1. BẤT VONG SƠ TÂM
PHƯƠNG ĐẮC THỦY CHUNG
Bất vong sơ tâm, phương đắc thủy chung là lời dạy của cổ nhân,
được Đức Giáo Tông Đại Đạo Thái Bạch Kim Tinh nhắc đến trong lời dạy của Ngài.
Bất: Trạng từ, dùng để phủ định, nghĩa là chẳng, không. Ví dụ: Bất an, bất công,
bất hiếu, bất minh, bất trung...
Vong: Động từ, nghĩa là quên. Ví dụ: Vong ân, vong bản, vị quốc
vong thân (vì nước quên mình)...
Sơ: Tính từ, nghĩa là ban đầu. Ví dụ: Sơ cấp (bậc đầu tiên), sơ thứ (lần đầu)…
Sơ tâm: Tâm nguyện lúc ban đầu.
Phương: Trạng từ, nghĩa là mới, rồi mới.
Đắc: Động từ, nghĩa là đạt được, lấy được, có được.
Thủy
chung: Từ đầu tới
cuối.
Vậy, câu này có nghĩa: Không quên cái tâm nguyện đã khởi phát
lúc ban đầu thì mới thành tựu trọn vẹn được việc làm.
Thông thường, khi khởi đầu làm một việc gì, con người thường hăng
hái phấn chấn, nhưng trải qua thời gian gặp nhiều khó khăn vất vả, thử thách
gian lao, con người không còn giữ được cái ý chí hăng hái như lúc ban đầu nữa
và đôi khi bỏ cuộc nửa chừng. Do đó cổ nhân mới khuyên: Bất vong sơ tâm phương đắc thủy chung.
Đây là một lời khuyên minh triết giúp chúng ta thành công về mọi
mặt trong cuộc sống. Ví dụ:
a. Trong đời sống hôn nhân, nếu hai vợ chồng luôn giữ trọn vẹn
tình yêu thương như buổi ban đầu thì họ sẽ chung thủy bên nhau suốt đời, và con
cái sẽ được chăm sóc, nuôi dạy trong tình thương của cha mẹ cho đến khi trưởng
thành, trở thành những công dân hữu ích cho đất nước, cho xã hội.
b. Những khách du lịch tham gia cuộc leo núi, lúc ban đầu còn ở
chân núi thì tinh thần hăng hái tràn đầy, quyết tâm chinh phục ngọn núi. Leo
đến lưng chừng núi thì đã thấy mỏi mệt rã rời, không còn giữ được cái ý định
hăng hái lúc ban đầu và rồi bỏ cuộc quay trở xuống chân núi.
c. Về mặt đạo học, những người mới khởi phát tâm tu thường rất
nhiệt thành, siêng năng, tinh tấn. Nhưng sau một thời gian thì lòng nhiệt thành
nguội dần, họ bắt đầu giãi đãi (làm biếng, lơ là), tu hành lôi thôi, thậm chí
là nhạt đạo, rồi quay trở lại nếp sống cũ như thể họ chưa từng ngộ đạo.
Do đó, trong
giới tu hành có câu: Học Phật nhất niên, Phật tại nhãn tiền; học Phật lưỡng
niên, Phật tại đại điện; học Phật tam niên, Phật tại Tây thiên. (Học Phật một
năm, Phật ở trước mắt; học Phật hai năm, Phật trong chánh điện; học Phật ba
năm, Phật tại Tây phương.) Nghĩa là lúc mới nhập môn vào tu thì hăng hái siêng
năng, lúc nào cũng thấy có Đức Chí Tôn ngay trước mặt. Dần dần chểnh mảng biếng
lười, khi vào chánh điện cúng kiếng thì mới nhớ đến Thầy, giãi đãi riết rồi
không còn nhớ đến Thầy đến Đạo nữa, Thầy ở xa tít trên chín tầng mây.
Trong thực tế, có nhiềug chương trình tu học lúc mới
mở ra thì được nhiều đạo hữu đến tham dự, dần dà không biết học viên lặn đâu mất
hết. Bởi vậy, có lần Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo nhắc nhở chúng ta cần lưu ý đến
tình trạng các lớp học hữu thỉ vô chung (có mở đầu nhưng không có hậu).
Hằng ngày cúng tứ thời, chúng ta đọc bài kinh xưng tụng Đức Chí
Tôn, trong đó có câu thời thừa lục long du hành bất tức.
Thời: Thường khi. Thừa:
Cỡi. Lục long: Sáu rồng. Du hành: Đi lại. Bất tức: Không ngừng nghỉ. Theo nghĩa đen, thời thừa lục long du hành bất tức tức là Trời cỡi sáu rồng đi đi lại
lại không ngừng nghỉ. Theo nghĩa bóng, sáu
rồng ám chỉ sáu hào dương của quẻ Kiền (tượng trưng cho Đạo Trời). Thế nên,
câu kinh này có ý nói Đạo Trời vốn cương kiện, mạnh mẽ và vận hành khắp cả vũ
trụ không một phút giây ngừng nghỉ. Đại Tượng Truyện quẻ Kiền có câu Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức.
(Người quân tử luôn kiên cường, mạnh mẽ không ngừng nghỉ như Đạo Trời cương kiện.)
Thế nên, khi đọc câu kinh thời thừa
lục long du hành bất tức, chúng
ta tự nhắc nhở mình hãy noi gương Đức Đại Từ Phụ, siêng năng tu học hành đạo,
tinh tấn không ngừng nghỉ, dù có gặp gian lao khảo đảo thử thách cũng không thối
chí nản lòng.
1. Một cuộc khảo đảo bất hòa đã xảy ra tại một thánh sở nọ
khiến một số vị đang lãnh trách nhiệm hành đạo từ bỏ công quả mình đang làm. Đức
Lý Giáo Tông đã cho người cha đã đắc Tiên vị của các vị đó lâm đàn khuyên nhủ
các con. Người cha đã nhắc lại quá trình hành đạo của mình lúc sanh tiền:
Đã
làm người thì trong thất tình lục dục cũng lắm khi mỏi gối chùn chân, nản lòng,
nhưng vì Đạo vì Thầy, dù trải qua vạn khổ thiên lao vẫn không
thoái thác nhiệm vụ, đến ngày dứt hơi, hồn lìa khỏi
xác, Thầy ban ân trở về ngôi vị.
Sau đó, vị Tiên khuyên dạy các nhục tử của
Ngài:
Các
con lãnh trách nhiệm, dầu lớn dầu nhỏ, phải giữ vững lập trường, lo tròn nhiệm
vụ, đừng thoái thác nhiệm vụ mà bỏ qua cơ hội lập công bồi đức. Trường
học nào mà không có kỳ thi, đôi chân nào mà không đạp
trên chông gai, sỏi đá, để đi đến mục đích đã
định. Các con phải vượt qua kỳ khảo thí để
lên lớp hay tiến hóa đó, các con.
Đã
nguyện tu hành trong một kiếp thì đừng hẹn kiếp sau.
Cha rất đau lòng khi các con vì một khảo nghiệm đương nhiên trên đường tiến hóa
mà không vượt qua được, thối chí ngã lòng mà thoái thác nhiệm vụ khiến cha ngôi
vị không yên. Cha biết lòng con vẫn ôm ấp việc đạo, chỉ là con không nhẫn nhịn
được, không giải tỏa cõi lòng để tiếp tục nhiệm vụ. Nghiệp chướng
tiền khiên đã đến lúc cản bước chân của các con. (. . .) Các con hãy xem
đây là bài học lớn, bài khảo nghiệm, để nâng cao phẩm vị của các con. Đừng thối
chí nản lòng. Mỗi khi con nản lòng, không có tinh thần lo đạo hoặc giải đãi
công phu thì quỷ thất tình, ma lục dục xui khiến
các con mất tín thật. Chúng nó chờ sẵn cơ hội lôi
kéo các con xuống đặng với chúng nó là cõi ma
vương rất đáng sợ đó các con. Lời cuối cùng, cha khuyên các con hãy bền tâm vững
chí lo tròn việc đạo, lo tu thân học đạo đến nơi đến chốn
mới xứng đáng trò ngoan con thảo trở về ngôi vị.
Thật vậy, thời hạ nguơn mạt kiếp, Đức Chí Tôn
khai mở nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, hàng hàng lớp lớp Tiên Phật đồng giáng trần
để tá trợ Đức Chí Tôn trong công cuộc cứu độ quần sanh. Bên cạnh đó, ma vương,
ác quỷ cũng được phép đến trần gian để lập công bằng cách lôi kéo, khảo dượt
người tu.
Sau khi vị Tiên khuyên dạy các nhục tử
(như dẫn trên), Đức Giáo Tông lâm đàn ban lời phân tách thiệt hơn:
Chư
hiền đệ, hiền muội mỗi khi được Thiêng Liêng đặt trong một guồng máy tổ chức của
Đạo, dầu là cấp bực lãnh đạo hay một nhân viên bình thường đều được đặt để một
tư kỳ phận sự phù hợp với khả năng về đức, về trí của mỗi người. Người
lãnh đạo có đề thi của người lãnh đạo, nhân viên
bình thường có đề thi của một nhân viên bình thường. Đó là
bài khảo nghiệm riêng của mỗi chư hiền. Bởi vì tập thể là môi trường
chư hiền khảo nghiệm lẫn nhau, cùng nhau lập công bồi đức, cùng
nhau liên đới trách nhiệm nếu tổ chức không hoàn thành sứ mạng.
Nếu một cá nhân không hoàn thành bài khảo
nghiệm, làm ảnh hưởng tập thể thì cả tổ chức cũng gánh
hậu quả. (. . .)
Chư
hiền nhìn vào khuyết điểm của người khác mà không thấy
ưu điểm của người trong khi mình lại không tự biết mình, mình
không hoàn thành bài thi của mình mà làm bài thi hộ cho người
khác. Cười, cười… “Sao không quét tuyết trong nhà tớ, mà lại lau sương dưới
mái người?”
Lời dạy dẫn trên của Đức Lý Giáo Tông nhắc
chúng ta nhớ lời Đức Chúa Giêsu cách nay hơn hai ngàn năm, chép trong Phúc Âm (Luca 6:41):
Sao
anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của
chính mình thì lại không để ý tới?
Trở lại với thánh giáo của Đức Giáo Tông,
Ngài dạy tiếp:
Bần Đạo
muốn nhắc chư hiền: Muốn đi đến cuối cùng mục tiêu đã chọn
trong cuộc đời hành đạo thì phải luôn nhớ câu “Bất
vong sơ tâm phương đắc thỉ chung.” (. . .)
Bất
vong sơ tâm là đừng
quên tâm nguyện ban đầu của chư hiền. Chư hiền muốn
đi đến cuối con đường đã chọn để đạt được thành công
thì phải luôn nhớ tâm nguyện ban đầu, đừng làm
việc gì cũng hứng thú nhất thời, ngựa hay phải biết đường
dài.
Chư
hiền đừng tưởng rằng làm việc đạo tự
giác, tự nguyện thì làm sao cũng
được, vui thì làm không vui thì bỏ phế. Công việc
đạo không như công việc ở thế tục, nhưng phần thưởng và những
hình phạt vô vi mà chư hiền không thấy được vượt xa
vạn dặm đó chư hiền.
Ngoài đời, khi làm việc để mưu sinh, đôi
khi có những công việc không phù hợp với ý thích của ta nhưng ta vẫn phải làm
vì nếu không làm thì không được lãnh lương hoặc bị đuổi việc. Công việc đạo thì
hoàn toàn do tinh thần tự nguyện, tự giác của mỗi đạo hữu; tuy nhiên, không phải
vì thế mà ta có thể dể duôi, vui thì làm, không vui thì bỏ phế, bởi lẽ vẫn luôn
có phần thưởng và hình phạt vô vi cho việc hành đạo của mỗi người mà mắt phàm
ta không thấy được.
2. Năm
1967, Đức Giáo Tông Đại Đạo dạy:
Những
ai có sứ mạng phổ giáo Đạo Trời, nên hiểu như vầy: Mình đang làm việc
cho Thượng Đế, cho nhơn sanh, cho thế hệ ngày
mai, không phải vì những trở ngại thiển cận rồi thối chí ngã lòng. Một đoàn
người thức đêm, khi nghe sức chịu đựng trong đêm trường đã uể oải, là báo hiệu
ngày mai tươi sáng sắp đến. Hãy vui mà tiến, hiệp mà hành, tin để đạt
cho kỳ được công quả trọng đại ấy.([1])
Theo lời dạy trên, hành đạo chính là đang
làm việc cho Thượng Đế, mà Thượng Đế là Đấng Chúa Tể càn khôn, chắc chắn rằng
lương bổng mà Ngài trả cho ta không một ông giám đốc hay Tổng giám đốc nào nơi
thế gian này có thể sánh kịp. Tiền lương ấy sẽ được gửi trên nhà băng thượng giới
như lời Đức Quan Âm Bồ Tát đã dạy: “Tu đi
một vốn mười lời/ Nhà băng thượng giới Cha Trời dành cho”.
3. Có lần,
Đức Bác Nhã Thiền Sư khuyến nhủ một vị môn sanh Minh Lý Đạo như sau:
Ráng
bền tâm, kiên chí nghe hiền đệ, để bước đi được vững vàng. Công quả
hành đạo cũng tiêu trừ bớt nghiệp tiền khiên, nhưng
người tu cũng như người thế, khi có chút ít vốn liếng
là chủ nợ đổ xô đến đòi. Hiểu như vậy để chuẩn bị
tinh thần chịu đựng.([2])
Trải qua nhiều kiếp nơi thế gian, mỗi người
đều đã gây tạo nhiều nghiệp chướng tiền khiên, chẳng khác nào kẻ mang nợ. Ngoài
đời, khi thấy con nợ vừa có được một khoản tiền thì các chủ nợ liền xúm lại
đòi, bắt con nợ phải trả tiền cho mình. Trong đạo cũng thế, khi ta hành đạo, lập
được chút ít quả công thì nghiệp chướng tiền khiên cũng ập đến đòi, gây cho ta
những điều rủi ro hoạn nạn bất như ý, nhất là những ai có tâm nguyện tu giải
thoát khỏi luân hồi sinh tử thì phải chịu nhồi quả, trả cho xong hết nghiệp chướng
trong một kiếp. Thế nên Đức Bác Nhã Thiền Sư căn dặn người tu phải luôn gìn giữ
một ý chí kiên định, một đức tin bất thối chuyển để được vững vàng trên bước đường
tu, vượt qua mọi khảo thí gian lao thử thách.
4. Đức
Đông Phương Chưởng Quản dạy người tu một phương pháp hữu hiệu để có thể vững
vàng trước mọi khảo thí:
(L)uôn
luôn lúc nào cũng sẵn sàng đón nhận những cái bất ngờ
xảy ra, từ sự khảo đảo thử thách may rủi đến sự thành công cũng thế.
Mình sẵn sàng tiếp nhận, sẵn sàng ứng
phó thì không bao giờ ngạc nhiên và hoảng hốt
trước mọi việc xảy đến, vì trên bước đường thế Thiên hành hóa
luôn luôn sẵn sàng đón nhận những khó khăn, những bất trắc. Sự thành
công sẽ dành cho người trầm tĩnh, lợi dụng
thời cơ chuyển rủi thành may, chuyển bại thành thắng,
mà cũng là một thất bại cho người đầu hàng uể oải,
thối chí trước một nghịch cảnh mà mình không dự
liệu.([3])
Đôi khi nghịch cảnh lại là một cơ hội, một
điều kiện tốt giúp con người làm nên những thành tựu tốt đẹp cho bản thân và
cho cuộc đời. Thuở xưa, vua Trụ giam giữ Văn Vương trong ngục Dữu Lý bảy năm,
nhờ đó mà Văn Vương đã viết Soán Từ cho sáu mươi bốn quẻ trong Kinh Dịch.
Đức Giáo Tông Thái Bạch Kim Tinh dạy:
Lòn
trôn như Hàn Tín, ngồi Dữu Lý như Văn Vương, chịu chặt chân như Tôn Tẫn, mà dựng
nên cơ nghiệp, đời còn bia tạc.([4])
5. Đức
Mẹ khuyên người tu đã nhứt định chọn con đường đạo lý để đi thì phải đi cho đến
nơi đến chốn, đừng thối chí ngã lòng:
(C)ác
con cần phải mạnh dạn lèo lái con thuyền đạo đi đến nơi đến chốn, mặc dù gặp
lúc mưa sa gió cuốn. Khi đã nhứt định rồi thì không ngại gì chướng ngại vật mà
chẳng vượt qua. Mẹ không sợ các con lưng mỏi gối
mòn mà Mẹ chỉ sợ các con thối chí ngã lòng thì khổ vô
cùng.([5])
6. Đức
Đông Phương Chưởng Quản dạy:
(M)ỗi
người, mỗi tập thể hành đạo phải tìm mọi cách để dung hợp
liên ái nhau, đừng kỳ thị, đừng phân
chia, đừng tật đố nhau, dầu ở phe nhóm nào cũng thế. Ma
vương ác quỷ luôn luôn rình rập phân tán để
tiêu diệt. Nếu những hàng hướng đạo không nhận thấy cái nguy cơ đó,
thì chẳng những không đạt được hoài bão của mình mà lại còn nguy cơ đến cá nhân
mình, đến tập thể phe nhóm mình là một đàng khác.([6])
7. Đức
Mẹ nhắc nhở chúng ta:
Các
con ơi! Chung thân hành thiện, thiện du bất túc.
Nghĩa là suốt đời làm lành, lành còn chưa đủ thay. Nếu một phút hớ hênh khinh thường
là các con đã bị vương vào tội lỗi.
Các
con có biết chăng? Khi gặp những việc đưa đến đột ngột làm các con trái ý, bực
bội, bất mãn rồi sanh ra cau có, phiền hờn nhau, đó là các con bỏ lỡ một cơ hội
để được trút bớt gánh nghiệp chướng tiền khiên. Đó là các con rớt vào chỗ mê.
Nếu
chủ quan cho rằng mình hay mình đúng, không phục thiện, nhận lời khuyến thiện,
đó là mê. Việc đang làm, đang tiến hành,
khi gặp một trở lực nho nhỏ rồi thối chí bỏ dở, đó
là mê. Có đứa rất tỉnh nhưng vì đụng chạm đến tự ái rồi giả mê. Đó chính thật
là mê. Đồng bạn đồng thuyền thấy mình nói năng hoạt bát, nhiều của đắp bù, nhiều
công xây dựng, rồi tự mãn, tự túc, an phận hưởng nhàn. Đó là mê, vân vân và vân
vân.
Các
con ơi! Mẹ nêu lên một số dữ kiện điển hình để các con làm tấm kiếng
soi nội tâm ngoại diện của mình để dụng
nước ma ha là lòng thành hối ngộ hầu tẩy rửa cái mê để sớm xa rời bến mê hầu
sang bờ giác, nghe các con!
Giáo
Tông Thái Bạch cách đây ba hôm có đến chầu Mẹ. Mẹ thấy Người không được vui nên
Mẹ nhân tiện giáng đàn ban ơn nữ phái rồi nhắn thêm luôn cho các con nam phái
biết mà cố gắng khắc phục, chế ngự mọi tư tâm, tư kỷ
hầu phục vụ Đạo Trời cho đúng mức. Vì các con là mắt phàm đâu thấy những việc
ngoài giới hạn giác quan của con.
. . . (M)ất thì giờ vì những
cái gai nhỏ đâm chơn, cái viên sỏi nhỏ mắc kẹt trong chiếc
giày, sao nỡ? Hỡi các con!
Thôi, bao nhiêu đó cũng đủ rồi.
Các con ráng phát bồ đề tâm cho Giáo Tông Lý Bạch
Người được vui lòng. Kẻo không, phụ
ơn đức của Người dìu dắt.([7])
8. Đức
Thái Thượng Đạo Tổ dặn dò:
Người
hướng đạo phải thanh cao hơn người quân tử. Thành không tự mãn, bại chẳng thối
chí ngã lòng. Được khen không buông ý, bị chê chẳng não phiền. Bại thành, khen
chê nó là những hiện tượng, kẻ ý thức luôn luôn làm chủ lấy mình, nhứt tâm
nhứt đức, một tiến không ngừng. (. . .) Có
thế mới đi đến nơi, hành đến chốn. Có thế, đạo mới
thành, tu mới đắc.([8])
9. Đức
Thiên La Đạo Nhơn (Thiên La Tinh Lê Văn Nghĩa) bảo rằng những điều khảo đảo
chính là những nhát đục của nhà điêu khắc:
Chư
Thiên ân sứ mạng ráng ráng, đừng thối chí trước cơn khảo đảo. Cái khảo đảo
là cái đục của chuyên viên chạm trổ đó! ([9])
Một khối đá hay một khúc gỗ, để trở thành
một pho tượng tuyệt đẹp cho đời chiêm ngưỡng thì phải chịu những nhát đục chạm
trổ của nhà điêu khắc. Người tu cũng thế, muốn trở thành Hiền Nhân, Thánh Triết
hay Thần Thánh Tiên Phật, cũng phải chịu trải qua những khảo thí gian lao, đau
đớn vô vàn như gỗ đá phải chịu những nhát đục của điêu khắc gia.
Do đó, sự khảo thí là vô cùng cần thiết.
Đức Đông Phương Chưởng Quản dạy:
Đạo phải có thăng trầm
khảo dượt
Mới lọc lừa kẻ rớt người
hay
Nếu như thẳng tợ luống
cày
Thì đâu cần mở Đạo Thầy
mà chi.([10])
10. Đức
Giáo Tông Đại Đạo nhắc lại trường hợp của các bậc Hiền Thánh khi xưa:
Những bậc vĩ nhân, những hàng Hiền Thánh, Tiên Phật, những
nhà đại ái quốc, được rạng danh là sau khi hoàn thành sứ mạng, hoặc sau khi kết
liễu đời mình, mới được mang danh ấy; còn hiện sinh, hành động đã gặp bao lúc
gian lao khổ sở từ nội tâm đến ngoại cảnh, đã gặp biết bao nhiêu đối thủ tranh
giành ảnh hưởng, hoặc tìm cách bôi lem để hạ uy tín, hoặc phản tuyên truyền để
làm đối phương nhụt chí mà bỏ dở sự nghiệp đang lên.
Sở dĩ
người xưa được hiển danh hậu thế là nhờ lòng kiên nhẫn, trì thủ, bình tĩnh trước
mọi nghịch cảnh, mọi dư luận. Lấy dư luận xây dựng
để bồi bổ phương pháp hành sự. Lấy dư luận xuyên tạc
để kiểm điểm thận trọng mọi hành động cho chánh sách. Lấy dư luận
chống đối để làm hãnh diện cho chủ trương, lấy dư
luận phá hoại để làm món quý giá tĩnh tâm mà hy
sinh cho chí hướng và đường lối. Tất cả những sự kiện
bên ngoài đưa đến, người xưa đã biết lợi dụng
nó mà làm thầy mình.([11])
11. Dù
gian lao, dù khảo thí, nếu người sứ mạng hằng tin tưởng rằng mình luôn nhận được
sự hộ trì của các Đấng thiêng liêng thì sẽ vượt qua được tất cả để vững vàng
trên bước đường sứ mạng.
Đức Giáo Tông Đại Đạo dạy:
Từng bước chân, từng việc
làm cho đến mỗi tâm tư suy diễn đều được Thần Minh ứng trực. (. . .)
Hiện
tại các chức vụ đương vi, dầu lớn dầu nhỏ, cũng đều là những sứ mạng được Đức
Chí Tôn và Công Đồng Tam Giáo đặt để, do đó Thần Minh hết sức hộ trì
không hề sơ sót. Thế nên, chư đệ muội phải
kính trọng, thương yêu lẫn nhau vì Thiên mạng,
để Thần Minh cùng kính nể quyền pháp thế đạo
của chư đệ muội.([12])
12. Đức
Chí Tôn khuyến khích cho chúng ta an lòng trên bước đường tu hành đầy cam go thử
thách:
Các con hữu duyên, hữu phước đắc ngộ Đạo Thầy thì phải biết
trân trọng, chăm lo học tập. Dù khi gặp khảo trừng cũng không thối chí ngã
lòng.
Các
con vững
tâm, bền chí tu tập thì Thầy sẽ bố điển trợ duyên
để các con có thêm dũng khí vượt qua trở ngại thử thách.([13])
Thầy
nhắc các con luôn giữ
sơ tâm thiết tha như lúc mới vào tu tìm cầu học pháp, các
con nhất tâm, đừng lơ lãng, kẻo lạc Đạo,
xa Thầy.
Các
con sẽ vượt qua tất cả, nếu ý thức Thầy hằng ngự tâm trung. Phải luôn hiệp nhất
cùng Thầy. Đó là chìa khóa để các con mở cửa giải thoát.([14])
*
Ước mong rằng mỗi người môn đệ Cao Đài
chúng ta luôn khắc ghi lời dạy: Bất vong
sơ tâm phương đắc thủy chung. Đừng
quên tâm nguyện ban đầu, muốn đi đến cuối con đường đã chọn để đạt được thành
công thì phải luôn nhớ tâm nguyện ban đầu, đừng làm việc gì cũng hứng thú nhất
thời. Có như vậy chúng ta mới mong hoàn thành được sứ mạng tự độ độ tha để
trở về cùng Thầy Mẹ.
Đức Giáo Tông Đại Đạo dạy:
Lời
đã dạy khá tua học kỹ
Tuy dạy
người hàm ý dạy mình
Đạo
Trời càng học càng tinh
Càng
siêng nghiên cứu, càng kinh nghiệm nhiều.([15])
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo
30-8 Kỷ Hợi (Thứ Bảy 28-9-2019)
DIỆU NGUYÊN