11. VUN TƯỚI CỘI XUÂN TÂM
Chỉ còn ít ngày nữa là năm cũ kết thúc, nhường
chỗ cho một năm mới bắt đầu. Có lẽ ai ai cũng đều cảm nhận được mùa xuân đang đến
rất gần khi ngoài phố, các ngả đường được giăng đèn kết hoa, nhà nhà sơn cửa
quét
vôi mới, các gian hàng trong chợ hay siêu thị đầy ắp các loại bánh mứt rượu trà
và đặc biệt là các khu vườn bán cây kiểng có đủ loại hoa xinh kiểng đẹp chờ mọi
người mua về trang hoàng nhà cửa trong mấy ngày tết. Cứ
mỗi lần xuân đến như vậy, mua một chậu hoa mai, hoa cúc về nhà, tưới nước, chăm
sóc, nâng niu, tôi lại nhớ đến lời dạy năm xưa của Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ:
Đại khái xuân đời,
cảnh vật có chi các con! Cành hoa chớm nở tươi xinh, các con nâng niu cành lá,
vun tưới gốc cây, ngửi mùi thơm trong nhụy. Sao các con không vun tưới cội lành
Đạo cả,([1]) nâng niu sang sửa chơn tâm cho thật tươi nhuận sáng
suốt để rồi ngửi lấy đạo vị nhiệm mầu tự lòng con khai phát? ([2])
Lời dạy của Thầy gồm có hai phần:
Phần thứ nhất, Thầy
nhắc đến tâm lý phần đông thế nhân thường yêu thích xuân cảnh ngắn ngủi bên
ngoài: Cành hoa chớm nở tươi xinh, các
con nâng niu cành lá, vun tưới gốc cây, ngửi mùi thơm trong nhụy.
Ngày tết, ai cũng thích mua các chậu hoa xuân về
trang hoàng nhà cửa. Có lẽ không một ai trong chúng ta, hoặc giả nếu có thì chắc
cũng rất ít người, làm được điều mà Đức Ngô Minh Chiêu, vị môn đệ đầu tiên của
Đức Cao Đài đã làm, đó là ngày 30 tết, đi chợ trưa, gặp người bán hoa ế ẩm, mặt
mũi ủ dột, Đức Ngô đã bỏ tiền ra mua cả một bó hoa lớn, vừa xấu lại vừa mắc.
Con Ngài có ý phàn nàn, Ngài giải thích rằng vì muốn giúp người bán hoa chút tiền
để họ kịp dọn về lo cúng rước ông bà.
Còn phần đông chúng ta mua hoa thì chọn hoa tươi hoa
đẹp, lại trả giá sao cho được lợi, được rẻ. Tuy nhiên, cho dù chúng ta mua hoa
có xinh tươi thế nào thì cũng chỉ mấy ngày tết. Rồi hoa cũng sẽ héo úa tàn tạ,
xuân cũng sẽ qua đi. Chưa nói đến chuyện dù cho xuân cảnh có đẹp đến đâu, nhà cửa
có trang hoàng lộng lẫy đến đâu trong mấy ngày xuân mà lòng người chất chứa nhiều
điều phiền muộn lo âu thì hoa xinh hoa đẹp cũng trở thành vô nghĩa, bởi lẽ, như
nhà thơ Nguyễn Du đã bảo:
Cảnh nào cảnh chẳng
đeo sầu
Người buồn cảnh
có vui đâu bao giờ.
Do đó, Đức Đông Phương Chưởng Quản
nhắc nhở chúng ta:
Ý nghĩa chân thật
của hai tiếng thưởng xuân phải ngấm ngầm bộc lộ từ nội tâm mới thật là đúng
nghĩa.([3])
Đức Mẹ cũng dạy:
(C)ác con hưởng
xuân, vui xuân, chúc xuân, không cứ là một mùa xuân ngắn ngủi hạn định như cánh
mai kia, mà để nhắc nhở khêu gợi cho các con một tấm lòng xuân trường cửu của đạo
lý…([4])
Xuân cảnh bên ngoài trôi qua thật là chóng vánh để
nhường chỗ cho mùa hạ oi ả nóng bức, mùa thu ảm đạm thê lương và mùa đông băng
giá lạnh lùng. Do đó, các Đấng luôn khuyên dạy người tu chúng ta hãy ý thức tự
tạo cho mình một xuân tâm trường cửu trong lòng.
Thế nên, trong phần thứ hai, Đức Chí Tôn dạy:
Sao các con không
vun tưới cội lành Đạo cả, nâng niu sang sửa chơn tâm cho thật tươi nhuận sáng
suốt để rồi ngửi lấy đạo vị nhiệm mầu tự lòng con khai phát?
Đức Đại Từ Phụ khuyên chúng ta mỗi khi nâng niu, vun
tưới, chăm sóc các chậu hoa xuân thì cũng đừng quên rằng trong nội tâm chúng
ta, ai ai cũng đều có một cội cây mà Thầy gọi là cội lành Đạo cả. Nếu chúng ta biết vun tưới, nâng niu, chăm sóc thì
đó chính là cội xuân tâm muôn thuở luôn mãi tỏa ngát hương thơm.
Cội lành Đạo cả mà Thầy nói nơi đây chính
là căn lành tánh thiện, là Phật tính hay Thượng Đế tính, là chơn tâm mà Thầy đã
ban cho mỗi người từ lúc bước chân vào cõi nhân gian. Thánh nhân xưa đã từng bảo
rằng Nhân chi sơ tánh bổn thiện. Phần
đông con người lúc mới sinh ra và còn nhỏ dại thì tánh hồn nhiên, vô tư, chất
phác, nhân hậu. Câu chuyện sau đây cho thấy cái chơn tâm trong sáng còn nguyên
vẹn của trẻ thơ.
Chuyện kể rằng, tại một ngôi trường tiểu
học ở thành phố Luân Đôn, tỉnh Ontaria, Canada, để mừng lễ Chúa giáng sinh, các
em học sinh lớp hai được giao nhiệm vụ thực hiện một hoạt cảnh diễn tả lúc ông
Giu-se đưa bà Ma-ri-a sắp sinh Chúa Giê-su trở về quê theo lệnh điều tra dân số
của vua La Mã lúc bấy giờ. Tất cả các quán trọ đều chật ních người nên ông bà bị
từ chối khi tìm chỗ trú ngụ. Một em bé tên Ralph được giao đóng vai người chủ
quán trọ.
Đêm văn nghệ của trường chật ních khán giả.
Ai cũng háo hức muốn xem con cháu nhà mình trổ tài trên sân khấu cuối năm.
Hoạt cảnh diễn ra suôn sẻ từ đầu vì bọn
trẻ được tập luyện rất nhuần nhuyễn. Thế rồi đến cảnh ông Giu-se chậm chạp, mệt
mỏi dìu bà Ma-ri-a đến cánh cửa quán trọ đóng im ỉm. Ông gõ cửa.
Ralph chỉ chờ có thế. Cháu đẩy tung cánh
cửa ra, hùng hùng hổ hổ quát:
- Mấy người muốn gì?
- Chúng tôi tìm chỗ trọ qua đêm.
- Chật hết rồi. Đi chỗ khác đi!
- Xin ông làm ơn. Chúng tôi đã hỏi hết
các nơi khác nhưng đều bị từ chối. Chúng tôi đi đường xa, mệt mỏi.
- Không còn phòng nào hết!
- Xin ông mở lòng lành. Đây là vợ tôi, sắp
đến ngày sanh nở. Vợ tôi rất cần được nghỉ ngơi đêm nay. Xin ông cho một xó xỉnh
nhỏ hẹp nào cũng được.
Ralph nhìn bà Ma-ri-a, rồi đứng ì ra khá
lâu. Cả hội trường im phăng phắc, bối rối trước thái độ của Ralph.
Nấp sau cánh gà, cô giáo nhắc tuồng:
- Không, xéo đi!
Ralph vẫn đứng như phỗng đá.
Cô nhắc đến lần thứ ba. Mỗi lúc một lớn
giọng hơn. Các cháu đóng vai thiên thần ở hậu trường cũng sốt ruột, lo ngại
không kém mọi người.
Cuối cùng Ralph cũng mở miệng như cái
máy, hết cả giọng hung hăng:
- Không, xéo đi!
Ông Giu-se buồn bã, thất thểu dìu bà Ma-ri-a
bước đi.
Đột ngột, phần chót của hoạt cảnh đã bị
thay đổi khác hẳn kịch bản. Ralph gào lên:
- Đừng đi, Giu-se! Đưa Ma-ri-a quay lại
đây!
- Mời ông bà ngủ lại trong phòng của tôi.
Cô giáo bật khóc. Các cháu nhỏ thủ vai
thiên thần ùa cả ra sân khấu trong lúc khúc nhạc mừng Giáng Sinh trỗi lên rộn
rã.([5])
Câu chuyện đã cho thấy tấm lòng trẻ nhỏ
quả là trong sáng, nhân hậu biết bao! Do đó, Đức Chúa Giê-su từng dạy các môn đồ:
Quả thật, Ta nói cùng các ngươi, nếu các
ngươi không đổi lại và nên như đứa trẻ, thì chẳng được vào nước thiên đàng đâu.
(Ma-thi-ơ 18:3)
Thế nhưng, khi lớn lên thì cội cây thiện
tánh trong mỗi con người lại bị sâu cầy cắn phá khiến cho cây bị khô cằn xơ
xác. Sâu cầy đó chính là tham sân si, là thất tình lục dục, là lòng ích kỷ, ghét
ganh, oán hận, v.v…
Khi tâm con người chứa đầy tham sân si dục,
ích kỷ, ghét ganh, oán hận… thì lòng tràn đầy phiền não. Cho dù mùa xuân thiên
nhiên của đất trời trở về với nhân thế nhưng người hay sân giận thì mặt mày lúc
nào cũng cau có, tâm vẫn cứ nóng bức khô khan như nắng cháy mùa hạ.
Người hay ganh ghét oán hận không biết
khoan dung tha thứ thì tâm luôn ảm đạm thê lương như mưa gió mùa thu. Thiền Sư
Sayadaw U Jotika ([6])
trong bài thuyết pháp về Sự Tha Thứ Và
Lòng Khoan Dung đã nói:
“Không tha thứ là một loại ngục tù. Một
người nào đó phạm tội, luật pháp bắt giữ anh ta và giam trong tù. Chúng ta cũng
vậy, chúng ta giam giữ rất nhiều người trong tâm của mình khi không thể tha thứ
được những lỗi lầm của họ, không thể quên được những lời nói, những hành động của
họ đã làm cho chúng ta đau khổ. Vì vậy, không tha thứ là một nhà tù. Bạn nhốt
người khác vào trong ngục tù phiền não của tâm mình, nhưng chính trong quá
trình ấy, bạn cũng tự nhốt chính mình bởi vì bạn là người giữ chìa khóa và canh
cửa. Có người đã từng nói rằng những cảm xúc phiền não thường sẽ nặng nề nhất đối
với những người không thể hoặc không chịu tha thứ. Chúng ta tự làm cho chính
mình đau khổ. Tự đối xử tàn nhẫn với chính mình; bằng cách không tha thứ, chúng
ta đau đớn vì điều đó.”
Thế nên, lúc Chúa Giê-su còn tại thế, có
lần vị môn đồ trưởng của Chúa là Phê-rô đến hỏi Ngài: Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy
lần? Có phải bảy lần không?
Đức Giê-su đáp: Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy. (Mát-thêu
18:21-22)
Tha thứ đến bảy mươi lần bảy có nghĩa là
tha thứ hoài, tha thứ vô hạn.
Mọi sự vật đều biến đổi theo thời gian.
Con người cũng vậy. Một kẻ tội đồ ngày hôm qua vẫn có thể trở thành một bậc
Thánh ngày hôm sau. Do đó, Thánh Augustine (354-430) nói: Không vị thánh nào không có quá khứ và không tội nhân nào không có
tương lai.([7])
Vì thế, chúng ta không nên phán xét người khác hoặc cứ mãi nhìn người khác với
những lỗi lầm của họ. Mẹ Tê-rê-sa
Nếu bạn
phán xét con người, bạn không có thời gian để yêu thương họ.
Điều đặc biệt là Thiền Sư Sayadaw U
Jotika bảo rằng chúng ta không chỉ học cách tha thứ cho người khác mà còn phải
biết tha thứ cho chính mình. Nhiều người lỡ phạm lỗi và cứ tiếp tục sống cả cuộc
đời trong mặc cảm tội lỗi. Ông bảo tâm lý mặc cảm tội lỗi được coi là bất thiện,
không lành mạnh. Đó cũng là một loại bệnh của tâm. Vì vậy, sau khi nhận biết lỗi
lầm và cải sửa thì hãy tự tha thứ cho bản thân mình, đó cũng là điều rất quan
trọng. Trách móc, oán hận người khác hay tự trách móc chính mình là một loại
sâu cầy cắn phá khiến cho cội xuân tâm của chúng ta héo tàn như lá úa mùa thu.
Người tham lam ích kỷ chỉ biết nghĩ cho
riêng mình thì tâm luôn băng giá lạnh lùng như sương tuyết mùa đông, hững hờ
trước bao nỗi bất hạnh khổ đau của tha nhân. Oscar Wilde (1854-1900) là nhà
văn, nhà thơ nổi tiếng của Ái Nhĩ Lan đã viết một truyện ngắn đầy ý nghĩa với
nhan đề Gã Khổng Lồ Ích Kỷ (The Selfish Giant).
Chuyện kể rằng gã khổng lồ có một khu vườn
rộng lớn vô cùng xinh đẹp với thảm cỏ xanh mịn. Đây đó trên bãi cỏ rải rác những
bông hoa trông như các vì sao trên trời. Trong vườn có mười hai cây đào. Vào
mùa xuân cây phủ đầy những đóa hoa duyên dáng màu hồng phớt và trắng ngà. Đến
mùa thu cây kết đầy trái ngon ngọt. Lũ chim đậu trên cành hót líu lo. Gã khổng
lồ vắng nhà trong một thời gian dài và những đứa trẻ trong vùng rất thích được
đến chơi trong khu vườn ấy sau khi tan học.
Tuy nhiên, khi trở về, nhìn thấy đám trẻ nô
đùa trong vườn nhà mình, gã khổng lồ ích kỷ bảo: “Đây là vườn của ta. Không ai
được vào đây.” Rồi gã lập tức xây một bức tường cao bao bọc cả khu vườn.
Mùa xuân đến, nhưng trong khu vườn của gã
khổng lồ, cây cối vẫn phủ đầy băng giá, không có hoa nở, cũng chẳng có tiếng
chim ca, gió bấc rít từng hồi và mưa đá đổ ầm ầm trên mái lâu đài. Mùa đông ngự
trị quanh năm trong khu vườn của gã khổng lồ ích kỷ. Gã rất buồn bã.
Thế rồi một hôm, bọn trẻ tìm thấy một lỗ
hổng ở chân bức tường rào. Chúng chui vào vườn nô đùa. Gã khổng lồ nghe thấy tiếng
trẻ con và cả tiếng chim hót. Gã nhìn ra vườn và thấy một cảnh tượng nhiệm mầu:
Băng giá đã tan biến, cây cối đâm cành nở hoa và muôn chim bay về hót líu lo.
Gã khổng lồ vui mừng và chợt hiểu ra vì lòng ích kỷ của mình mà mùa đông đã ngự
trị quanh năm và mùa xuân không chịu đến với khu vườn của gã. Gã vội vàng chạy
ra vườn và nói với lũ trẻ: “Kể từ hôm nay, khu vườn này là của các con.” Bọn trẻ
vô cùng vui thích và gã khổng lồ cũng cảm thấy mùa xuân rộn rã trong lòng.
Thế nên, khi Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ dạy
chúng ta hãy vun tưới cội lành
Đạo cả, nâng niu sang sửa chơn tâm cho thật tươi nhuận sáng suốt để rồi ngửi lấy
đạo vị nhiệm mầu tự lòng con khai phát, đó chính là Thầy bảo chúng ta hãy vun tưới
cội xuân tâm muôn thuở mà Thầy gọi là mùa xuân miên viễn, không hạn định, không hủy bỏ theo thời
gian. Vậy, chúng ta vun tưới như thế nào? Nâng niu sang sửa như thế
nào?
Trong nông nghiệp, ông bà ta đã đúc kết thành một
kinh nghiệm để thành công, đó là: Nhứt nước,
nhì phân, tam cần, tứ giống. Hạt giống Đạo tự hữu thì ai ai cũng có trong
tâm.
Điều quan trọng là phải chuyên cần tưới
nước, vun phân và chuyên cần bắt bỏ sâu cầy cắn phá.
Sâu cầy ấy chính là tham sân si, thất tình lục
dục, ích kỷ, ghét ganh, oán hận, v.v… Muốn trừ khử chúng thì phải luôn cẩn thận
quán xét tâm mình. Kinh sách xưa từng dạy: Đạo bất khả tu du ly dã. (Không được xa
rời Đạo dù chỉ trong khoảnh khắc.) Thầy Tăng Tử bảo:
Mỗi ngày tôi tự
xét ba việc: Làm việc gì cho ai, có hết lòng không? Giao thiệp với bạn bè, có
thành tín không? Thầy dạy cho điều gì, có học tập đủ không?
([8])
Ngày nay, hàng môn đệ Cao Đài chúng ta, nếu không thể tự
kiểm bản thân từng giây từng phút, từng giờ hay ba việc mỗi ngày thì chí ít
cũng cố gắng thực hành lời Thầy dạy:
Phải thường hỏi
lấy mình khi đem mình vào lạy Thầy buổi
tối, coi phận sự ngày ấy đã xong chưa mà lương tâm có điều chi cắn rứt chăng?
Nếu phận còn nét chưa rồi, lương tâm chưa đặng yên tịnh, thì phải biết cải quá,
ráng sức chuộc lấy lỗi đã làm, thì các con có lo chi chẳng bì bực chí thánh.([9])
Việc kiểm điểm nội tâm cần phải được thực hành một cách
cẩn thận vô tư. Nhiều loại sâu có màu sắc tiệp với màu lá, nếu không quan sát
kỹ càng sẽ khó phát hiện. Con người thường hay biện hộ cho các thói hư tật xấu
của mình, đôi khi lý lẽ biện hộ nghe qua có vẻ rất hợp đạo lý, nào ngờ đó lại
là một loại sâu tiệp với màu lá đang cắn phá cội cây chơn tâm của mình. Đức Bác
Nhã Thiền Sư cho chúng ta một ví dụ về lý lẽ dối gạt của phàm tâm như sau:
Tới giờ cúng
thời, hoặc đến giờ tham thiền hành pháp, bên trong đưa ra các lý do như buồn
ngủ hoặc ngày nay làm việc nhiều uể oải, thông qua một thời này thời sau tịnh
lại có sao đâu, vì đường tu hành còn dài mà… ([10])
Bên cạnh việc quán xét nội tâm, còn phải nghiêm trì
giới luật và thành tâm sám hối khi đã lỡ lâm vấp lỗi lầm vì như lời Đức Mẹ dạy:
Còn dạy dỗ, biết
ăn năn sám hối chừa lỗi, còn nên thánh thiện.([11])
Chuyên cần tưới nước vun phân chính là siêng năng đọc
thánh kinh hiền truyện, thực hành công quả giúp đời, thiền định công phu. Đọc thánh
kinh hiền truyện và thực hành công quả giúp đời là để trau dồi thêm các đức tánh của chơn tâm là từ bi hỷ xả, đạo hạnh, hiền
hòa, khiêm cung, nhẫn nại, cộng với nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm âm chất căn
cơ.([12]) Bởi lẽ chỉ khi thực hành được các đức
tánh này tâm ta mới được tươi nhuận, thơ thới, an vui như lời Đức Đông Phương
Chưởng Quản dạy:
(T)hưởng xuân
trong vòng đạo lý là kiểm điểm, ôn cố ([13]) phần
đạo đức hành thiện của mình trong một năm qua. Khi thấy được phần tiến triển với
lòng bác ái, vị tha trên phương diện tam công, lòng hân hoan cởi mở, bát ngát
tình thương, động lòng trắc ẩn ([14]) đối với kẻ bạc
phước gối đất màn sương. Với tinh thần hân hoan ngấm ngầm và bộc phát từ nội
tâm, rồi ngồi lại với chén trà đạm bạc, bánh mứt thô sơ, nhưng cõi lòng được nhẹ
nhàng và chứa chan niềm hy vọng, tràn đầy đức tin ở phần hộ trì của các Đấng.([15])
Thiền định công phu là để tâm được an định
thanh tịnh. Tâm có an định thanh tịnh thì chơn tâm mới bừng sáng như lời Đức Mẹ
dạy:
Đóng
sáu cửa trong ngoài vắng lặng
Tâm vô tâm bừng
sáng chơn tâm.([16])
Đức
Quán Pháp Chơn Tiên dạy:
Chơn tâm vốn bởi tâm thanh tịnh.([17])
Có thanh tịnh thì chơn tâm mới hiển lộ. Thanh tịnh đến mức
nào?
Đức Đông Phương Chưởng Quản dạy:
Thanh
tịnh cho đến khi nào cảm nhận thấy các thứ sân si, kỳ thị, độc tôn, vị kỷ, dị
biệt và bất nhứt không còn có chỗ xuất hiện thì mọi việc sẽ an
bài ổn định, từ cá nhân cho đến tập thể, vì các thứ ấy là nguồn gốc cho bản
ngã. Diệt các thứ đó rồi thì bản ngã không còn, vô minh chẳng có, trí huệ phát
sanh...([18])
Một khi chơn tâm đã được tươi nhuận sáng
suốt, cội xuân tâm đã được sum suê sung mãn trong mọi thời gian và không gian
thì Đức Mẹ bảo chúng ta hãy thể theo mùa xuân vĩnh cửu mà hành đạo độ đời. Mẹ dạy:
Các con xem mình là mùa xuân, là Đạo chan
hòa khắp cả thế nhân mà không còn thấy có mình nữa.([19]) Lúc bấy giờ, chính
chúng ta là mùa xuân và sẽ là người mang mùa xuân đến cho tha nhân như lời Đức
Liễu Tâm Chơn Nhơn Huỳnh Ngọc Trác dạy: Có xuân tâm, con người mới giải
thoát, vô ngã, vô chấp, khoan dung, tha thứ. Có xuân tâm, con người mới có tình
thương ở tự đáy lòng, đem ra chan hòa cho muôn người, cho vạn vật.([20])
*
Thực hành lời Thầy dạy, chúng ta ráng
chuyên cần vun tưới cội xuân tâm trong lòng mình cho thật tươi nhuận, sum suê
cành lá để rồi chúng ta mang đến mùa xuân cho mọi người. Thật ra, mang lại mùa
xuân cho người khác không cần điều chi lớn lao.
Mùa xuân mà ta mang lại cho người khác có
thể chỉ là một nụ cười tươi tắn đầy sự thân thiện, cảm
thông hay khích lệ. Mẹ Tê-rê-sa
- Chúng
ta hãy gặp nhau với nụ cười, vì nụ cười là khởi đầu của tình yêu.
- Mỗi
khi bạn cười với ai, đó là một hành động của yêu thương, một món quà, một điều
đẹp đẽ.
Mùa xuân mà ta mang lại cho tha nhân cũng
có thể chỉ là một sự giúp đỡ nhỏ nhặt nhưng đầy tình yêu thương. Một buổi tối
tháng Chạp, vào khoảng 10 giờ rưỡi đêm, khi đang chạy xe ngoài đường, tôi chợt nhìn
thấy một bà cụ già đầu tóc bạc phơ đang loay hoay bên vệ đường với chiếc xe đạp
cũ kỹ chất đầy những bao ny lông ve chai. Tôi chạy lố một quãng nên quành xe lại
và nhìn thấy một đôi thanh niên nam nữ cũng đang quành xe lại đến với bà lão. Bạn
nam thanh niên tặng cho bà một hộp thực phẩm rồi ngồi thụp xuống vệ đường sửa
cho bà lão chiếc xe đạp đang bị hư chi đó ở bánh trước. Trong cái không khí se
lạnh của buổi tối tháng Chạp, tôi bỗng dưng cảm thấy ấm áp cả cõi lòng. Nhìn
khuôn mặt vui mừng của bà lão, tôi đoán chắc bà cũng có cùng một cảm nhận y như
thế. Quả thật, hai bạn thanh niên ấy đã mang lại cho bà lão một mùa xuân ấm áp
giữa cái không khí se lạnh của buổi cuối đông. Thế nên, Mẹ Tê-rê-sa nói:
Không
phải tất cả chúng ta đều làm được những điều vĩ đại. Nhưng chúng ta có thể làm
những điều nhỏ nhặt với tình yêu vĩ đại.
Mỗi lần xuân đến, chào đón và tận hưởng
xuân cảnh thiên nhiên mà Tạo Hóa ban tặng, chúng ta không quên lời nhắc nhở của
Đức Vô Cực Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu:
Con
ôi! Mỗi lần xuân đến là mỗi lần niềm hy vọng của Mẹ trông vào các con, vào vai
tuồng hành hóa của các con nơi trần gian ảo ảnh. Các con cứ vui hưởng những
ngày xuân còn lại đi, để rồi tiếp tục hướng về chân Mẹ, và nhớ là trong lúc các
con hỷ hạ với trời xuân, thì ở những nơi nào đó, ở những thế giới nào đó đang
có những người, những loài không hưởng được mùa xuân ngoài sự đau khổ giày vò.
Các
con tạm vui với ngày xuân thế sự để quên những nỗi khổ, những điều lao nhọc của
mình. Bên cạnh, các con lo vun bồi lòng xuân muôn thuở để sống dài với không
gian vô tận trong lý đạo miên trường.([21])
Cầu xin Đức Đại
Từ Phụ chan rưới ân lành cho cội xuân tâm trong lòng tất cả con cái của Ngài
nơi cõi thế gian ngày càng tăng trưởng, xanh tươi, sum suê cành lá, đơm hoa kết
quả và tỏa ngát hương thơm cho đời như lời Thầy dạy:
Xuân lòng con đượm sắc tươi
Hoa lòng con nở tỏa ngời vị hương
Tủa bay chan khắp tình thương
Muôn loài vạn vật nơi trường thế gian.([22])
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo
15-12 Đinh Dậu (Thứ Năm 12-01-2017)
DIỆU
NGUYÊN
([1]) cả: To tát. cội
lành Đạo cả: Cái gốc Đạo to tát sẵn có ở mỗi người, do Đức Thượng Đế ban bố
cho mỗi người.
([5]) Huệ Khải, Nhịp
Cầu Tương Tri, truyện số 50: Một kịch
bản hoàn hảo? Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2013, tr. 125. (Quyển 42-2 trong Chương
Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.)
([8]) Ngô
nhật tam tỉnh ngô thân: Vi nhân mưu nhi bất trung hồ? Dữ bằng hữu giao nhi bất
tín hồ? Truyền bất tập hồ? (Luận Ngữ)