnh: Thanh tịnh hoàn toàn.

([22]) Thần Minh 神明: Các vị Thần Thánh.

([23]) thiệt thua: Thua thiệt; thiệt thòi; chịu mất mát.

([24]) đồng: Đồng tử.


Huệ Khải chú thích