Thứ Hai, 14 tháng 12, 2020

5. KẾT DẢI ĐỒNG TÂM / Diệu Nguyên

 


5. KẾT DẢI ĐỒNG TÂM

Nhớ câu thánh thi năm xưa của Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ:

Chính mình Thầy đến chốn Nam bang

Mượn đất đem gieo mối Đạo vàng.([1])

Thời hạ nguơn mạt kiếp, Đức Thượng Đế đã đích thân giáng trần, mượn mảnh đất Việt Nam để gieo mối Đạo quý báu hầu cứu rỗi toàn linh thoát khỏi họa diệt vong vì chiến tranh tương tàn tương sát.

Xưa nay, trong nông nghiệp, muốn cho mùa màng được tươi tốt, cây trái được sum suê thì người nông phu phải biết chọn mảnh đất thích hợp để gieo trồng. Chẳng hạn như ở nước ta, cây vải thiều thì được trồng ở miền bắc, trà hay cà phê thì phải trồng ở vùng cao nguyên đất đỏ bazan miền trung, cây lúa thì phải trồng ở vùng đồng bằng phù sa màu mỡ, v.v. Vậy, mảnh đất Việt Nam nhỏ bé của chúng ta có những đặc điểm thuận lợi nào cho việc gieo mối Đạo vàng của Đức Đại Từ Phụ?

Trả lời cho câu hỏi này, Đức Chí Tôn dạy:

Các con là dân tộc Việt cũng như các dân tộc khác sanh trưởng tại quả địa cầu này. Tình thương Tạo Hóa ban đồng cho các con cũng như các con khác, nhưng dân tộc các con đã đau khổ quá nhiều, non sông Tổ quốc các con đã bị giày xéo lâu đời, nhưng các con đưc tri hơn chúng về đức tin, về lòng đo đức ngưỡng m Thưng Đế và các Đấng trn lành. Tình thương các con không thiếu, lòng hiếu hòa các con có thừa, do đó dân tc các con mới hnh ngộ Đi Đo Tam K Phổ Độ. Trên bốn mươi năm rồi, Thầy đem giống Đạo đến gieo trên mảnh đất hiền hòa nhưng đau khổ này để các con chung nhau vun xới, tưới nước, bón phân để hột giống đó sớm nẩy mầm đâm tược, đơm bông kết quả.([2])

Lời dạy của Đức Đại Từ Phụ đã cho chúng ta thấy mảnh đất Việt Nam có hai đặc điểm thuận lợi cho việc gieo mối Đạo Trời:

1. Dân tộc Việt giàu đức tin và lòng đạo đức ngưỡng mộ Thượng Đế và các Đấng trọn lành, đồng thời lại có tinh thần hòa đồng tôn giáo.

Thật vậy, bên cạnh truyền thống tín ngưỡng thờ Trời rất phổ biến trong dân gian, người dân Việt còn dung nạp cả Tam Giáo bao gồm Nho Giáo, Lão Giáo, Phật Giáo, và đến thế kỷ 16 thì có thêm Thiên Chúa Giáo. Đặc biệt là người dân Việt có một tinh thần bao dung và hòa đồng tôn giáo rất cao. Phần lớn các tôn giáo ở Việt Nam đều du nhập từ nước ngoài và trải qua hằng bao thế kỷ vẫn luôn cùng tồn tại trong đời sống tâm linh của người dân Việt mà chưa hề xảy ra một cuộc xung đột tôn giáo nào cả. Tư tưởng Tam Giáo một nhà được thể hiện qua các tác phẩm, thi văn của các vị Thiền sư hay nhà Nho Việt Nam từ xa xưa trong suốt nhiều thế kỷ trước khi đạo Cao Đài ra đời vào đầu thế kỷ 20.

Chẳng hạn như vào năm 1760, nhân dịp trùng tu chùa Tam Giáo (làng Kim Bảng), Ngô Thì Sĩ ([3]) làm bài văn bia nêu lên ý kiến của ông về Tam Giáo như sau:

Lời khuyên về tịnh độ của nhà Phật, lời bàn về cảnh tiên của nhà Đạo, thuyết tích chứa điều lành của nhà Nho, thảy đều đúng cả. Đạo Phật chủ trương từ bi, Đạo gia thanh tịnh, Nho gia lấy thuyết nhân nghĩa, trung chính mở đường cương thường của Trời để dựng nên một trật tự cho người. (. . .) Tôi cho rằng đạo lý chỉ có một mà thôi. Tự do, sáng suốt, không có phân chia đạo nọ đạo kia vậy.([4])

Sống vào khoảng đời nhà Tây Sơn, thiền sư Toàn Nhật (1750? -1832?) coi Tam Giáo cùng một nhà, tuy công dụng ở đời có khác nhưng lại hỗ trợ cho nhau trong việc giáo hóa, cứu độ, trị an dân chúng:

Phép xưa gầy dựng roi truyền

Nho ra sửa trị đời nên thanh bình

Thích ra độ tử cứu sinh

Đo ra tẩn diệt mị tinh yêu tà

Thánh hiền phân chế làm ba

Tam giáo so lại nhất gia khác gì.

Sư ví Tam Giáo như ba ngả đường cùng dẫn về một đích điểm. Sư còn quan niệm Tam Giáo không thể thiếu một, cũng như chiếc vạc phải đủ ba chân, bầu trời phải đủ mặt trời, mặt trăng và các vì sao (tam quang: nhật, nguyệt, tinh).([5])

Hay như trong truyện thơ Lục Vân Tiên, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã kể rằng Nho sĩ Lục Vân Tiên đi thi, nửa đường nghe tin mẹ mất nên khóc thương đến mù cả đôi mắt và phải đến nương nhờ cửa Pht và được ông Tiên ban thuốc tiên chữa cho mắt được sáng lại:

Vân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền

Nửa đêm nằm thấy ông Tiên

Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra.([6])

Như vậy, qua cách hư cấu truyện thơ Lục Vân Tiên, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã cho thấy tinh thần Tam Giáo đề huề, không có ranh giới phân biệt, thành kiến, ngăn ngại.

2. Dân tộc Việt giàu tình thương và lòng hiếu hòa. Điều này thể hiện rất rõ nét trong lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Việt Nam là một đất nước nhỏ bé bên bờ Thái Bình Dương thường xuyên bị giặc phương Bắc sang xâm lăng đô hộ. Thế nhưng, nhờ vào sự đồng tâm nhất trí của cả nước từ vua quan cho đến toàn dân mà Việt Nam luôn đánh đuổi được giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi và bảo tồn được bản sắc văn hóa của dân tộc.

Chẳng hạn như vào thế kỷ 13, dưới triều đại nhà Trần, quân Mông Cổ sang xâm lăng nước ta. Quân Mông hung hãn, thiện chiến đã chiếm giữ cả một vùng Trung Á cùng đất Ba Tư, rồi sang đến phía đông bắc châu Âu. Về sau lại lấy được nước Tây Hạ, nước Kim và tràn sang đến Triều Tiên. Đến khi Hốt Tất Liệt lên làm vua, đổi quốc hiệu là Nguyên và sang đánh nhà Tống, xâm chiếm và cai trị toàn bộ đất nước Trung Hoa.

Sau đó quân Nguyên Mông lại tràn sang xâm chiếm nước Nam. Vua Trần Nhân Tông triệu tập các bô lão tại điện Diên Hồng để bàn xem nên hòa hay nên đánh. Tất cả đều đồng thanh trả lời: Quyết chiến! Đại tướng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn viết bài Hịch để phủ dụ tướng sĩ. Vua tôi hòa hợp, muôn người như một, kết dải đồng tâm, nhân tài lũ lượt quy về, nhờ đó mà cả ba lần giặc Nguyên Mông sang đánh nước ta đều bị vua tôi nhà Trần đánh cho tan tác.

Sang thế kỷ 15, Việt Nam lại bị ách đô hộ của nhà Minh. Người anh hùng đất Lam Sơn là Bình Định Vương Lê Lợi đã đón mời anh hùng hào kiệt khắp nơi cùng nhau dựng cờ khởi nghĩa, chịu đựng biết bao gian khổ hy sinh, nằm gai nếm mật, chiến đấu trong mười năm trường để đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi, giành lại nền độc lập tự chủ cho nước nhà. Thế mà đến khi chiến thắng rồi, có người xui Bình Định Vương rằng: Lúc trước giặc Minh tàn ác với dân ta lắm, nên đem giết cả đi. Vương nói rằng: Phục thù báo oán là cái thường tình của mọi người, nhưng cái bản tâm của người có nhân thì không muốn giết người bao giờ. Vả lại người ta đã hàng mà mình còn giết thì không hay. Nếu mình muốn thỏa cơn giận một lúc mà chịu cái tiếng muôn đời giết kẻ hàng thì sao bằng để cho muôn vạn con người được sống mà khỏi được cái mối tranh chiến về sau, lại để tiếng thơm lưu truyền thiên cổ trong sử xanh.

Bình Định Vương Lê Lợi chẳng những không giết hai vạn quân Minh đã đầu hàng mà còn cấp cho họ năm trăm chiếc thuyền, vài nghìn cỗ ngựa và lương thảo đủ dùng để trở về nước họ, đúng như lời Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô Đại Cáo: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo.([7])

Chính nhờ truyền thống hòa hiệp, đoàn kết nhất tâm và lòng nhân nghĩa hiếu hòa từ ngàn xưa của dân tộc Việt mà Đức Chí Tôn Thượng Đế đã chọn mảnh đất Việt Nam để gieo mối Đạo Trời, bởi lẽ, như lời Thầy dạy: Thầy đến lập Tam Kỳ Phổ Ðộ, chỉ vụ một chữ hòa.([8]) Phải gieo trồng hạt giống Đạo trên mảnh đất hiếu hòa thì cây Đại Đạo mới sum suê cành lá và mang lại hoa trái tình thương.

Qua đó, chúng ta cũng có thể hiểu được mục đích khai Đạo của Đức Chí Tôn như lời Ngài dạy:

Đời chẳng loạn ly, Đạo chẳng khai

Đạo khai sắp đặt cuộc an bài

An bài nhơn loại do hòa hiệp

Hòa hiệp không còn ba, bảy, hai.([9])

Thật vậy, chỉ có tìm lại tình thương yêu hòa hiệp mới có thể chấm dứt được cảnh tương tàn tương sát của nhân loại hiện nay và mang lại cảnh thái bình an lạc hạnh phúc cho toàn thế giới.

Đức Chí Tôn dạy:

Con hãy giữ dĩ hòa vi quý

Hòa mới tường đạo lý cao siêu

Mới không phạm luật Thiên điều

Mới mong anh dắt, em dìu sớm hôm.([10])

Các thành viên trong gia đình có hòa thì gia đình mới êm ấm, hạnh phúc, con cái mới được chăm sóc nuôi dưỡng và dạy dỗ cho nên người hữu dụng cho xã hội. Hàng xóm láng giềng có hòa mục thương yêu và tận tình giúp đỡ tương trợ nhau những lúc tối lửa tắt đèn thì làng xóm mới được yên vui, an cư lạc nghiệp. Toàn dân trong một nước có hòa ái thương yêu, lá lành đùm lá rách, đoàn kết chung tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc thì quốc gia mới hưng thịnh phát triển. Các quốc gia có hòa hiệp bang giao trong tinh thần bình đẳng tôn trọng lẫn nhau thì thế giới mới hòa bình, càn khôn mới an định. Các tôn giáo có hòa hiệp bắt tay nhau để cùng chung tâm phụng sự nhơn sanh, dìu dắt nhơn sanh đi trên con đường thiện lương đạo đức nhân nghĩa thì thế giới này sẽ là cảnh thiên đàng tại thế.

Lý thuyết là như thế, nhưng phương pháp để đạt được sự hòa hiệp là chi? Đức Chí Tôn dạy:

Con phải dng cái tình To Hóa

Xem người không nhơn ngã đó đây

Chẳng còn duyên nghiệp tạo gây

Thì đâu cốt nhục chia ly đạo đời.([11])

Theo lời dạy của Đức Chí Tôn, muốn chấm dứt cảnh chia ly tình cốt nhục, muốn có được sự hòa hiệp đồng tâm thì mỗi người phải dụng cái tình Tạo Hóa để cư xử với nhau; xem người không nhơn ngã đó đây tức là không phân biệt ta người, đây trọng đó khinh.

Tình Tạo Hóa chính là tình thương yêu chúng sanh vạn loại của Đấng Cha Trời, không phân biệt kẻ dữ với người lành như lời Thầy dạy:

Hỡi các con! Trong tình Tạo Hóa, đức hiếu sinh, Thầy nhìn vạn vật với một sự thương yêu chan rưới. Mặc dầu cảnh trần gian có biến đổi muôn hình vạn trạng, có sanh nhiều tội nghiệp đa đoan, có tạo nhiều phong ba bão tố, nhưng lòng Trời vẫn che, đất trời vẫn chở.([12])

Tình thương ấy vô cùng vô tận, không lãnh vực, không biên cương, bao trùm vũ trụ. Thầy dạy: Các con hãy nhận thức lòng Thầy để đem vào làm lòng các con, và tập lần lần để cho lần lần được thành công trên quan điểm thương yêu.([13])

Vậy, muốn có được tình thương yêu bao la rộng lớn như tình Tạo Hóa, mỗi người trong chúng ta cần phải thực hành dần dần các mức độ của tình thương từ thấp lên cao theo tiêu ngữ của Cao Đài Giáo: Công Bình – Bác Ái – Từ Bi.

Công bình là thương người như thương mình và thực hành lời dạy của Đức Khổng Tử: Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân. (Những gì ta không muốn thì đừng làm cho người khác.)

Bác ái là mở rộng lòng thương yêu, không chỉ thương người mà còn thương cả vạn vật chúng sanh hơn thương bản thân mình. Đức Chí Tôn dạy: Bác ái là hay thương xót sanh linh hơn thân mình, cho nên kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông mà coi thiên hạ trọng bằng trời đất.([14])

Từ bi là quên cả bản thân mình để đem tình thương mà phục vụ cho sanh chúng.

Như vậy, để có được sự hòa hiệp đồng tâm giữa con người và con người, mỗi người cần thực hành bài học thương yêu từ thấp lên cao, từ công bình đến bác ái rồi đến từ bi. Đạt được hạnh từ bi tức là đã đạt được tinh thần vô ngã – không còn cái ta tư kỷ hẹp hòi, cống cao ngạo mạn nữa – thì làm gì mà nhân loại chẳng hòa hiệp, như lời Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Thái Bạch Kim Tinh dạy rõ:

(H)ãy dẹp bỏ cái ta đi, đừng quan trng cái ta nữa. Phải nghĩ rằng có ta hay không ta, lẽ đời cùng, thông, bĩ, thới vẫn diễn hành. Cây trên rừng cứ mọc. Cỏ ngoài nội cứ xanh. Nước trường giang cứ chảy. y dit bỏ cái ta đi!

Nên cũng ta mà hỏng cũng ta

Chính ta là Phật cũng là ma

Thử xem vứt cái ta đi quách

Thế s lo chi chẳng thun hòa.([15])

Rồi Ngài nhắn nhủ các bậc Thiên ân hướng đạo:

Theo thời kỳ tôn giáo hiện tại, thiết thực là các tay lãnh tụ trong đạo cần nhất phải lo hòa hiệp cùng nhau cho thân mật. Dù kẻ chân trời người góc bể cũng phải chiều lòng mà quy phục cho đặng thì cơ đạo mới có mòi phát hiện ra thực tế, hữu ích với đời đương buổi canh tân. Còn về phần nhơn sanh cần nơi chí hướng phải cương quyết, nghĩa là phải vẹn giữ một lòng tin Đạo thờ Thầy, anh em cùng nhau kết tình tương thân tương ái, như đám kiến kéo thây con cào cào, nhờ đông sức mà đắp thành non lớn. Vậy mỗi sự chi chi cũng nhờ nơi chúng kiến,([16]) bước tu hành cũng phải đồng tâm sau trước nương nhờ mà đi đến chỗ đại đồng tôn giáo.([17])

*

Hằng năm, hàng môn đệ Cao Đài đều long trọng tổ chức lễ kỷ niệm ngày Khai Tịch Đạo (23-8 âm lịch) và Khai Minh Đại Đạo (15-10 âm lịch). Lẽ tất nhiên chúng ta không thể nào quên được sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ mà Đức Thượng Đế đã ban trao cho dân tộc Việt Nam trên một lãnh thổ nhỏ bé đã chịu nhiều đau khổ vì ách thống trị của ngoại xâm. Dân tộc này không có thế lực hùng mạnh, không có khí giới tối tân, cũng chẳng có một nền văn minh khoa học hiện đại như bao nhiêu quốc gia khác trên thế giới. Tuy nhiên, dân tộc này có một truyền thống đạo đức tín ngưỡng nơi Trời Phật và các Đấng thiêng liêng với tinh thần bao dung tôn giáo từ lâu đời và một truyền thống đoàn kết hiếu hòa trải qua mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.

Vậy thì, để thực hiện sứ mạng trọng đại được ban trao ̶ sứ mạng nhân hòa hay sứ mạng xây dựng một thế giới đại đồng, hòa bình âu ca cho toàn nhân loại ̶ hàng môn đệ Cao Đài cũng như hàng tín hữu các tôn giáo bạn và toàn dân Việt Nam hãy cùng bắt tay nhau, kết dải đồng tâm, thực hiện tình thương cao cả như lòng Đại Từ Phụ yêu thương chúng sanh, bởi lẽ chỉ có tình thương rộng lớn vô tư, không phân biệt, không nhân ngã mới có thể xóa tan mọi nỗi hận thù và mang lại một nền hòa bình hạnh phúc thật sự cho toàn cả chúng sanh trên quả địa cầu này.

Chúng ta hãy cùng nhau ghi nhớ lời Thầy dạy:

Thầy vui muốn cho các con thuận hòa cùng nhau hoài. Ấy là lễ hiến cho Thầy rất trân trọng.([18])

Thầy chỉ một lòng mơ ước cho các con biết thương yêu nhau trong thánh đức của Thầy. Sự thương yêu là chìa khóa mở Tam Thập Lục Thiên, Cực Lạc Thế Giới và Bạch Ngọc Kinh. Kẻ nào ghét sự thương yêu, thì chẳng hề qua khỏi cửa luân hồi. (. . .) Mọi sự khó khăn Thầy gánh vác, chỉ cậy các con thương yêu gắng công độ rỗi.([19])

Ước mong sao tất cả huynh tỷ đệ muội chúng ta sẽ không phụ lòng trông cậy của Thầy, cùng nhau thực hành bài học thương yêu, kết dải đồng tâm gắng công phụng sự cho thế gian này không còn là sông mê bể khổ.

Thánh thất Nam Thành

 23-8 Kỷ Hợi (Thứ Bảy 21-9-2019)

DIỆU NGUYÊN



([1]) Thiên Lý Đàn, 14-01 Bính Ngọ (03-02-1966).

([2]) Thiên Lý Đàn, 30-10 Mậu Thân (19-12-1968).

([3]) Ngô Thì Sĩ là nhà sử học, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng ở Việt Nam vào thế kỷ 18.

([4]) Huệ Khải, Tam Giáo Việt Nam – Tiền Đề Tư Tưởng Mở Đạo Cao Đài. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2013, tr. 72-73.

([5]) Huệ Khải, Tam Giáo Việt Nam, tr. 76-77.

([6]) Huệ Khải, Tam Giáo Việt Nam, tr. 78.

([7]) Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược. Nxb Khoa Học Xã Hội, 2011.

([8]) Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. Quyển 2. Đàn ngày 12-01 Đinh Mão (13-02-1927).

([9]) Minh Đức Đàn, 10-7 Ất Tỵ (06-8-1965).

([10]) Minh Đức Đàn, 10-7 Ất Tỵ (06-8-1965).

([11]) Thiên Lý Đàn, 14-01 Bính Ngọ (03-02-1966).

([12]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, 15-01 Nhâm Tý (29-02-1972).

([13]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 29-12 Bính Ngọ (08-02-1967).

([14]) Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. Quyển 2. Đàn cuối năm Đinh Mão.

([15]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 04-3 Quý Mão (28-3-1963).

([16]) chúng kiến: Ý kiến của tập thể, của đại chúng.

([17]) Thánh thất Nam Trung Hòa, 27-7 nhuần Mậu Dần (20-9-1938).

([18]) Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. Quyển 1. Đàn ngày 20-02-1926.

([19]) Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. Quyển 2. Đàn ngày 27-10-1927.