10. TÂM LÝ HỌC ỨNG DỤNG
VÀO ĐỜI SỐNG TU HÀNH
1.
ĐIỂM CỐT LÕI CỦA TÂM LÝ HỌC
Ở đời, muốn thành công trong giao tế hay
trong công việc, con người cần phải biết thuật đắc nhân tâm. Đắc nhân tâm là thu
phục được lòng người. Muốn thu
phục được lòng người phải biết lòng người nghĩ gì, yêu thích điều gì, chán ghét
cái gì, v.v… để đối xử cho phù hợp. Nói cách khác, muốn đắc nhân tâm, cần phải
hiểu tâm lý con người.
Tâm lý là nguyện vọng, ý thích, thị hiếu, v.v… riêng của mỗi người, trong một
hoàn cảnh cụ thể nào đó.([1]) Nói là riêng, nhưng thật sự những nguyện vọng, ý thích,
thị hiếu… này thường giống nhau đối với những người cùng quốc gia, cùng dân
tộc, cùng lứa tuổi, cùng ngành nghề, cùng hoàn cảnh xã hội, cùng tôn giáo, v.v…
Thầy cô dạy học muốn thành công cần phải
hiểu tâm lý học sinh theo từng lứa tuổi. Doanh nhân trên thương trường muốn
thành công cần phải hiểu tâm lý khách hàng. Nhà truyền giáo muốn cứu độ được
nhơn sanh cần phải hiểu tâm lý của
đối tượng cần được cứu độ, v.v…
Theo từ điển Merriam-Webster danh giá của Mỹ thì thuật ngữ psychology (tâm lý học) được
biết tới lần đầu tiên vào năm 1749,([2]) và ngành tâm lý học bắt đầu hình thành ở phương Tây vào
năm 1879. Nhưng từ xa xưa Thánh Nhân đã sớm rút ra các quy luật tâm lý trong
thuật đối nhân xử thế để khuyên dạy người đời. Tạm kể ([3]) như sau:
-
Những điều ta không muốn, thì đừng làm cho kẻ khác. (Khổng Tử, Luận Ngữ 4:15: Kỷ sở bất dục
vật thi ư nhân.)
- Lời
đáng tin không hoa mỹ. Lời hoa mỹ không đáng tin. (Lão
Tử, Đạo Đức Kinh 81:1: Tín ngôn bất mỹ. Mỹ ngôn bất tín.)
- Kẻ
có mặt người, hay nịnh hót thì khi vắng mặt người, tất hay chê bai. (Trang
Tử)
- Kẻ
tiểu nhân, ta nên tránh, nhưng cũng không nên ruồng rẫy mà sinh ra thù hằn.
(Hàm Quang)
- Nhã
quá, hóa ra dễ bị lờn. Nghiêm quá thì không ai thân. (Gia
Ngữ)
- Nói
chuyện, chớ châm chọc để người ta buốt. Nói đùa, chớ cạnh khóe để người ta đau.
-
Nước trong quá thường không có cá. Người xét nét quá thì không có bạn.
-
Phàm làm việc chi, nên giữ lại chút nhơn tình, hầu ngày sau dễ thấy mặt nhau.
-
Trong đạo xử thế, biết trách mình là người khôn; chỉ trách người là người vụng.
-
Trong đạo xử thế, dở nhất là không biết nhận thấy cái lỗi của mình.
- Với
kẻ lành, lấy lành mà ở; với kẻ chẳng lành, vẫn lấy lành mà ở. Với kẻ thành tín,
lấy thành tín mà ở; với kẻ không thành tín, vẫn lấy thành tín mà ở. (Lão
Tử, Đạo Đức Kinh, 49: Thiện giả ngô thiện chi. Bất thiện giả ngô
diệc thiện chi. . . . Tín giả ngô tín chi. Bất tín giả ngô diệc tín chi.)
Những lời dẫn trên quả là túi khôn muôn
đời của nhân loại. Qua đó, có thể thấy cốt
lõi của tâm lý chẳng qua cũng chỉ là một chữ tâm. Thật vậy, tâm lý chính là cái lý của con tim, của tấm lòng.
Nếu biết giữ nguyên tắc kỷ sở bất dục vật
thi ư nhân (những điều ta không muốn, thì đừng làm cho kẻ khác) và tinh thần vong
kỷ vị tha (quên mình, vì người) với tất cả tâm thành trong đối nhân xử thế
thì lo gì không thu phục được nhân tâm. Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo dạy:
* Tất
cả mọi hoạt động của mình phải nhắm vào mục đích tối thượng của đạo lý. Từ tư
tưởng, ý nghĩ, lời nói, cử chỉ đến việc làm phải được sự chân thành, tỏ
nỗi cảm tình và thố lộ tình thương với tất cả mọi người, mọi
trường hợp.
Việc
gì trước khi muốn nói hoặc làm cho ai, nên đặt mình trong hoàn
cảnh người ấy để xem mình có chịu được những đối xử như vậy hay
không. Nếu được thì làm, không được thì đừng. Đó là tự mình kiểm soát hành động
của mình đó, cũng là khuôn mẫu đạo lý Nho Giáo un đúc cho mình đó.
Hằng
ngày mình thường ước mong kẻ khác giúp đỡ
phương tiện sinh kế, nâng đỡ con cái học hành, để lời dịu ngọt đối xử với mình,
cùng mong Thượng Đế tha thứ tội lỗi và ban ơn cho mình. Hãy lấy
tất cả sự ấy ban bố và đối xử với kẻ khác.([4])
* Tập
thể tài, tâm, tuổi, chẳng đồng
Thanh
niên, lãnh đạo, thiểu đa công
Trẻ
tuy hăng hái, non kinh nghiệm
Già
dẫu giỏi giang, kém nhiệt nồng
Trẻ hãy
cảm thông già lẩm cẩm
Già đừng
cố chấp trẻ chưa thông
Hỗ
tương già trẻ nương nhau tiến
Đạo
quý ở nơi một tấm lòng.([5])
Do tính chất đa dạng và phức tạp của đời
sống con người nên tâm lý học được chia ra làm khá nhiều lĩnh vực nghiên cứu
như: tâm lý học nhận thức, tâm lý học so sánh, tâm lý học phát triển, tâm lý
học xã hội, tâm lý học nghệ thuật, tâm lý học sáng tạo, tâm lý học lao động,
tâm lý học trị liệu, tâm lý học tư vấn, tâm lý học kinh tế, v.v…
Đặc biệt, tâm lý học ứng dụng là ngành áp dụng các công trình nghiên cứu về
các quy luật trong tâm lý học vào các lĩnh vực như quản lý kinh doanh, thiết kế
sản phẩm, lao động, công sở, trường học, sức khỏe, dinh dưỡng, v.v…
2.
TÂM LÝ HỌC ỨNG DỤNG TRONG TU HỌC, HÀNH ĐẠO
Trong Lịch
Trình Hành Đạo ban cho nhân viên Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo
Việt Nam vào ngày 15-4 Bính Ngọ (03-6-1966), Đức Đại Tiên Lê Văn Duyệt dạy
người giáo sĩ phải hiểu tâm lý
học, luận lý học để tiến thủ.([6]) Đây là yêu cầu đặt ra cho giáo sĩ nhưng những ai có tâm
nguyện nhận lấy sứ mạng truyền giáo Cao Đài cũng đều phải tự rèn luyện theo yêu
cầu được Đức Lê Đại Tiên đặt ra.
Lời dạy
của các Đấng thiêng liêng trong Tam Kỳ Phổ Độ là một kho tàng minh triết về tâm
lý học để chúng ta có thể ứng dụng vào nhiều mặt tu học và hành đạo
của bản thân.
Tâm
lý người tu
Dân gian có câu: Sống lâu lên lão làng. Sau một thời gian tu học và hành đạo, người
tu có thể được tập thể tín nhiệm giao phó cho các chức vụ hay trách vụ trong
tập thể. Điều này đôi khi làm cho người tu có tâm lý tự mãn rồi trở nên dể
duôi, không chuyên cần tu học, rèn luyện bản thân như thuở ban đầu nữa. Biết rằng người tu thường hay vấp phải tâm lý
này nên Đức Đại Tiên Lê Văn Duyệt
khuyên dạy:
Dù đã
bước được bao xa nhưng cứ tưởng như là mới khởi hành.([7])
Đó là
điều mà người tu nên ghi nhớ để không bị lâm vấp; phải luôn thận trọng tự kiểm
soát mình từng giờ, từng phút, từng sát na.
Tâm
lý nhơn sự
Đức Mẹ dạy:
Về
phần tâm lý nhơn sự, con ôi, tránh làm sao khỏi! Vì các con mở
cửa lúc bình minh, thì trước thềm đã có thị phi. Mở cửa sau lúc bình minh vẫn
có thị phi ở ngõ sau. Cõi thế gian nầy là vậy. Phương chi, thời kỳ hỗn loạn
điên nguy mà các con muốn mỗi mỗi đều toàn hảo toàn chân cũng khó mà được đó
các con.([8])
Hiểu được điều này thì người tu cứ cố
gắng hết sức mình để hoàn thiện hóa bản thân và chu toàn phận sự, đừng để cho
những tiếng dư luận thị phi làm cho mình phải chồn chân thối bước hoặc dao động
tâm tu, hoặc gây mất tình liên giao hòa ái giữa người và người.
Đức Giáo Tông Đại Đạo dạy:
Tiếng chỉ trích chê bai xấu
tốt
Lời phê bình một một, hai hai
Cũng đều gác bỏ ngoài tai
Để lòng an ổn dạn dày quả công.([9])
Đức Tiếp Pháp Trương Văn Tràng và Đức
Nguyễn Trung Hậu để lời nhận xét về việc hành đạo trong các thánh thất như sau:
(K)hi
vui khi mừng thì khoan dung, tha thứ mọi lỗi lầm xằng bậy của người cộng sự. Khi
thương khi mến thì dầu vuông dài, méo xéo, cũng lấy làm tròn. Khi buồn phiền,
tức giận thì việc phải cũng cho là trái, việc trắng cũng cho là đen.([10])
Một
chức việc hoặc một tín hữu ở một thánh thất, mặc dầu có sự phân công rành mạch,
biên bản ghi chép hẳn hòi, nhưng khi vui thì siêng đến chùa thực hành công quả,
lúc buồn thì lại làm ngơ. Nếu được nhắc nhở năm ba phen, lại chạm lòng tự ái,
rồi ở nhà luôn, chẳng ai dám làm gì.
Một
người như vậy, nhiều người như vậy, thử hỏi một ban cai quản chỉ còn trơ trọi
một hai ba người, rồi làm việc với ai? Khi đã nóng lòng vì việc đạo, không nỡ
buông trôi, vì sợ e trên có lỗi với Thiêng Liêng, dưới lại thất lễ với đạo tâm
lân cận. Khi đến viếng thánh đường, vì đạo tâm và thể diện thúc đẩy, mặc dầu số
ít, cũng ráng hội họp quyết định thi hành. Than ôi! Khi thi hành, lại bị chỉ
trích là độc tài, độc đoán. Người làm thì khó, người ngó thì dễ, người chỉ
trích lại càng dễ hơn. Đó là tệ trạng ở một địa phương. Còn một địa phương khác,
lại có tệ trạng khác.
Đã là
một hội trưởng hoặc một chủ thánh thất – sự thật, trong đạo Cao Đài không có ai
là chủ thánh thất cả – tự xem của chùa là của riêng mình, muốn thâu thì thâu,
muốn xuất thì xuất, sổ sách không được phân minh. Con mắt đạo hữu rất tinh vi,
khi thấy thâu xuất không được phân minh, dại gì đem hành hương cúng chùa thêm
nữa cho họ xài. Do đó, thỉnh thoảng đưa đến ngân quỹ thánh thất càng ngày càng
kiệt quệ, mọi công việc bị đình trệ.
Còn
về nhân sự, theo luật tre tàn măng mọc, cha mẹ là đạo hữu, khi già phải chết,
còn lại đàn con là đồng nhi lễ sĩ, kế nghiệp đạo của mẹ cha. Ban cai quản là
linh hồn của thánh thất về mặt hành sự. Hễ lớp này liễu đạo, lớp kia kế tiếp.
Do đó cần được đào tạo và huấn luyện mầm non để có người giữ gìn và phát triển
đạo nghiệp. Không lẽ cha mẹ hoặc ban cai quản già yếu, qua đời hết, rồi mượn
người ngoài thế gian không hiểu gì hết vô lãnh đạo? Ban cai quản đương nhiên là
đạo hữu mầm non. Nếu trong lúc ấy, người có thẩm quyền trong ngôi thánh đường
vì sở thích riêng tư, vì chấp nê, vì cũ kỹ, vì dốt nát, có những tư tưởng đoạn
tuyệt mầm non, hỏi vậy sự lãnh đạo địa phương sau này lấy ai kế tiếp? Một người
có thể lột vỏ ngàn năm mà bo bo gìn giữ được chăng? Hễ có sự quy tụ mầm non để
giáo dục thì bị chê trách là con nít con nôi, rần rần la ó, mất thanh tịnh chùa
chiền, hoặc ban cai quản là nhỏ tuổi, trẻ con mà làm được những gì?
Than
ôi! Đó là hai điển hình đã thấy trong cửa đạo.([11])
Tâm
lý tập thể
Con người luôn có khuynh hướng sống thành
cộng đồng, và tập thể có một ảnh hưởng rất lớn đến từng cá nhân trong cộng
đồng. Một khi đã tham gia vào cộng đồng, mọi người đều phải sống và hành động
theo những quy định chung của tập thể chứ không thể làm theo ý thích riêng của
cá nhân. Điều này rất có lợi cho người tu khi được cùng tu học và hành đạo
trong một tập thể, cùng nâng đỡ dắt dìu nhau trên bước đường tu.
Đức Bác Nhã Thiền Sư dạy:
Lời
tục thường ví rằng cơm có canh, tu hành có bạn. Khi mới bước chơn chập chững
vào cửa đạo phải nhờ những bạn đi trước, nương bước theo sau, vịn níu cùng nhau
lâu ngày mới vững.
. . .
(G)ần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Hễ gần đời say mê bạc bài nhậu hút, sớm
muộn gì cũng hư hỏng người ra; gần bạn tác đạo đức tu hành sẽ trở nên hiền nhân
thánh thiện. Bởi vì mình còn mang xác phàm tánh tục chưa phải là thánh nhơn. Hễ
tánh tục thì dễ bị tạp niệm.
. . .
Vì vậy nên phải tạo cho mình một hoàn cảnh tốt để tánh nhiễm theo việc tốt. Mấy
ai kiểm soát được lòng. Vì vậy cho nên hãy sớm đặt mình trong khuôn viên mẫu
mực nề nếp đạo đức, dẫu có lỡ nghiêng bên nào cũng có bạn đạo hạnh nhân từ nâng
đỡ cho nhau.([12])
Có thể nêu lên một ví dụ cụ thể về ích
lợi của việc tu hành trong tập thể: Khi ở nhà một mình, chúng ta thật khó giữ
đúng tứ thời công phu tu tịnh. Nhưng khi gia nhập tịnh trường trong các khóa tu
tập thể, chúng ta có thể dễ dàng thực hiện điều này. Giờ Tý thật buồn ngủ,
nhưng khi nghe kẻng đánh báo hiệu giờ công phu, mọi người đều ngồi bật dậy,
chẳng lẽ mình tiếp tục nằm ngủ, không dậy đi công phu?
Tâm
lý trị liệu
Con người thường hay than thở bi quan mỗi
khi gặp cảnh không may trong cuộc sống như tai nạn, bệnh tật, nghèo khổ, v.v...
hoặc than trời trách đất mỗi khi thấy cảnh bất công: Kẻ ác sống giàu sang, sung
sướng, còn người hiền lại chịu cảnh nghèo hèn, đau khổ. Nếu mọi người hiểu được
rằng luật Tạo Hóa công bình, thưởng phạt không sai chạy một mảy hào, mọi việc
tốt xấu trên thế gian đều do luật nhân quả quyết định, thì sẽ không còn bi quan,
chán nản mà cố gắng tích cực làm điều thiện để giải trừ bớt những nghiệp quả
xấu đã gây ra từ tiền kiếp hay trong hiện kiếp.
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:
Có
người hiện kiếp đương hưởng phú quý vinh hoa, tưởng rằng do tài năng của mình
tạo ra hoặc của phụ ấm để lại, mà không hiểu cái nhân của nó. Thế nên, người
đời thường mỉa mai rằng tại sao những kẻ tham tàn độc ác
vẫn giàu có phây phây, còn người chí công tu niệm hành đạo suốt đời lại bị nạn
nọ tai kia, khó nghèo theo đuổi; như thế, tu cũng vậy, không tu cũng vậy.
Chư
đạo hữu ý thức được điều chót này nên lấy đó làm phương tiện để an ủi, vỗ về,
nhắc nhở, khuyến khích hoặc giúp đỡ những người bạn đạo trong cảnh ấy đang trả
quả, để ngăn chặn sự sa sút đức tin, phế đạo rồi bỏ lỡ cơ hội được trả bớt
nghiệp tiền khiên quá nặng.([13])
Do đó, khi một người đang bị bệnh nặng,
nếu không hiểu luật nhân quả thì than thở bi quan khiến cho bệnh càng thêm
nặng. Người hiểu luật nhân quả thì vui lòng trả nghiệp, để lòng an định cầu
nguyện và tích cực làm công quả hoặc nhờ thân nhân làm công quả giúp thì bệnh
tình có thể mau thuyên giảm.
Tâm
lý bệnh nhân
Các cơ sở đạo hiện nay thường có phòng
khám bệnh từ thiện, khám và phát thuốc miễn phí cho dân nghèo. Đây là một cơ
hội để người tu lập công bồi đức và cứu độ nhơn sanh. Tuy nhiên, để việc làm
này đạt hiệu quả, Đức Hiển Thế Đạo Nhơn nhắc nhở người làm phước thiện như sau:
Các
em đừng quan niệm phước thiện là cho không. Sự cho đó về âm chất thì quý lắm,
nhưng về phương diện tài chánh và tâm lý bệnh nhân còn vấp phải khiếm khuyết. Nếu cho
không, dầu chánh phủ cũng không đủ tiền mà cho, huống hồ một ban cai quản nghèo
nàn. (. . .)
Việc
thuốc men cũng cần có thâu tiền lại phân nửa với giá thị
trường, hoặc cho không đối với những người khổ sở cô thân, thiếu
phương tiện. Còn khiếm khuyết về mặt tâm lý của bệnh nhân
là khi món thuốc được cho, họ nghĩ rằng thuốc xấu hoặc ít tiền, không hay bằng
thứ đắt tiền. Từ tư tưởng đó ảnh hưởng đến sự trị bệnh chậm hết. Thà thâu tiền
thuốc uyển chuyển tùy mỗi trường hợp, nhứt là gây được niềm tin cho bệnh nhân
thì bệnh mới mau hết.([14])
Đôi khi bệnh được
chữa khỏi không phải nhờ thuốc mà nhờ vào đức tin hay tâm lý. Trước đây, có lần
dịch bệnh xảy ra tại một xã nghèo thuộc huyện Cần Giờ làm cho dân tình địa
phương hết sức lo lắng. Một đoàn cứu trợ y tế của đạo Cao Đài đã đến với người
dân vùng này. Vì số lượng bệnh nhân đông quá mà thuốc điều trị mang theo có
giới hạn nên chỉ sau một lúc, thuốc đã hết sạch, chỉ còn lại toàn là thuốc bổ.
Biết làm sao bây giờ khi số lượng bệnh nhân đến xin chữa bệnh vẫn còn quá đông?
Các bác sĩ đã cầu nguyện và chỉ phát cho bệnh nhân số thuốc bổ còn lại. Kỳ diệu
thay, theo phản hồi sau đó, các bệnh nhân uống thuốc bổ cũng được hết bệnh.
Phải chăng bệnh nhân được chữa khỏi do yếu tố tâm lý và cũng do mầu nhiệm hộ
trì của Ơn Trên?
Tâm
lý nhơn sanh
Người đời thường có tâm lý ham sống sợ
chết. Nhưng thế gian này chưa từng có một ai tránh được luật vô thường. Do đó,
người tu có nhiệm vụ chuyển tâm lý này thành ý thức: Cần phải sống sao cho xứng
đáng một kiếp làm người để được sống
trong thể chết chứ không phải đã và đang
chết trong xác thể còn sống. Giảng giải về lý lẽ này, Đức Vạn Hạnh Thiền Sư
dạy:
Đã
biết thế, nghĩa là không ai tránh khỏi luật sanh tử trong ý nghĩa sanh trưởng
thu tàng, nhưng ai ai cũng sợ lẽ tử, ham chuộng
lẽ sanh.
Thử
hỏi, dầu có hoảng hốt kinh sợ cách mấy đi nữa, nhưng có ai thoát khỏi cái định
luật ấy đâu. Tuy ước định rằng đời người một kiếp trăm năm chỉ có một lần,
nhưng có mấy ai hiểu được và suy nghĩ đến việc sống chết
lai vãng với con người không biết bao nhiêu lần trong một kiếp sống. Nhân thế
chỉ biết rằng con người chỉ có một lần chết là lần dứt hơi thở, ngũ tạng lục
phủ tứ chi ngừng hoạt động, nhưng nào có mấy ai để ý đến mỗi ngày hoặc mỗi đêm
con người đều bị chết ít nhất là một lần. Cái chết trước tiên, như đã nói phần
trên, là cái chết dài hạn. Cái chết trong giấc ngủ là cái chết trung hạn. Còn
biết bao nhiêu cái chết khác từng giờ từng phút từng giây của các tế bào trong
cơ thể của con người. Sự sanh tử tử sanh luôn luôn đến rồi đi, đi rồi lại đến,
sanh rồi diệt, diệt lại nhường cho sự sanh khác nữa. Đó chỉ nói ở phần nhục thể
của con người mà thôi.
Đã là
con người mang phần nhục thể, là một trong những hằng hà sa số sinh vật. Việc
ấy đâu có chi rằng quan trọng mà phải
lo âu sợ hãi, lo tính việc trăm năm. Điều tối quan
trọng là sự sanh tử về mặt tinh thần hoặc
tâm linh, hoặc linh hồn hay chơn như bản thể cũng
thế. Sự sanh tử của phần này mới là quan hệ
cho kiếp nhân sinh khi chơn linh ẩn tàng vào phần chủ thể.
(. .
.)
Nếu
mỗi người hằng giữ cho ngọn tâm đăng hằng sáng tỏ mãi mãi, thì ngôi Tiên vị
Phật đã sẵn dành một bên cho họ. Ngọn tâm đăng ấy trường tồn vĩnh cửu trong
hiện kiếp cũng như các kiếp bất sanh bất diệt. Đó mới gọi rằng sống
trong thể chết. Còn trái lại, nếu con người không biết sứ mạng vi
nhân, tưởng rằng một kiếp sống hiện tại, chạy đôn chạy đáo, làm đủ mọi cách để
gầy dựng sự nghiệp trăm năm cho mình, cho con cháu trong hậu thế; trong sự gầy
dựng sự nghiệp vật chất đó, đã vùi lấp chơn linh thiên tánh trong mê muội tham
dục, phú quý đỉnh chung, danh lợi, tình tiền, làm ngọn tâm đăng bị che lấp
trong muôn thuở. Đó là con người đã và đang chết trong
xác thể còn sống.([15])
Tâm lý tiến thủ
Nhắc lại, tâm lý tiến thủ là tâm lý quyết
thắng, không chủ bại. Dù gặp trở ngại khó khăn tới đâu cũng không nản chí bỏ
cuộc. Mà tu hành xưa nay vốn không phải
dễ. Sau khi đắc đạo, Ngài Khưu Trường Xuân kể lại quá trình tu hành khổ hạnh của
mình như sau:
Phải chịu đựng đói khát, nhẫn nhịn sỉ nhục, áo
không kín thân, cơm không đầy miệng, ngày hai bữa không trọn, đêm khó
ngủ một giấc, chẳng ngày nào mà không bị người ghét mắng, biết bao
lần bị người lăng nhục. Nói ra xót lòng, nghe cũng lạnh mật.([16])
Mang tâm lý tiến thủ, người tu không thể
tu tài tử, vui thì nhập cuộc, buồn thi dang ra. Đã hiểu được lẽ vô thường trong
cuộc sống, biết rõ đời người ngắn ngủi, thì người tu hành không thể trì huỡn
hay chờ đợi. Cần phải cố gắng hành đạo, lập công bồi đức và tu luyện càng sớm
càng tốt, để trễ tràng e sẽ không còn cơ hội, thời gian và sức khỏe.
Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn dạy:
Muốn
song tu tánh mạng, không đợi thời gian tuổi tác, càng sớm bước càng hay, càng
sớm bước càng đủ điều kiện để giải quyết bổn phận của chính mình trên con đường
giải thoát.([17])
Không
phải chỉ có lúc thuận tiện mới tu, còn khi gặp hoàn cảnh khó khăn thì không tu.
Mang tâm lý tiến thủ, người
tu cần biết tùy doi nương vịnh để
tiến bộ trên đường đạo.
Đức Giáo
Tông Đại Đạo dạy:
* Lúc thuận thời thì động, nghịch thời thì
tịnh. Tịnh đó cho nội lực thần khí được thông linh mẫn tuệ.([18])
* Đạo pháp trường lưu. Hành giả quyết tâm giác
ngộ xuôi thuyền về bến giác thì ý chí phải kiên cường, biết lúc nên đi thì đi,
lúc nên đậu thì đậu. Đêm trăng sáng dầu nước ngược cũng có thể dong thuyền;
ngày mà âm u dầu xuôi dòng cũng nên cắm sào ngơi nghỉ. Đó là minh triết để bảo
thân.([19])
Đức Như
Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn dạy:
Người biết đạo, biết tu phải nương theo cái
thuận thời thiên lý mà nâng niu tâm đức của mình cho càng ngày càng thêm mẫn
tuệ, trau giồi đạo hạnh cho thuần thành thánh thiện, phước huệ song tu. Người
tu chỉ có bấy nhiêu thôi.([20])
Nếu biết
thuận thời thiên lý để trau luyện thì người tu sẽ đạt thành kết quả, không uổng
phí một kiếp được làm người, không uổng phí cơ hội có một không hai được hạnh
ngộ Kỳ Ba đại ân xá của Đức Đại Từ Phụ.
Đức Đông
Phương Chưởng Quản dạy:
Nên cố
gắng cho đạt đạo giữa thời tận độ này. Nếu không đạt đạo thì đến thất ức niên
mới có cơ hội trở về quê cũ.([21])
Trên đây
chỉ mới trích lại một ít lời dạy của các Đấng thiêng liêng trong Tam Kỳ Phổ Độ
về khía cạnh tâm lý để người tu ứng dụng vào cuộc sống tu học và hành đạo của
bản thân. Chắc chắn rằng hãy còn
thêm nhiều khía cạnh khác nữa để người tu học hỏi và ứng dụng cho bản thân
trong sứ mạng tự độ độ tha.
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo
14-9
Kỷ Hợi (12-10-2019)
DIỆU NGUYÊN
([6]) tiến thủ 進取:
Tiến tới để nắm lấy (thủ) cái tốt đẹp
mong muốn. Vậy tâm lý tiến thủ là tâm lý quyết thắng, không chủ bại. Dù gặp trở
ngại khó khăn tới đâu cũng không nản chí bỏ cuộc.
([14])
Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 08-7 Kỷ Dậu (20-8-1969).
Một ví dụ để tham khảo về tâm
lý của người nhận quà từ thiện: Nhiều năm qua, một số quán cơm từ thiện chủ
trương “bán” cho người nghèo một bữa cơm ăn no có đủ cả món canh, món xào, món
mặn với giá nhất định là hai ngàn đồng. Các quán này giải thích: Họ có thể biếu
bữa cơm miễn phí, nhưng lại không muốn người nhận tủi thân vì mang mặc cảm đi
xin ăn; do đó, các quán sành tâm lý đã chọn cách “bán” cơm với giá tượng trưng.