3.
ĐÀO LÝ BẤT NGÔN
HẠ
TỰ THÀNH KHÊ
Đào lý bất ngôn, hạ tự thành khê là lời dạy của cổ nhân được lưu truyền từ
rất lâu đời và cũng có thể được xem là tục ngữ nói lên một triết lý sống ở đời.
Ngày nay, trong thánh giáo Cao Đài, Ơn Trên có lần nhắc đến triết lý này.
Đào: Cây đào, trái đào. Lý:
Cây mận, trái mận. Bất ngôn: Không
nói lời nào. Hạ: Bên dưới. Tự thành: Tự
nhiên hình thành. Khê: Lối đi nhỏ hẹp.
Vậy, câu này nghĩa là: Cây đào, cây mận chẳng nói năng gì,
nhưng bên dưới tàn cây tự nhiên hình thành lối đi nhỏ.
Từ Hán Việt thường ngắn gọn, súc tích. Chúng ta có thể diễn giải câu
nói trên như sau: Cây đào, cây mận mặc dù không nói lời nào nhưng vì chúng trổ
hoa rất đẹp và kết thành những quả đào, quả mận ngọt ngon tỏa hương thơm ngát
nên mọi người đổ xô tìm tới hái ăn; bàn chân của khách thập phương cứ giẫm tới
giẫm lui mãi, lâu ngày mà tự nhiên tạo thành một con đường mòn nho nhỏ dẫn tới
cây đào, cây mận.
Bậc hiền tài nhân đức cũng thế. Những người có thực tài thực đức
thì thường khiêm tốn hạ mình, không khoa trương hay khoe khoang đánh bóng cho
mình nhưng tài năng và đạo đức của họ khiến mọi người mến mộ, kính nể, tôn
trọng và luôn có lực hấp dẫn người khác vô cùng mạnh mẽ. Còn ai hay gióng trống
khua chiêng tự ca ngợi mình thì thường là kẻ khoác lác, hữu danh vô thực như thành
ngữ Thùng rỗng kêu to; lúc đầu họ có
thể lừa dối được một số người nhưng lâu ngày rồi họ cũng lộ nguyên chân tướng
và bị mọi người khinh thường, xa lánh.
Tương truyền rằng nhà danh họa người Ý, Leonardo da Vinci (1452-1519)
từng nói: Một chút tri thức ít ỏi khiến
người ta kiêu ngạo, tri thức phong phú khiến người ta khiêm tốn. Do đó những
bông lúa lép thường cao ngạo mà chĩa thẳng đầu lên trời, còn những bông lúa
chắc hạt thường cúi đầu xuống đất.
Trong giới tu hành cũng thế. Xưa nay, các bậc chơn tu đạo hạnh thường
âm thầm phụng sự giúp ích cho đời mà không màng ai biết tới mình, chẳng cần thế
gian trọng vọng, ngưỡng mộ… như câu ca dao:
Xin như cây quế giữa rừng
Cay không ai biết, ngọt đừng ai hay.
Chẳng khác nào
cành hoa lan mọc giữa rừng sâu, nhưng vì hoa có một vẻ đẹp thanh cao và một
hương thơm thuần khiết nên mặc dù ở giữa rừng sâu mà vẫn thu hút khách thập
phương đến chiêm ngưỡng. Bậc chơn tu đạo hạnh có đức độ sâu dày cũng thế, dù
khiêm tốn ẩn mình vẫn được thiên hạ biết đến mà thành tâm cảm phục, kính ngưỡng.
Như vậy, chúng ta thấy câu Đào lý bất ngôn, hạ tự thành khê cho chúng ta hai bài học:
1. Đào lý
bất ngôn là bài học khiêm tốn hạ mình, không tự đề cao hay khoe khoang về
mình.
Người Á Đông vốn dĩ
trọng sự khiêm tốn và tế nhị. Các vua chúa ngày xưa thường xưng mình là quả nhân (người ít đức) hay cô gia (người cô thế).
Những chữ như bỉ nhân (kẻ
hèn này), bần đạo (ông đạo nghèo này),
ty chức (người có chức vụ thấp thỏi),
v.v… là những tiếng người xưa tự xưng mình với ngụ ý tự ty, tự hạ.
Đức
Khổng Tử vì thế không bao giờ lớn tiếng xưng mình là Thánh Nhân.
Là
một trong thất thập nhị hiền (bảy mươi hai vị môn đồ xuất sắc của Đức Khổng),
có lần Tử Cống thưa với Ngài: “Thầy là bậc Thánh rồi chứ gì!” Đức Khổng đáp:
“Ta chẳng dám nhận là Thánh! Nhưng làm lành, học đạo mà không chán, dạy đời mà
không mệt, ta chỉ được như vậy thôi.” ([1])
Đó
cũng là đường lối sau này Đức Mạnh Tử đã theo: Khi Công Tôn Sửu muốn xưng tụng Đức
Mạnh Tử là một vị Thánh Nhân thì Đức Mạnh Tử liền gạt đi và lảng sang chuyện
khác. (Mạnh Tử,
Công Tôn Sửu Thượng, 2)
Thế nên xưa nay, các bậc
Hiền Nhân, Thánh Nhân, các bậc tài đức thường sống và phụng sự cho đời, mang lại
cho đời nhiều lợi lạc nhưng chẳng bao giờ lớn tiếng khoe khoang tài đức hay
công lao của mình.
Mỗi ngày, hàng môn đệ
Cao Đài cúng tứ thời đều đọc bài Ngọc
Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo xưng tụng Đức Chí Tôn, trong đó có hai câu này:
- Nhược thiệt nhược hư,
bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa.
Nhược thiệt nhược hư: Như
thực như hư, như có như không, không thể lường biết được. Bất ngôn: Im lặng,
không nói năng chi. Nhi: Nhưng mà. Mặc tuyên: Lẳng
lặng phô bày ra. Đại hóa: Sự sinh hóa to lớn, ám chỉ
toàn thể sự vận hành trong vũ trụ không có lúc nào ngừng nghỉ.
Câu
kinh này có ý nói tuy Trời im lặng không nói lời nào, như hư như thật, nhưng lại
phô bày ra cả đại cuộc vận hành sinh sôi nảy nở của vũ trụ.
Đức
Khổng Tử cũng đã nói: Thiên hà ngôn tai!
Tứ thời hành yên, bách vật sanh yên. Thiên hà ngôn tai! (Trời nào có nói gì
đâu thế mà bốn mùa thay đổi, muôn vật sinh thành. Trời nào có nói gì đâu!)([2])
- Thị không thị sắc, vô vi nhi dịch sử quần
linh.
Thị không thị sắc: Là không là sắc, có hình tướng
và không có hình tướng. Vô vi: Làm mà
không để ai thấy hoặc biết việc mình làm. Nhi
dịch sử quần linh: Nhưng mà điều hành vạn linh.
Câu
kinh này có ý nói Trời rất thần diệu, không ai nhìn thấy hoặc biết được việc
Ngài làm, nhưng tất cả vạn linh đều do Ngài sai sử.
Đọc đến
hai câu kinh Nhược thiệt nhược
hư, bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa/ Thị không thị sắc, vô vi nhi dịch sử quần linh,
chúng ta tự nhắc mình hãy noi theo gương của Trời: Làm việc, mang lại phúc lợi
cho vạn vật chúng sanh mà nào có kể công chi. Mỗi khi chúng ta làm được công quả
gì, giúp ích được cho ai, chúng ta cũng đừng khoe khoang, kể lể công lao của mình.
Đó chính là làm công quả trong tinh thần vô tư, vô công, vô cầu, vô kỷ, vô danh.
Bởi thế, Đức Giê-su dạy (Mát-thêu 6:3): Khi
các anh bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm.
Đức Tôn Sư Đông Phương Chưởng Quản có lần dạy
hàng nhân viên Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt
(C)hư
hiền đệ muội đừng (. . .) mong vọng những gì kết quả đem lại tiếng khen cho cá
nhơn hoặc cho Cơ Quan mình, mà nên phóng tầm cao vọng cho phần kết quả của đại
cuộc. Cứ gieo giống tốt, cứ nói lời nói lựa chọn, cứ làm những việc kiểu mẫu đạo
đức để cho đời nhìn thấy hoặc lấy kiểu mẫu đó làm của riêng mà không biết ơn
nghĩa gì với Cơ Quan cũng không hề gì, mà đó lại là sự ước vọng của Cơ Quan. Nếu
mỗi địa phương làm riêng cho mình theo một khuôn mẫu ấy, lại càng tốt, vì kết
quả là kết quả chung cho đại cuộc, cho đạo lý, cho nhơn loại là đủ rồi.
Nếu
mình còn mong vọng được tiếng khen, thì ắt sợ điều chê. Mong vọng được thành
công sớm thì buồn những khi trở lực. Mong vọng cái được, ắt buồn những khi nó mất,
vô tình không tự mình làm chủ lấy mình, bị ngoại cảnh chi phối. Làm thì cứ việc
làm, gieo giống thì cứ việc gieo giống. Dầu muốn dầu không, rồi giống nào cũng
lên giống nấy, nhân nào rồi cũng kết quả nấy.
Trời
có xuân hạ thu đông, có mưa có nắng, đó là thiên lý, mà thiên lý thì vẫn luôn
luôn lưu hành với lẽ đương nhiên. Không vì sự nhu cầu của một nơi cần nước mà
không dám nắng, cũng không phải vì nhu cầu một nơi cần khô ráo mà chẳng dám
mưa. Không vì một nơi thiếu áo mà không mùa đông rét mướt cắt thịt se da.
Thiên
lý vẫn là thiên lý, sự vật vẫn là sự vật. Lẽ phải đạo lý và đường ngay lối thẳng
của Cơ Quan thì Cơ Quan được tiến. Đó là định hướng bất di bất dịch trên bước
thành công của cổ kim cho các giới.([3])
Bài
học khiêm tốn nhún nhường thường rất dễ thực hành đối với những người có thân
phận thấp bé trong xã hội hay trong một tổ chức, nhưng lại rất khó thực hành
đối với những người có danh vị. Bởi lẽ, tâm lý của phần đông thế nhân là khi có
chút danh vị, có chức có quyền thì cảm thấy mình ở trên thiên hạ, có quyền ưu
tiên, ăn trên ngồi trước, khi thấy người khác không kính nể phục tùng mình thì
tỏ ra bực bội, tức giận. Người đạo cũng thường mắc phải tâm lý này chứ không
chỉ riêng người đời.
Thế
nên, đã có lần Đức Giáo Tông Đại Đạo Lý Thái Bạch dạy các bậc Thiên ân sứ mạng
được Ơn Trên ban trao quyền pháp hướng dẫn nhơn sanh như sau:
Quyền
pháp được ban trao thì chư hiền phải ở vị thế thấp hơn
nhơn sanh. [Điều này] có vẻ ngược với những gì chư hiền thường nhận định phải
không? Nếu chư hiền cao cao tại thượng thì làm sao nâng đỡ chúng sanh đặng. Phải
hòa mình, phải hạ mình thì đức sáng của chư hiền càng sáng tỏ. Mình dưới thấp
mà đức ở trên cao thì lo gì không thâu phục lòng người.([4])
Bài
học hạ mình để phụng sự chúng sanh này đã được các Đấng dạy dỗ nhiều rồi. Thuở
xưa, có lần đang đi đường với Đức Chúa Giê-su, các tông đồ tranh luận với nhau
xem ai là người lớn hơn cả. Nghe vậy, Đức Giê-su dạy các môn đồ (Mác-cô 9:35): Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm
người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.
Trước
khi bị phản đồ Giu-đa chỉ điểm cho quân dữ bắt, và sau khi ăn xong bữa tối cuối
cùng với các tông đồ (bữa tiệc ly), Đức Giê-su đã làm gương cho môn đệ phải
sống khiêm nhường, hạ mình bằng cách đích thân Đức Chúa ngồi xuống rửa chân cho
từng môn đồ đang ngồi trên ghế, giống như nô lệ hầu hạ chủ nhân. Kinh Thánh (Gio-an
13:12-15) chép:
Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức
Giê-su mặc áo vào, về chỗ và nói: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em
không? Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là
Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì
anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em
cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.”
Ngày
nay Đức Cao Đài dạy: Các con coi bậc Chí
Tôn như Thầy mà hạ mình độ rỗi nhơn sanh là thế nào, phải xưng là một vị Tiên
Ông và Bồ Tát, hai phẩm chót của Tiên, Phật. Ðáng lẽ thế thường phải để mình
vào phẩm tối cao tối trọng; còn Thầy thì khiêm nhường là thế nào. Vì vậy mà nhiều
kẻ môn đệ cho Thầy là nhỏ. Cười...
Hạnh khiêm nhường là hạnh của mỗi đứa con, phải
noi theo gương Thầy mới độ rỗi thiên hạ đặng. Các con phải khiêm nhường sao cho
bằng Thầy.([5])
Đức
Ngô Minh Chiêu, vị môn đệ đầu tiên của Đức Cao Đài, cũng là Ngôi Hai Giáo Chủ.
Ngài chính là tấm gương sáng về hạnh đức hòa mình, hạ mình để nâng đỡ, phụng sự
nhơn sanh một cách âm thầm. Sử sách còn ghi lại rằng:
Ngài
Ngô khi làm quan thường cải dạng thường dân (vi hành), đi vào các thôn xóm, chợ
búa để tìm hiểu, quan sát cuộc sống người dân trong địa phận Ngài chịu trách
nhiệm. Gặp ai khốn cùng, tai ương, Ngài kín đáo cứu giúp.
Có
lần thăm chợ trưa 30 tết, gặp người bán hoa ế ẩm, gương mặt ủ dột, Ngài bỏ tiền
mua cả bó lớn hoa, vừa xấu lại mắc. Con Ngài có ý phàn nàn, Ngài giải thích rằng
muốn giúp họ chút tiền để họ kịp dọn về lo cúng rước ông bà.
Ông
Lang Phòng ở Tân An, là chỗ quen biết với Ngài, có hôm buồn, ra mé sông câu cá
trong lúc mưa đêm rả rích. Ông lang đội nón lá sùm sụp, che kín mặt, trời lại
tối. Ngài Ngô đi qua, chẳng nhận ra người thầy thuốc quen, ngỡ rằng người bần
khổ phải dầm mưa đêm câu cá để kiếm miếng ăn, Ngài móc túi tặng đồng bạc, bảo
mang về sáng đi chợ, đừng dầm mưa lạnh lẽo.
Ngài
hay nhờ những người nghèo trong xóm đến làm giúp vài chuyện lặt vặt, rồi trả
công hậu hỹ. Đó là cách giúp đỡ kẻ khác mà lại tế nhị, khéo léo che giấu sự trợ
giúp của mình.
Đức
Đông Phương Chưởng Quản dạy:
Bần Đạo
cũng lặp lại đức khiêm tốn của người tu: Cần phải học nhiều, làm nhiều, tu nhiều.
(. . .) Hễ đức khiêm tốn được thuần rồi, không có tác phong là một ông thánh sống
ở thế gian, rung đùi ngâm thi đọc sám, ra vẻ tôn sư của người đời, mục hạ vô
nhân; đó là kẽ hở để cho ma vương ác quỷ kéo xuống địa ngục A Tỳ, làm cho thân
bại danh liệt và tiêu tan sự nghiệp đạo đức vậy.([6])
Đức Giáo Tông Đại Đạo Thái Bạch Kim Tinh
dặn dò tập thể Cơ Quan Phổ
Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam như sau:
Ngày
nay, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý chư hiền đệ muội không kêu gọi thống hiệp ai hết
mà đã tiến một bước đáng kể trong tinh thần quy hiệp. Tuy nhiên đừng mãn nguyện,
không kiêu hãnh. Trái lại, càng phải nhiệt tâm, đức độ, thành tín, khiêm tốn
thêm hơn để cảm hóa nhơn tâm. (. . .) Làm thế nào để thể hiện được
thực chất của Cơ Quan, chớ không phải cố gắng
sơn phết bóng loáng những lớp sơn bên ngoài
khúc gỗ mục, đó là điều căn bản vậy chư hiền.([7])
2. Hạ tự thành khê là hãy tự trau giồi và tu dưỡng bản thân để trở
nên người thực sự có tài năng và đạo đức thì tự nhiên sẽ thu phục được nhơn tâm
mà không cần phải rêu rao lớn tiếng về mình.
Ở phương Tây, một triết gia kiêm thi sĩ nổi tiếng người Mỹ là
Ralph Waldo Emerson (1803-1882) từng nói một câu có nội dung tương tự như câu Đào lý bất ngôn, hạ tự thành khê. Ông
bảo:
Nếu một người có thể
viết một cuốn sách hay hơn, thuyết một bài giảng đạo tài hơn, hay làm được cái
bẫy chuột tốt hơn những người hàng xóm, thì dầu cho người ấy có cất nhà ở trong
rừng, thế gian cũng sẽ ùn ùn tìm đến tận cửa nhà anh ta mà tạo thành một con
đường.([8])
Đó
cũng chính là ý nghĩa của hai câu:
Hữu xạ tự nhiên hương,
Hà tất đương phong lập.
(Có xạ thời tất có hương,
Cần chi đầu gió, phô trương với người.)
Xạ: Chất
xạ hương, được lấy từ tuyến xạ của hươu xạ, một loài động vật sống ở miền Nam
Trung Quốc. Chất xạ của hươu xạ có mùi thơm đặc biệt, được dùng để sản xuất nước
hoa hoặc dùng làm dược liệu.
Thành ngữ Hữu xạ tự nhiên hương có nghĩa bóng là những người thật sự tài năng,
thật sự đạo đức thì tự nhiên tiếng lành đồn xa, chứ không cần phải khoe khoang,
không cần phải nói ra.
Như vậy, con người cần phải có một quá
trình tu tâm dưỡng tánh, rèn đức luyện tài thì mới sinh ra “xạ” để tỏa hương
thơm.
Chất “xạ” nơi đây chính là tài năng, đức độ,
là cái tốt, cái hay, cái đẹp thực sự nơi con người; dù ở đâu, không chóng thì
chầy, không trước thì sau, phẩm hạnh này sẽ được ghi nhận, sẽ lan tỏa, sẽ hiển
lộ, sẽ được nhiều nơi, nhiều người biết đến mà không cần bất kỳ một tuyên bố
phô trương, ầm ỹ nào cả.
Hàng
môn đệ Cao Đài cũng thế. Muốn thực hiện được sứ mạng cứu độ nhơn sanh mà Đức
Chí Tôn giao phó thì phải thực sự là những bậc chơn tu có đầy đủ đức hạnh như khiêm
tốn, khoan dung, từ bi, hỷ xả, nhẫn nại, hy sinh, nhường nhịn, thương yêu, hòa
ái với mọi người. Như vậy mới có thể cảm hóa được nhơn tâm hồi đầu hướng thiện,
quay về cửa Đạo.
Trong
thánh giáo Cao Đài, Ơn Trên dạy:
- Lấy
đức phục chúng thì lo gì không thu phục được nhân tâm. “Đào lý bất ngôn hạ tự
thành khê” là như vậy.
Cây
đào, cây mận không nói một lời nhưng quả ngon, trái ngọt vẫn thu hút được người
đến thưởng thức, hình thành lối mòn đó [chư hiền].([9])
- Người
đạo luôn luôn phải thể hiện lòng trung thực
đức độ khoan dung, lấy tình thương ban bố khắp
mọi người, dụng đức khiêm tốn làm phương
tiện dìu dẫn người đời vào đường chân thiện mỹ.
Một khi đã mang chức vụ vào mình, hãy nhớ đó là một sự phân công trong trách
nhiệm, chớ không thể lấy đó làm phương tiện lợi và quyền.([10])
- Tóm
lại, bậc lãnh đạo tinh thần tôn giáo, khi cực khổ thì xung phong đảm nhận làm
trước, lúc thụ hưởng phải đặt mình ở chót phía sau. Dầu trong lãnh vực nào cũng
thế. Gương khiêm tốn, lòng nhẫn nại, đức hy sinh, công quán xuyến, làm nên cho
người, kết quả của vấn đề là gây tình thương yêu hòa ái cho mọi người. Dù muốn
dù không, cái phản ứng tốt đẹp sẽ hướng về cho nơi xuất phát. Nhân tâm là yếu tố
làm đầu, tình thương là căn bản thành công cho mọi việc.([11])
Mỗi người môn đệ Cao Đài, khi hiểu được ý
nghĩa của câu Đào lý bất ngôn, hạ tự
thành khê, hãy tự nhủ rằng mình phải cố gắng tu sao cho rực rỡ, tu sao cho
được đầy đủ tâm hạnh đức tài, bấy giờ tự nhiên nhơn sanh xứ xứ sẽ quy về cửa Đạo
như lời Đức Giáo Tông Đại Đạo đã dạy:
Thảo
mộc tốt rầy sâu quy tụ
Ruộng
lúa lành quyến dụ chim trời
Đất
lành hoa quả tốt tươi
Chùa
linh, Đạo sáng, mọi người tin theo.([12])
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo
29-10 Kỷ Hợi (Thứ Hai 25-11-2019)
DIỆU NGUYÊN
([1]) Tử viết: Nhược Thánh dữ nhân, tắc ngô khởi cảm ức vi chi bất
yếm, hối nhân bất quyện, tắc khả vị vân nhĩ dĩ hỹ.
(Đức Khổng Tử nói: “Bảo ta là Thánh Nhân và nhân đức, ta
không dám nhận. Ta học làm như thế không chán, dạy người không mỏi mệt mà thôi.” Luận Ngữ, thiên Thuật Nhi, câu
33.
([8]) If a man can write a better book, preach a
better sermon or make a better mouse trap than his neighbor, though he build
his house in the woods, the world will make a beaten path to his door.