7. LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA
HỘI YẾN BÀN ĐÀO DIÊU TRÌ CUNG
Hằng năm, cứ đến ngày trung thu (rằm tháng 8), hầu hết
các Hội Thánh, thánh thất, thánh tịnh trong đạo Cao Đài đều trân trọng thiết đại
lễ Vía Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Hội Yến Bàn Đào kính dâng Đức Mẹ cùng Cửu vị
Tiên Nương. Lịch sử Hội Yến Bàn Đào Diêu Trì Cung có từ khi nào?
Từ rất xa xưa, trong kinh sách của đạo
Lão cũng như trong các tích truyện (Thất
Chân Nhơn Quả, Tây Du Ký…) đều có ghi rằng trên thượng giới có vườn đào tiên
của Đức Tây Vương Mẫu, cứ mỗi ba ngàn năm mới có trái chín. Lúc bấy giờ, Đức Diêu Trì Kim Mẫu tổ chức Hội Yến Bàn Đào để đãi chư Phật Tiên Thánh Thần, đặc
biệt là để ban thưởng cho các vị Tiên mới đắc đạo. Mỗi khi Hội Yến, càng có nhiều
vị Tiên mới đắc, Đức Mẹ càng thêm vui lòng đẹp dạ.
Truyện Tây Du Ký, Hồi Thứ Năm, kể rằng Tề Thiên Đại Thánh (Tôn Ngộ Không)
trên Thiên Đình không có việc chi làm nên một hôm Đức Thượng Đế mới giao cho Tôn
Đại Thánh trông coi vườn đào tiên. Sau khi nhận nhiệm vụ, Tề Thiên liền đi đến vườn
đào xem xét. Sau khi đi coi khắp hết, Tề Thiên hỏi vị Thổ Địa giữ vườn xem khu
vườn có cả thảy bao nhiêu cây đào. Thổ Ðịa thưa:
“Nội
vườn cộng hết thảy là ba ngàn sáu trăm cây. Phía trước một ngàn hai trăm cây
bông trái nhỏ, ba ngàn năm mới chín một kỳ. Ăn nó thì thành Tiên, nhẹ mình mà
thêm sức. Còn giữa vườn một ngàn hai trăm cây, bông trái có từng, trái ngọt lắm,
sáu ngàn năm mới chín một kỳ. Ăn nó thì bay như chim mà trường sinh bất lão.
Còn phía sau một ngàn hai trăm cây, chín ngàn năm mới chín một kỳ, trái có gân
màu tía, nhỏ hột hơn hết. Ăn nó thì sống bằng trời đất.
“Ba
ngàn năm chín một thứ, hái hai giỏ, hội
nhỏ. Sáu ngàn năm chín một thứ nữa, hái hai thứ đặng sáu giỏ thì hội trung. Đến chín ngàn năm chín một thứ
nữa, đặng bảy giỏ nên chín ngàn năm thì đại
hội.”
Ngày
nay, trong Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Mẹ cho biết:
Đào tiên kết tụ khí tiên thiên
Trải chín ngàn năm mới đủ
duyên
Hương vị thấm vào thân bất lão
Nhẹ nhàng thanh thoát hội quần Tiên.([1])
Truyện Thất Chân Nhơn Quả, Hồi Thứ Hai Mươi
Chín, kể rằng bảy vị đạo sĩ tu hành đắc đạo (Thất Chân) được trở về Bạch Ngọc
Kinh triều kiến Đức Chí Tôn và được Đức Chí Tôn sắc phong phẩm vị, trong đó có
Ngài Khưu Trường Xuân tu hành gian nan khổ hạnh bậc nhất nên đứng đầu với phẩm
vị là Thiên Tiên Trạng Nguyên, Tử Phủ Tuyển Tiên, Thượng Phẩm Toàn Chân Giáo Chủ, Thần Hóa
Minh Ứng Chủ Giáo Chân Quân.
Đến kỳ Hội Yến Bàn
Đào, Đức Đông Hoa Đế Quân dẫn các vị Chơn Tiên mới thọ phong cùng đến Diêu Trì Cung
phó hội. Khung cảnh Hội Yến được mô tả như sau: Nhiều Tiên Đồng rót rượu, vô số Tiên Nữ nâng bình. Vài chục
Tiên Đồng tay cầm sào trúc đỏ tía và lẵng, bay lên cây đào hái quả.
Phút chốc, đào đựng đầy lẵng, một số Tiên chuyển đào cho nhau. Trái
đào lớn nhất được dâng lên Thiên Tôn Đại Thánh, kế đó dâng đào lên
Đại La Kim Tiên Tam Giới Chính Thần, rồi đào được dâng cho nhân viên và
quyến thuộc của Bồng Đảo Tản Tiên Thị Vệ.([2])
Sách có lời bình luận
như sau:
Đào này ăn không phải dễ. Phải là người tu hành thì mới ăn
được. Người đời sau muốn ăn được đào tiên thì nên tu hành gian khổ như
Thất Chân. Tu hành đắc đạo thì thành Tiên. Hễ tham bái Diêu Trì thì
Vương Mẫu tặng cho đào tiên. Ăn một trái sống ngàn năm, sống mãi không
già.([3])
Quả thật, tu hành
không phải dễ, Ngài Khưu Trường Xuân đã kể lại quá trình tu hành khổ hạnh của
mình:
Phải chịu đựng đói khát, nhẫn nhịn sỉ nhục, áo không kín
thân, cơm không đầy miệng, ngày hai bữa không trọn, đêm khó ngủ một
giấc, chẳng ngày nào mà không bị người ghét mắng, biết bao lần bị
người lăng nhục. Nói ra xót lòng, nghe cũng lạnh mật.([4])
Người xưa phải tu hành khổ hạnh như thế mới được đắc
vị dự Yến Bàn Đào. Thế mà ngày nay, trong Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn lại cho
phép hàng môn đệ Cao Đài hằng năm đều được dự Yến Bàn Đào cùng Đức Mẹ, Cửu Vị
Tiên Nương và chư Phật Tiên Thánh Thần ngay tại cõi thế gian này.
Về nguồn gốc lịch sử Hội Yến Bàn Đào trong đạo Cao
Đài, sử Đạo chép: Đêm mùng 8 tháng 8 Ất Sửu (25-9-1925), Đức AĂÂ giáng đàn dạy
ba vị Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang (lúc bấy giờ thường xây bàn
tiếp xúc với thần linh nơi cõi vô hình) chuẩn bị thiết một lễ chay để cầu thỉnh
Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương giáng lâm vào đêm trung thu. Theo lời
hướng dẫn của Đức Thất Nương Tiên Nữ, ba vị đã giữ trai giới ba ngày trước lễ Hội
Yến với chư Thiên, được tổ chức tại tư gia Ngài Cao Quỳnh Cư vào đêm 14 rạng rằm
tháng 8 Ất Sửu. Việc chuẩn bị cuộc lễ được kể lại như sau:
(L)ập bàn hương án, chưng những hoa thơm, xông trầm trọn ngày (nhà không
tiếp khách nào hết).([5])
Sắp tiệc ấy do tay bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu vâng mạng lịnh tạo
thành một tiệc, trên bàn thờ Phật Mẫu, ở dưới sắp chín cái ghế cũng như có người
ngồi vậy. Chén, đũa, muỗng, dĩa, bất kỳ cái gì cũng giống như đãi người hữu
hình vậy; duy có ba người xác thịt là Thượng Sanh, Thượng Phẩm, Hộ Pháp.([6])
Đến giờ Tý ngày rằm, sau khi
lên nhang đèn quỳ lạy thành kỉnh, quý vị thiết đàn dùng đại ngọc cơ. Chư Thiên
giáng lâm chào mừng.
Tạm xả đàn, như đã được Thất
Nương hướng dẫn trước, ba vị đồng hiến lễ. Tiếp đó, ba vị ngâm ba bài thơ đã
chuẩn bị sẵn, kính dâng lên Đức Diêu Trì và Cửu Vị Tiên Nương.
Bước vào phần tiệc, ba vị được
phép sắp thêm ba chiếc ghế ngồi phía sau, trong lúc ấy bà Nguyễn Thị Hương
(Hương Hiếu) hầu tiếp chư Thiên. Bà trịnh trọng dâng lễ lên Đức Diêu Trì Kim Mẫu,
tiếp đến hiến lễ phẩm mời từng vị Tiên Nương…
Sau phần dâng lễ, chư vị lập
đàn tái cầu. Theo lời hứa trước, bốn vị Tiên Nương (Nhất Nương, Lục Nương, Thất
Nương, và Bát Nương) giáng cơ tặng bốn bài thơ.
Do sự kiện lịch sử này, hằng
năm vào ngày rằm tháng 8 (trung thu), lễ Hội Yến Diêu Trì (còn được gọi là Hội Yến
Bàn Đào) được hàng môn đệ Cao Đài tổ chức trọng thể.
Về sau này, trong buổi Hội Yến còn có phần ngâm thơ hầu
Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương. Các bài thài hiến lễ Cửu Vị Tiên Nương đều do
các Ngài giáng cơ ban cho. Mỗi bài được bắt đầu bằng tên của các Ngài lúc giáng
trần tại Việt
- Bài thài hiến lễ Đức Nhứt Nương:
HOA thu ủ như màu thẹn nguyệt
Giữa thu ba e tuyết đông về
Non sông trải cánh tiên lòe
Mượn câu thi hứng vui đề chào
nhau.
Chú: Khi giáng trần tại Việt
- Bài thài hiến lễ Đức Lục Nương:
HUỆ ngào
ngạt đưa hơi vò dịu
Đứng tài ba chẳng thiếu tư
phong
Nương mây như thả cánh hồng
Tiêu diêu phất phướn cõi tòng
đưa Tiên.
Chú: Khi giáng trần tại Việt Nam, Ngài có
tên là Hồ Thị Huệ, phối nhứt của vua Minh Mạng triều Nguyễn, mẹ của vua
Thiệu Trị.)
Về sau, tại thánh tịnh Ngọc Linh,([7]) vào ngày 04-12 Kỷ Hợi (02-01-1960), Đức Thái Thượng Đạo Tổ
đã ban cho chín bài thài hiến lễ Cửu Vị Tiên Nương, và Ngài dạy:
(H)ôm nay Thầy
ban cho các con chín bài thài ấy. Các con để ý mà hiểu phận sự một vị Nữ Phật
trên Diêu Cung. Thầy cũng nương dịp này mà dạy đạo cho các con đó. Các con cũng nên biết rằng, Chín Vị Nữ Phật
cũng có kẻ văn người võ.
ĐỆ NHỨT NƯƠNG
Cầm bạch hổ Thiên Vương kính nể
Tróc thanh long
Thái Tuế kiêng tài
Tiếng vang khắp cảnh
Bồng Lai
Tiên phong hộ giá
Diêu Đài Mẫu Nghi
Mây luống thẹn
thua vì nước tóc
Tuyết vẫn hờn đã kém màu da
Đức lành phục quỷ
hàng ma
Gương linh giọi
xuống Đài Hoa hộ thần.
Đệ
Nhứt Nương đi tiên phuông hộ giá Đức Mẹ, võ nghệ cao cường khiến cho Thiên
Vương, Thái Tuế phải kính nể, kiêng tài. Ngài lại có sắc đẹp tuyệt trần với nước
tóc màu da làm cho mây thẹn, tuyết hờn. Đức lành của Ngài trùm khắp khiến cho
quỷ phục thần khâm. Trong một kiếp giáng trần ở Việt
ĐỆ NHỊ NƯƠNG
Chấp
ngọc kích rạng phần cân quắc
Kỵ
kim loan xứng mặt anh thư
Hoa
nhan lạc nhạn trầm ngư
Diêu Cung
nổi tiếng nhơn từ quán quân
Thừa
lịnh Mẹ chuyển phân sắc chỉ
Chưởng
văn phòng xử lý nghiêm trang
Đức
tài gồm được vẹn toàn
Thước
thần chiếu điển bảo toàn Đài Hoa.
Đệ
Nhị Nương là một bậc cân
quắc anh thư. Ngài sử dụng ngọc kích, cỡi chim loan vàng, có sắc đẹp chim sa cá
lặn và đặc biệt là nổi tiếng nhân từ. Nơi Diêu Cung, Ngài phụ trách các công việc
văn phòng rất mực nghiêm trang. Trong một kiếp giáng trần, Nhị Nương làm Bà
Chúa xứ Chân Lạp, phương danh là Cẩm Tú.
ĐỆ TAM NƯƠNG
Văn
chương tợ hoa cài gấm vóc
Phú
thi dường nhả ngọc phun châu
Nổi
danh tài đức kim lâu
Dựa
bên trướng phụng chực chầu Mẫu Nghi
Trước
Hoa Đài quy nạp linh căn
Ấn
son kiểm ký văn bằng
Cấp
cho linh chưởng liên đăng Thiên Đường.
Đệ
Tam Nương có biệt tài văn chương thi phú. Nơi Diêu Cung, Ngài thường túc trực
hầu bên cạnh Đức Mẹ, có nhiệm vụ đóng ấn son vào văn bằng cấp cho các linh hồn
được lên Thiên Đường. Ngài có biệt danh là Kim Tuyến vì Ngài chỉ mặc áo trắng
viền kim tuyến. Khi xưa, Tam Nương hiển linh hiện xuống chỉ dẫn Chúa Nguyễn nơi
đóng đô, lập kinh thành Huế. Chúa Nguyễn nhớ ơn, lập chùa Thiên Mụ thờ phụng.
ĐỆ TỨ NƯƠNG
Vẻ
xuân sắc hoa nhường nguyệt thẹn
Nét
thu ba cá lặn chim sa
Cổ
lai học bác tài xa
Dương
cầm tay ngọc phổ hòa diệu âm
Trên
Diêu Điện thanh tâm chí luyện
Giữ
trách phần thiết Yến Đào ban
Hoa Đài
tùy giá Mẫu Hoàng
Không
trung chiếu ánh tường quang bảo tồn.
Đệ
Tứ Nương vừa có sắc đẹp chim sa cá lặn, vừa có học thức bác thông kim cổ, lại
vừa có tài năng về âm nhạc. Trên Diêu Điện, Ngài phụ trách việc thiết Yến Bàn
Đào cùng với biệt tài dùng tiếng đàn dương cầm mà cứu độ vạn linh. Trong một kiếp
giáng trần ở Việt Nam vào thời Trịnh-Nguyễn, Đệ Tứ Nương có tên là Lê Ngọc Gấm,
chính là tiền kiếp của Hồng Hà Nữ Sĩ (Đoàn Thị Điểm).
ĐỆ NGŨ NƯƠNG
Nắm
phủ việt kim môn túc trực
Gót
sen hòa chín bực đài mây
Mẫu kỳ
lướt gió tung bay
Trung
quân hộ giá Vương Tây lâm trần
Vẻ
cương quyết đượm phần anh kiệt
Tấm
can trường lẫm liệt oai phong
Tung
ra thất nhị huyền công
Phép
mầu bao phủ bố phòng Đài Hoa.
Đệ
Ngũ Nương với vẻ oai phong lẫm liệt của một bậc anh thư, Ngài luôn
đi giữa (trung quân) hộ giá Đức Mẹ với thất thập nhị huyền công. Ngài chính là Công
Chúa Liễu Hạnh, được thờ ở đền Sòng, Thanh Hóa. Thành phố Huế cũng có đền thờ Ngài
ở điện Hòn Chén.
ĐỆ LỤC NƯƠNG
Đứng
trước bến Ngân Hà phất phướn
Tiếp
dẫn đoàn linh chưởng hồi nguyên
Dắt
đem đến cửa cung Tiên
Đem
vào chầu Đức Mẫu Thiên Diêu Trì
Đài
Hoa hội trường thi linh chưởng
Mở
lòng từ đoái tưởng linh căn
Điển
linh chiếu xuống muôn lằn
Dắt
dìu hết đám linh căn ly trần.
Đệ
Lục Nương có lòng nhân từ
đoái tưởng dìu dắt các linh căn thoát trần và có nhiệm vụ tiếp dẫn những chơn
linh hồi nguyên vị để đưa vào chầu Đức Diêu Trì Kim Mẫu. Trước kia, Ngài giáng
trần ở nước Pháp, là Thánh Nữ Jeanne d'Arc (1412-1431), một vị nữ anh hùng cứu
nguy nước Pháp trong cuộc chiến tranh trăm năm với nước Anh. Ngài có một kiếp
giáng trần tại Việt Nam, là cô Hồ Thị Huệ (ở Biên Hòa), được chọn làm phối nhứt
của vua Minh Mạng, sinh ra vua Thiệu Trị được mười ba ngày thì quy thiên.
ĐỆ THẤT NƯƠNG
Trên
Diêu Đài Phật Nữ hoài mong
Linh
căn đọa lạc trần hồng
Thoát
ly thế tục Tiên Cung quy hồi
Miệng
đã thốt những lời châu ngọc
Mở lượng
từ đùm bọc chở che
Hoa
Đài theo Mẹ cùng về
Điển
linh giọi khắp bốn bề hộ linh.
Đệ
Thất Nương có nhiệm vụ hướng dẫn
các chơn linh còn bị đọa lạc nơi trần gian thoát ly thế tục trở về Tiên Cung.
Ngài lãnh sứ mạng tiên phong trong việc khai mở nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Ngài
là vị Tiên Nữ đầu tiên giáng đàn thuở còn xây bàn tại Sài Gòn, dùng thơ phú để
dẫn dắt các môn đệ đầu tiên của Đức Cao Đài (sau các vị trở thành Tiền Khai Đại
Đạo). Trong một kiếp giáng trần gần đây nhất, Ngài tên là Vương Thị Lễ, sinh
năm 1900, con của ông Vương Quan Trân, anh ruột Ngài Vương Quan Kỳ.
ĐỆ BÁT NƯƠNG
Đờn tỳ
bà tay Tiên phổ biến
Tại
Diêu Đài khoát tiếng thanh âm
Gọi
kêu linh chưởng lạc lầm
Kíp
mau về cõi huyền thâm kịp kỳ
Trên
mở lượng từ bi bảo hộ
Đã
quyết lòng cứu độ chơn linh
Độ
người thế tục Diêu Đình hồi quy.
Đệ
Bát Nương thường dùng tiếng đờn tỳ bà để gọi kêu các linh chưởng còn mê lầm
nơi trần thế giác ngộ quay về cung Diêu Trì. Ngài giáng trần ở Trung Hoa vào thời
Tiền Hán, có tên là Hớn Liên Bạch. Sau đó, Ngài giáng trần ở Việt Nam, tên là Hồ
Thị, là một nữ tướng tài ba của Hai Bà Trưng.
ĐỆ CỬU NƯƠNG
Cặp
song kiếm thư hùng chiếu khí
Để mở
cơ huyền bí độ đời
Khí
thiêng bao phủ khắp nơi
Tìm
người ngộ cảnh luân vơi dắt dìu
Trên
Thiên Cung đã nhiều công cả
Chưởng
hậu quân hộ giá Mẫu Hoàng
Nữ
hùng tiết tháo tiếng vang
Hoa
Đài chiếu điển hồng quang hộ trì.
Đệ
Cửu Nương là bậc nữ hùng luôn đi sau cùng (hậu quân) hộ giá Đức Mẹ. Trong một
kiếp giáng trần gần đây nhất, Ngài có tên là Cao Thị Khiết, sinh năm 1895 tại Bạc
Liêu, là con út (thứ chín) trong gia đình; người anh ruột thứ sáu là Đức Cao
Triều Phát.
Vào đêm 14-8 Bính Thìn (07-9-1976), Đức
Vân Hương Thánh Mẫu giáng đàn tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt
Nam dạy cách thiết lễ Hội Yến Bàn Đào đêm trung thu. Theo đó thì nghi lễ này được
lập sau khi cúng đại đàn. Ngoài bàn lễ Cửu Vị Tiên Nương với đầy đủ hương đăng,
trà rượu, hoa quả, còn có một bàn đại yến trải dài ngay giữa chánh điện trên nền
một tấm thảm xanh thay cho bàn ghế. Trên thảm cũng có đầy đủ hương đăng, trà rượu,
hoa quả, bánh mứt để đãi chư Phật, Tiên, Thánh, Thần cùng chư Chơn linh phụ mẫu
đã tu hành đắc vị.
Như trên đã trình bày, Hội Yến Bàn Đào
Diêu Trì Cung trên Thiên Đình phải mấy ngàn năm mới được tổ chức một kỳ để Thầy
Mẹ ban thưởng cho các chơn linh tu hành đắc vị Phật Tiên. Thế mà ngày nay,
trong Kỳ Ba đại ân xá, kể từ năm Ất Sửu (1925), khi khai mở nền Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ, Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu đã ban ơn cho con cái nơi cõi hồng trần này
được dự Yến Bàn Đào cùng Đức Mẹ và chư Tiên Phật hằng năm vào đêm trung thu (rằm
tháng 8).
Vì sao vậy? Ắt hẳn Hội Yến Bàn
Đào nơi cõi thế gian trong Kỳ Ba đại ân xá này phải có một ý nghĩa mầu nhiệm
nào đó.
II. Ý NGHĨA MẦU
NHIỆM CỦA HỘI YẾN BÀN ĐÀO TẠI THẾ GIAN TRONG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
1. Hội Yến Bàn Đào
thể hiện đức từ bi vô lượng của Đấng Từ Phụ và Đấng Từ Mẫu đối với con cái phàm
trần trong kỳ mạt kiếp và cũng thể hiện tính đại ân xá Kỳ Ba của Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ.
Đức Mẹ dạy:
Con nhớ quả đào
Tiên thuở trước
Mấy nghìn năm mới
được một kỳ
Bàn Đào đãi giữa trường thi
Phật Tiên Thần
Thánh đồng quy đồng hành.([8])
Đặc ân hay tính đại ân xá trong Tam Kỳ Phổ
Độ thể hiện qua việc các thí sinh ngay trong lúc đang dự trường thi công quả,
công trình, công phu lại được ban ơn cho dự Yến Bàn Đào cùng Đức Mẹ và chư Phật
Tiên Thần Thánh. Đức Từ Phụ và Đức Từ Mẫu muốn dụng hình thức để gây ý thức. Hình thức Hội Yến Bàn Đào nơi thế gian
nhằm gây ý thức cho thí sinh không ngừng cố gắng tiến tu, quyết chí thi đậu để
được thực sự dự Yến Bàn Đào nơi Tiên cảnh.
2. Hội Yến Bàn Đào
nhắc nhở các bậc nguyên nhân ý thức về nguồn cội thiêng liêng của mình.
Đức Mẹ dạy:
Hội Yến Bàn Đào quả tốt xinh
Thương con Mẹ bố phép huyền linh
Cho con thọ hưởng khuây lòng
tục
Nhớ đến căn xưa chốn Ngọc Đình.([9])
Hỡi
con trẻ Cung Son có nhớ
Chốn Diêu Cung
trẻ nỡ quên sao?
Dẫu khi mang sứ mạng vào
Dẫu khi bị đọa trần lao đền bù
Thì cũng nhớ mùa
thu năm ấy
Mẹ dặn dò con
hãy ghi lòng
Vào đời độ chúng lập công
Rồi quày trở lại
hiệp cùng Mẹ con.([10])
Mỗi nguyên nhân vào đời đều mang mể một sứ mạng
thiêng liêng chứ nào phải để nhàn du hay tận hưởng cuộc sống vật chất thế gian.
Thế nên Hội Yến Bàn Đào là để nhắc nhở các nguyên nhân sứ mạng gánh đạo vào đời
thức tỉnh nhơn sanh.
Đức Mẹ dạy:
Hội Yến để
nhớ con còn sứ mạng
Là Thiên ân gánh đạo bước vào đời
Thức tỉnh người trong biển khổ chơi vơi
Sống cõi tạm
cuộc đời sớm tối.([11])
3. Thể hiện nguyên
lý Thiên nhơn hiệp nhứt trong cơ cứu độ Kỳ Ba của Đức Thượng Đế.
Đức Mẹ dạy:
Hỡi các con, Mẹ dụng
tiếng Hội Yến Diêu Trì là tượng trưng cho mùa đào tiên kết trái, và chư Thần
Thánh Tiên Phật đến trần dự yến cùng các con là hòa hợp hai cõi sắc
không đồng thọ lãnh sứ mạng hoằng dương chánh
pháp phổ độ Kỳ Ba.([12])
4. Hội Yến Bàn Đào
nơi thế gian trong Tam Kỳ Phổ Độ là một bí pháp giúp cho vạn linh giác ngộ, tu
hành đắc quả.
Có lần Đức Vân Hương Thánh Mẫu hỏi:
Mấy mươi thu qua, chư Thiên ân và các em được trực
tiếp linh cơ, học lời thánh huấn và thọ hưởng hồng ân dự Yến Bàn
Đào cùng các hàng Tiên Phật. (. . .) Thế chư Thiên ân và các em có
nghĩ gì khi được dự Yến Bàn Đào không? Có thấy được giá trị của
quả ngon rượu ngọt không?
Nếu các em có
những ý nghĩ về giá trị của quả ngon ngọt, trong đó có ý nghĩa trị
bịnh, được phước, v.v… thường lắm, các em ạ! Mà nó phải có những ý
nghĩa mà tất cả các em phải thấu triệt giá trị đương vi.([13])
Từ lời dạy của Đức Vân Hương Thánh Mẫu, chúng
ta suy nghĩ, tìm hiểu ý nghĩa sâu sắc nhiệm mầu để thấu triệt lẽ
huyền vi của Yến Bàn Đào, đó chính là bí pháp Mẹ trao.
Bí pháp là cái pháp hay cái phép huyền bí nhiệm
mầu mà Đức Chí Tôn, Đức Từ Mẫu đã ban cho con cái mỗi khi dự Yến Bàn Đào để
giúp con cái giác ngộ, tu hành đắc quả.
Đức Mẹ dạy:
Mẹ Hội Yến ban trao bí pháp
Gọi Bàn Đào thu nạp vạn sanh
Lòng con nếu
thật chí thành
Thương đời cứu
khổ quên mình, con nghe.([14])
Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
Đại Hội Yến
Bàn Đào là phép nhiệm mầu từ Ngôi Vô Cực hiện bày thật tướng để
cứu độ vạn linh.([15])
Bí pháp hay phép nhiệm mầu ấy là chi?
Cứ mỗi lần dự Yến Bàn Đào cùng Đức Mẹ, Cửu Vị Tiên
Nương và chư Phật Tiên Thánh Thần là mỗi lần chúng ta được tiếp nhận nguồn ân
điển thiêng liêng giúp chúng ta thân tâm mát mẻ, đạo tâm thêm phấn chấn để tinh
tấn trên bước đường lập đức tu công hầu sớm trở về hội hiệp cùng Đức Phật Mẫu,
thoát khỏi luân hồi sinh tử.
Thật vậy, Đức Mẹ dạy:
Mỗi độ
thu sang là mỗi lần các con hội hiệp cùng nhau thiết lễ trung thu hiến dâng cho
Mẹ. Mẹ rất vui chứng lòng thành của các con. Dầu hoa quả ở cõi phàm trần, nhưng
các con đã hái từ cội đào tiên đang kết quả đơm hoa trên mảnh tâm điền thiện mỹ
của các con. Mẹ sẽ cho chư Phật Nữ, Tiên Nương đem hiến dâng lên Đức Chí Tôn Từ
Phụ để đãi
Nay các trẻ đào tiên quả tục
Mẹ ban vào hạnh phúc tương lai
Để con giữa chốn trần ai
Tu tâm luyện tánh Diêu Đài trùng hoan.([17])
Mẹ dạy con chí
thành ghi nhớ
Trước và sau nhắc nhở học hành
Bàn Đào Hội Yến đêm
thanh
Mẹ cùng Tiên Phật
ân lành bố ban.
Cho các con hòa
chan lý Đạo
Cho lòng con hoàn hảo
thiên lương
Cùng nhau chung
sống tình thương
Xinh như hoa đẹp, ngọt dường đào tiên.([18])
Sau khi Hội Yến Bàn Đào, các con sẽ được nhiều
ân huệ để phấn khởi tinh thần mà tu niệm.([19])
Như vậy, cứ mỗi lần dự Hội Yến Bàn Đào thọ nhận bí
pháp nhiệm mầu của Đức Mẹ là mỗi lần thân tâm của chúng ta được chuyển hóa, được
thăng hoa để tinh tấn trên bước đường tu công lập quả hầu một ngày kia được trở
về dự Yến Bàn Đào thật nơi Diêu Cung.
Đức Mẹ dạy:
Mẹ ban điển lành
trong những bánh quả trung thu Hội Yến của các con thành tâm hiến dâng lên Mẹ để
rồi ngày nào đó các con không phải cứ dùng
những vật chất phàm trần làm vật tượng trưng
cho cảnh Tiên nữa, tức là các con sẽ dự Yến Bàn Đào thật
nơi Diêu Cung của Mẹ nếu các con về được.
Điển lành bố hóa
lễ Bàn Đào
Nhuận thắm ân hồng
của Mẹ trao
Cho cõi lòng con thêm sáng suốt
Cho tinh thần trẻ
được dồi dào.([20])
Tuy nhiên, cùng dự Yến Bàn Đào, nhưng không phải ai
cũng thọ hưởng được diệu dụng nhiệm mầu của bí pháp. Muốn thọ hưởng được diệu dụng
nhiệm mầu của bí pháp Yến Bàn Đào chúng ta cần phải có điều kiện.
Đức Mẹ dạy:
Mẹ Hội Yến ban
trao bí pháp
Gọi Bàn Đào
thu nạp vạn sanh
Lòng con nếu thật chí thành
Thương đời cứu khổ quên mình, con nghe.([21])
Vậy, muốn thọ hưởng được diệu dụng nhiệm mầu của bí
pháp, chúng ta cần phải có hai điều kiện sau đây:
a. Phải có lòng chí thành tin tưởng.
b. Phải có đức hy sinh quên mình, vong kỷ vị tha,
thương đời mà cứu khổ.
Do đó, có lần Đức Vân Hương Thánh Mẫu đặt câu hỏi:
Ai đã được
sống nghìn năm khi dự Hội Yến Bàn Đào?
Ai được ban trao
bí pháp?
(. . .)
Nếu người đời
chưa thoát ra khỏi cái tháp ngà riêng rẽ, chưa khoát bức vô minh, thì
làm sao suy luận nổi bí pháp nhiệm mầu của Tạo Hóa. Dù cho có được
hưởng Hội Yến Bàn Đào cũng không thấm cái hương vị trường sanh, có
ban trao bí pháp cũng hóa thành công cụ riêng tư trong kho tàng ích
kỷ. Chỉ những người có tâm pháp nhứt như
mới thấu triệt huyền vi hoán chuyển ấy.([22])
Thế nên, nếu dự Hội Yến Bàn Đào với cái tâm ích kỷ, vọng
cầu lợi ích riêng tư thì không làm sao tiếp nhận được diệu dụng huyền vi của bí
pháp mà Đức Vân Hương Thánh Mẫu gọi là thấu
triệt huyền vi hoán chuyển, đó là sự hoán chuyển kỳ
diệu từ phàm tâm sang thánh tâm để có thể tiến đến giải thoát tâm linh, siêu phàm nhập thánh.
Xưa nay kinh sách vẫn thường dạy rằng vạn pháp duy tâm tạo. Thế nên, Đức Mẹ dạy:
Bí pháp không ngoài tâm con.
Nếu tâm con còn nhiều phiền trược, hãy
dùng chút bồ đào tiên tửu Mẹ ban để lắng dịu,
thanh khiết mà tu hành cho nên đạo quả. Đó là bí pháp.
Còn những lý huyền nhiệm hơn, Mẹ đợi chờ lòng con tịnh khiết sẽ
trao cho.([23])
Do đó, cứ mỗi lần chúng ta thiết lễ Hội Yến
Bàn Đào hiến dâng Đức Mẹ cùng chư Phật Tiên Thánh Thần, Đức Mẹ đều nhắc nhở
chúng ta ba điều:
a. Hãy mở
rộng lòng bác ái thương yêu đến các anh
chị em kém may mắn hơn mình.
Đức Mẹ dạy:
* Các con rất
hữu duyên mà được dự Yến Bàn Đào với Mẹ và chư Thiên.
Mẹ nhìn lại
còn những con khác chưa được như các con, lòng Mẹ rất thương xót. Chúng nó
thiếu mọi phương tiện để đến với Mẹ như các con. Thế nên, trong giờ
dự yến, các con hãy để giây phút
lắng đọng tâm tư hướng về những con ấy.([24])
* Yến Bàn Đào
năm nay linh đình tốt đẹp quá. Rồi Mẹ chạnh nhớ đến những
đứa còn đang lặn hụp trong bể khổ đói rét lạnh
lùng.
Con ôi! Con hãy
dành tất cả tình thương cho đồng loại. Hãy quên
mình vì cứu độ, quay bánh xe đại thừa vào khắp
chốn. Đừng buồn khi gặp những chướng ngại. Có vào lửa đỏ mới cứu được kẻ bị
hỏa tai. Có chịu sóng gió bão bùng mới vớt được người chết đuối. Có hòa mình
cùng nhân thế mới độ được thế nhân. Tùy khả năng, tùy duyên cứu độ. Đó là đại
lễ các con hiến dâng lên Mẹ mỗi độ trung thu. (.
. .)
Nếu các con làm
được như vậy, tức là trong
con đã có Mẹ ngự hằng giờ, hằng phút
để hộ trì cho con từ bước một.([25])
* Sau khi Mẹ và
chư Phật Nữ Tiên Nương Thần Thánh chứng lễ các con dâng hiến, các con hãy
đem lễ này để phân phát từ đứa lớn đến đứa nhỏ cho đồng
đều. Mẹ chứng ở tâm hòa đồng vị
tha của các con thể hiện trong mùa trung thu này.([26])
b. Hãy khai mở
cõi lòng tịnh khiết để tiếp nhận hồng quang thiên điển hầu cứu
độ sanh linh, đồng thời giữ được thanh tịnh tôn nghiêm
cũng chính là đến được cực lạc niết bàn.
Đức Mẹ dạy:
Mẹ đã ban hồng ân vào bạch thủy cho các con đồng thọ hưởng. (. . .)
Các con nên nhớ vào giờ công phu thiền định khai mở cõi lòng tịnh khiết để tiếp
nhận luồng hồng quang thiên điển. Nhiếp thâu được nhiều hay ít là do ở lòng của
con. Hồng quang thiên điển luôn luôn bủa trùm để cứu độ sanh linh. Các con hãy
giác ngộ, hãy ý thức với nhau để cùng tu hành hạnh hưởng.
Mẹ cùng Phật Tiên, Thánh Thần sẽ đến dự lễ Hội Yến Bàn Đào. Các
con nhớ trật tự thanh tịnh. Cần được tôn nghiêm là cực lạc đó con.([27])
c. Phải ráng
tu để có đủ thần lực và sự sáng suốt để dìu dắt thế
nhân.
Đức Mẹ dạy:
Yến
Bàn Đào năm nay các con hiến dâng với tất cả lòng thành của các con lớn nhỏ. Mẹ
rất mừng thấy các con vẫn kiên trì tu học hành đạo.
Con
ôi! Đời càng ly loạn, nhân tâm càng đảo điên thì các con càng phải ráng tu. Có
tu mới đủ thần lực, đủ sáng suốt dìu dắt thế nhân trên đường ngay nẻo thẳng, sống
đời đạo đức an lành. (. . .) Đứa con nào đã thuần thành, vô ngã vô nhơn mới thực
hành đúng Thiên cơ thánh ý và sẽ được trúng tuyển trên bước đại thừa. Các con cố
gắng.([28])
Tóm lại, bí pháp Hội Yến Bàn Đào gồm
có hai phần:
- Phần Thiên: Đó là sự ban bố ân lành mầu nhiệm của Thiêng
Liêng giúp cho tâm chúng ta giải tỏa được mọi điều phiền trược, trở nên lắng dịu,
thanh tịnh hầu có thêm sức mạnh tinh thần mà vượt qua mọi chướng ngại từ nội
tâm đến ngoại cảnh để tinh tấn trên bước đường tu công lập đức, giải thoát khỏi
luân hồi sinh tử.
- Phần Nhơn: Bí pháp không ngoài tâm ta. Bí pháp chỉ mang đến diệu
dụng nhiệm mầu khi nào chúng ta có tâm chí thành và nhứt như thanh tịnh, không
vọng cầu vị kỷ. Bí pháp cũng không ngoài việc thực hiện tam công của người tu: Công
quả giúp thế độ đời, công trình luyện kỷ hy sinh quên mình vì đại chúng, và
công phu cho cõi lòng được thanh tịnh sáng suốt hầu thực hiện sứ mạng cứu thế độ
đời cho đúng thánh ý Thiên cơ.
Sau khi hiểu rõ lý đạo
nhiệm mầu của bí pháp Hội Yến Bàn Đào, ước nguyện rằng huynh tỷ, đệ muội chúng
ta sẽ đồng thọ hưởng được diệu dụng nhiệm mầu của bí pháp mỗi khi được dự Yến
Bàn Đào cùng Đức Mẹ và chư Tiên Phật Thánh Thần mỗi độ thu về hầu có thể hoàn
thành sứ mạng tự độ và độ tha trong Kỳ Ba đại ân xá mà Đức Chí Tôn đã mở ra cho
toàn nhân loại vào buổi hạ nguơn mạt kiếp này.
Hội Thánh Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý
Tòa Thánh Ngọc Kinh
13-8 Canh Tý (Thứ Ba
29-9-2020)
DIỆU
NGUYÊN
([6]) Trích lời thuyết
đạo của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc tại Tòa Thánh Tây Ninh ngày 15-8 Kỷ Sửu
(1949).