Thứ Hai, 14 tháng 12, 2020

10. TÂM LÝ HỌC ỨNG DỤNG VÀO ĐỜI SỐNG TU HÀNH / Diệu Nguyên

 


10. TÂM LÝ HỌC ỨNG DỤNG

VÀO ĐỜI SỐNG TU HÀNH

1. ĐIỂM CỐT LÕI CỦA TÂM LÝ HỌC

Ở đời, muốn thành công trong giao tế hay trong công việc, con người cần phải biết thuật đắc nhân tâm. Đắc nhân tâm là thu phục được lòng người. Muốn thu phục được lòng người phải biết lòng người nghĩ gì, yêu thích điều gì, chán ghét cái gì, v.v… để đối xử cho phù hợp. Nói cách khác, muốn đắc nhân tâm, cần phải hiểu tâm lý con người.

Tâm lý là nguyện vọng, ý thích, thị hiếu, v.v… riêng của mỗi người, trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó.([1]) Nói là riêng, nhưng thật sự những nguyện vọng, ý thích, thị hiếu… này thường giống nhau đối với những người cùng quốc gia, cùng dân tộc, cùng lứa tuổi, cùng ngành nghề, cùng hoàn cảnh xã hội, cùng tôn giáo, v.v…

Thầy cô dạy học muốn thành công cần phải hiểu tâm lý học sinh theo từng lứa tuổi. Doanh nhân trên thương trường muốn thành công cần phải hiểu tâm lý khách hàng. Nhà truyền giáo muốn cứu độ được nhơn sanh cần phải hiểu tâm lý của đối tượng cần được cứu độ, v.v…

Theo từ điển Merriam-Webster danh giá của Mỹ thì thuật ngữ psychology (tâm lý học) được biết tới lần đầu tiên vào năm 1749,([2]) và ngành tâm lý học bắt đầu hình thành ở phương Tây vào năm 1879. Nhưng từ xa xưa Thánh Nhân đã sớm rút ra các quy luật tâm lý trong thuật đối nhân xử thế để khuyên dạy người đời. Tạm kể ([3]) như sau:

- Những điều ta không muốn, thì đừng làm cho kẻ khác. (Khổng Tử, Luận Ngữ 4:15: Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân.)

- Lời đáng tin không hoa mỹ. Lời hoa mỹ không đáng tin. (Lão Tử, Đạo Đức Kinh 81:1: Tín ngôn bất mỹ. Mỹ ngôn bất tín.)

- Kẻ có mặt người, hay nịnh hót thì khi vắng mặt người, tất hay chê bai. (Trang Tử)

- Kẻ tiểu nhân, ta nên tránh, nhưng cũng không nên ruồng rẫy mà sinh ra thù hằn. (Hàm Quang)

- Nhã quá, hóa ra dễ bị lờn. Nghiêm quá thì không ai thân. (Gia Ngữ)

- Nói chuyện, chớ châm chọc để người ta buốt. Nói đùa, chớ cạnh khóe để người ta đau.

- Nước trong quá thường không có cá. Người xét nét quá thì không có bạn.

- Phàm làm việc chi, nên giữ lại chút nhơn tình, hầu ngày sau dễ thấy mặt nhau.

- Trong đạo xử thế, biết trách mình là người khôn; chỉ trách người là người vụng.

- Trong đạo xử thế, dở nhất là không biết nhận thấy cái lỗi của mình.

- Với kẻ lành, lấy lành mà ở; với kẻ chẳng lành, vẫn lấy lành mà ở. Với kẻ thành tín, lấy thành tín mà ở; với kẻ không thành tín, vẫn lấy thành tín mà ở. (Lão Tử, Đạo Đức Kinh, 49: Thiện giả ngô thiện chi. Bất thiện giả ngô diệc thiện chi. . . . Tín giả ngô tín chi. Bất tín giả ngô diệc tín chi.)

Những lời dẫn trên quả là túi khôn muôn đời của nhân loại. Qua đó, có thể thấy cốt lõi của tâm lý chẳng qua cũng chỉ là một chữ tâm. Thật vậy, tâm lý chính là cái lý của con tim, của tấm lòng. Nếu biết giữ nguyên tắc kỷ sở bất dục vật thi ư nhân (những điều ta không muốn, thì đừng làm cho kẻ khác) và tinh thần vong kỷ vị tha (quên mình, vì người) với tất cả tâm thành trong đối nhân xử thế thì lo gì không thu phục được nhân tâm. Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo dạy:

* Tất cả mọi hoạt động của mình phải nhắm vào mục đích tối thượng của đạo lý. Từ tư tưởng, ý nghĩ, lời nói, cử chỉ đến việc làm phải được sự chân thành, tỏ nỗi cảm tình và thố lộ tình thương với tất cả mọi người, mọi trường hợp.

Việc gì trước khi muốn nói hoặc làm cho ai, nên đt mình trong hoàn cảnh người ấy để xem mình có chịu được những đối xử như vậy hay không. Nếu được thì làm, không được thì đừng. Đó là tự mình kiểm soát hành động của mình đó, cũng là khuôn mẫu đạo lý Nho Giáo un đúc cho mình đó.

Hằng ngày mình thường ước mong kẻ khác gp đỡ phương tiện sinh kế, nâng đỡ con cái học hành, để lời dịu ngọt đối xử với mình, cùng mong Thượng Đế tha thứ tội lỗi và ban ơn cho mình. y lấy tất cả sy ban bố và đối xử với kẻ khác.([4])

* Tập thể tài, tâm, tuổi, chẳng đồng

Thanh niên, lãnh đạo, thiểu đa công

Trẻ tuy hăng hái, non kinh nghiệm

Già dẫu giỏi giang, kém nhiệt nồng

Trẻ y cảm thông già lẩm cẩm

Già đừng cố chấp trẻ chưa thông

Hỗ tương già trẻ nương nhau tiến

Đạo quý ở nơi mt tấm lòng.([5])

Do tính chất đa dạng và phức tạp của đời sống con người nên tâm lý học được chia ra làm khá nhiều lĩnh vực nghiên cứu như: tâm lý học nhận thức, tâm lý học so sánh, tâm lý học phát triển, tâm lý học xã hội, tâm lý học nghệ thuật, tâm lý học sáng tạo, tâm lý học lao động, tâm lý học trị liệu, tâm lý học tư vấn, tâm lý học kinh tế, v.v…

Đặc biệt, tâm lý học ứng dụng là ngành áp dụng các công trình nghiên cứu về các quy luật trong tâm lý học vào các lĩnh vực như quản lý kinh doanh, thiết kế sản phẩm, lao động, công sở, trường học, sức khỏe, dinh dưỡng, v.v…

2. TÂM LÝ HỌC ỨNG DỤNG TRONG TU HỌC, HÀNH ĐẠO

Trong Lịch Trình Hành Đạo ban cho nhân viên Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam vào ngày 15-4 Bính Ngọ (03-6-1966), Đức Đại Tiên Lê Văn Duyệt dạy người giáo sĩ phải hiểu tâm lý hc, luận lý học để tiến thủ.([6]) Đây là yêu cầu đặt ra cho giáo sĩ nhưng những ai có tâm nguyện nhận lấy sứ mạng truyền giáo Cao Đài cũng đều phải tự rèn luyện theo yêu cầu được Đức Lê Đại Tiên đặt ra.

Lời dạy của các Đấng thiêng liêng trong Tam Kỳ Phổ Độ là một kho tàng minh triết về tâm lý học để chúng ta có thể ứng dụng vào nhiều mặt tu học và hành đạo của bản thân.

Tâm lý người tu

Dân gian có câu: Sống lâu lên lão làng. Sau một thời gian tu học và hành đạo, người tu có thể được tập thể tín nhiệm giao phó cho các chức vụ hay trách vụ trong tập thể. Điều này đôi khi làm cho người tu có tâm lý tự mãn rồi trở nên dể duôi, không chuyên cần tu học, rèn luyện bản thân như thuở ban đầu nữa. Biết rằng người tu thường hay vấp phải tâm lý này nên Đức Đại Tiên Lê Văn Duyệt khuyên dạy:

Dù đã bước được bao xa nhưng cứ tưởng như là mới khởi hành.([7])

Đó là điều mà người tu nên ghi nhớ để không bị lâm vấp; phải luôn thận trọng tự kiểm soát mình từng giờ, từng phút, từng sát na.

Tâm lý nhơn sự

Đức Mẹ dạy:

Về phần tâm lý nhơn sự, con ôi, tránh làm sao khỏi! Vì các con mở cửa lúc bình minh, thì trước thềm đã có thị phi. Mở cửa sau lúc bình minh vẫn có thị phi ở ngõ sau. Cõi thế gian nầy là vậy. Phương chi, thời kỳ hỗn loạn điên nguy mà các con muốn mỗi mỗi đều toàn hảo toàn chân cũng khó mà được đó các con.([8])

Hiểu được điều này thì người tu cứ cố gắng hết sức mình để hoàn thiện hóa bản thân và chu toàn phận sự, đừng để cho những tiếng dư luận thị phi làm cho mình phải chồn chân thối bước hoặc dao động tâm tu, hoặc gây mất tình liên giao hòa ái giữa người và người.

Đức Giáo Tông Đại Đạo dạy:

Tiếng chỉ trích chê bai xấu tốt

Lời phê bình một một, hai hai

Cũng đều gác bỏ ngoài tai

Để lòng an ổn dạn dày quả công.([9])

Đức Tiếp Pháp Trương Văn Tràng và Đức Nguyễn Trung Hậu để lời nhận xét về việc hành đạo trong các thánh thất như sau:

(K)hi vui khi mừng thì khoan dung, tha thứ mọi lỗi lầm xằng bậy của người cộng sự. Khi thương khi mến thì dầu vuông dài, méo xéo, cũng lấy làm tròn. Khi buồn phiền, tức giận thì việc phải cũng cho là trái, việc trắng cũng cho là đen.([10])

Một chức việc hoặc một tín hữu ở một thánh thất, mặc dầu có sự phân công rành mạch, biên bản ghi chép hẳn hòi, nhưng khi vui thì siêng đến chùa thực hành công quả, lúc buồn thì lại làm ngơ. Nếu được nhắc nhở năm ba phen, lại chạm lòng tự ái, rồi ở nhà luôn, chẳng ai dám làm gì.

Một người như vậy, nhiều người như vậy, thử hỏi một ban cai quản chỉ còn trơ trọi một hai ba người, rồi làm việc với ai? Khi đã nóng lòng vì việc đạo, không nỡ buông trôi, vì sợ e trên có lỗi với Thiêng Liêng, dưới lại thất lễ với đạo tâm lân cận. Khi đến viếng thánh đường, vì đạo tâm và thể diện thúc đẩy, mặc dầu số ít, cũng ráng hội họp quyết định thi hành. Than ôi! Khi thi hành, lại bị chỉ trích là độc tài, độc đoán. Người làm thì khó, người ngó thì dễ, người chỉ trích lại càng dễ hơn. Đó là tệ trạng ở một địa phương. Còn một địa phương khác, lại có tệ trạng khác.

Đã là một hội trưởng hoặc một chủ thánh thất – sự thật, trong đạo Cao Đài không có ai là chủ thánh thất cả – tự xem của chùa là của riêng mình, muốn thâu thì thâu, muốn xuất thì xuất, sổ sách không được phân minh. Con mắt đạo hữu rất tinh vi, khi thấy thâu xuất không được phân minh, dại gì đem hành hương cúng chùa thêm nữa cho họ xài. Do đó, thỉnh thoảng đưa đến ngân quỹ thánh thất càng ngày càng kiệt quệ, mọi công việc bị đình trệ.

Còn về nhân sự, theo luật tre tàn măng mọc, cha mẹ là đạo hữu, khi già phải chết, còn lại đàn con là đồng nhi lễ sĩ, kế nghiệp đạo của mẹ cha. Ban cai quản là linh hồn của thánh thất về mặt hành sự. Hễ lớp này liễu đạo, lớp kia kế tiếp. Do đó cần được đào tạo và huấn luyện mầm non để có người giữ gìn và phát triển đạo nghiệp. Không lẽ cha mẹ hoặc ban cai quản già yếu, qua đời hết, rồi mượn người ngoài thế gian không hiểu gì hết vô lãnh đạo? Ban cai quản đương nhiên là đạo hữu mầm non. Nếu trong lúc ấy, người có thẩm quyền trong ngôi thánh đường vì sở thích riêng tư, vì chấp nê, vì cũ kỹ, vì dốt nát, có những tư tưởng đoạn tuyệt mầm non, hỏi vậy sự lãnh đạo địa phương sau này lấy ai kế tiếp? Một người có thể lột vỏ ngàn năm mà bo bo gìn giữ được chăng? Hễ có sự quy tụ mầm non để giáo dục thì bị chê trách là con nít con nôi, rần rần la ó, mất thanh tịnh chùa chiền, hoặc ban cai quản là nhỏ tuổi, trẻ con mà làm được những gì?

Than ôi! Đó là hai điển hình đã thấy trong cửa đạo.([11])

Tâm lý tập thể

Con người luôn có khuynh hướng sống thành cộng đồng, và tập thể có một ảnh hưởng rất lớn đến từng cá nhân trong cộng đồng. Một khi đã tham gia vào cộng đồng, mọi người đều phải sống và hành động theo những quy định chung của tập thể chứ không thể làm theo ý thích riêng của cá nhân. Điều này rất có lợi cho người tu khi được cùng tu học và hành đạo trong một tập thể, cùng nâng đỡ dắt dìu nhau trên bước đường tu.

Đức Bác Nhã Thiền Sư dạy:

Lời tục thường ví rằng cơm có canh, tu hành có bạn. Khi mới bước chơn chập chững vào cửa đạo phải nhờ những bạn đi trước, nương bước theo sau, vịn níu cùng nhau lâu ngày mới vững.

. . . (G)ần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Hễ gần đời say mê bạc bài nhậu hút, sớm muộn gì cũng hư hỏng người ra; gần bạn tác đạo đức tu hành sẽ trở nên hiền nhân thánh thiện. Bởi vì mình còn mang xác phàm tánh tục chưa phải là thánh nhơn. Hễ tánh tục thì dễ bị tạp niệm.

. . . Vì vậy nên phải tạo cho mình một hoàn cảnh tốt để tánh nhiễm theo việc tốt. Mấy ai kiểm soát được lòng. Vì vậy cho nên hãy sớm đặt mình trong khuôn viên mẫu mực nề nếp đạo đức, dẫu có lỡ nghiêng bên nào cũng có bạn đạo hạnh nhân từ nâng đỡ cho nhau.([12])

Có thể nêu lên một ví dụ cụ thể về ích lợi của việc tu hành trong tập thể: Khi ở nhà một mình, chúng ta thật khó giữ đúng tứ thời công phu tu tịnh. Nhưng khi gia nhập tịnh trường trong các khóa tu tập thể, chúng ta có thể dễ dàng thực hiện điều này. Giờ Tý thật buồn ngủ, nhưng khi nghe kẻng đánh báo hiệu giờ công phu, mọi người đều ngồi bật dậy, chẳng lẽ mình tiếp tục nằm ngủ, không dậy đi công phu?

Tâm lý trị liệu

Con người thường hay than thở bi quan mỗi khi gặp cảnh không may trong cuộc sống như tai nạn, bệnh tật, nghèo khổ, v.v... hoặc than trời trách đất mỗi khi thấy cảnh bất công: Kẻ ác sống giàu sang, sung sướng, còn người hiền lại chịu cảnh nghèo hèn, đau khổ. Nếu mọi người hiểu được rằng luật Tạo Hóa công bình, thưởng phạt không sai chạy một mảy hào, mọi việc tốt xấu trên thế gian đều do luật nhân quả quyết định, thì sẽ không còn bi quan, chán nản mà cố gắng tích cực làm điều thiện để giải trừ bớt những nghiệp quả xấu đã gây ra từ tiền kiếp hay trong hiện kiếp.

Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:

Có người hiện kiếp đương hưởng phú quý vinh hoa, tưởng rằng do tài năng của mình tạo ra hoặc của phụ ấm để lại, mà không hiểu cái nhân của nó. Thế nên, người đời thường mỉa mai rằng tại sao những kẻ tham tàn độc ác vẫn giàu có phây phây, còn người chí công tu niệm hành đạo suốt đời lại bị nạn nọ tai kia, khó nghèo theo đuổi; như thế, tu cũng vậy, không tu cũng vậy.

Chư đạo hữu ý thức được điều chót này nên lấy đó làm phương tiện để an ủi, vỗ về, nhắc nhở, khuyến khích hoặc giúp đỡ những người bạn đạo trong cảnh ấy đang trả quả, để ngăn chặn sự sa sút đức tin, phế đạo rồi bỏ lỡ cơ hội được trả bớt nghiệp tiền khiên quá nặng.([13])

Do đó, khi một người đang bị bệnh nặng, nếu không hiểu luật nhân quả thì than thở bi quan khiến cho bệnh càng thêm nặng. Người hiểu luật nhân quả thì vui lòng trả nghiệp, để lòng an định cầu nguyện và tích cực làm công quả hoặc nhờ thân nhân làm công quả giúp thì bệnh tình có thể mau thuyên giảm.

Tâm lý bệnh nhân

Các cơ sở đạo hiện nay thường có phòng khám bệnh từ thiện, khám và phát thuốc miễn phí cho dân nghèo. Đây là một cơ hội để người tu lập công bồi đức và cứu độ nhơn sanh. Tuy nhiên, để việc làm này đạt hiệu quả, Đức Hiển Thế Đạo Nhơn nhắc nhở người làm phước thiện như sau:

Các em đừng quan niệm phước thiện là cho không. Sự cho đó về âm chất thì quý lắm, nhưng về phương diện tài chánh và tâm lý bnh nhân còn vấp phải khiếm khuyết. Nếu cho không, dầu chánh phủ cũng không đủ tiền mà cho, huống hồ một ban cai quản nghèo nàn. (. . .)

Việc thuốc men cũng cần có thâu tiền li phân nửa với giá thị trường, hoc cho không đối với những người khổ sở cô thân, thiếu phương tiện. Còn khiếm khuyết về mặt tâm lý của bnh nhân là khi món thuốc được cho, họ nghĩ rằng thuốc xấu hoặc ít tiền, không hay bằng thứ đắt tiền. Từ tư tưởng đó ảnh hưởng đến sự trị bệnh chậm hết. Thà thâu tiền thuốc uyển chuyển tùy mỗi trường hợp, nhứt là gây được niềm tin cho bệnh nhân thì bệnh mới mau hết.([14])

Đôi khi bệnh được chữa khỏi không phải nhờ thuốc mà nhờ vào đức tin hay tâm lý. Trước đây, có lần dịch bệnh xảy ra tại một xã nghèo thuộc huyện Cần Giờ làm cho dân tình địa phương hết sức lo lắng. Một đoàn cứu trợ y tế của đạo Cao Đài đã đến với người dân vùng này. Vì số lượng bệnh nhân đông quá mà thuốc điều trị mang theo có giới hạn nên chỉ sau một lúc, thuốc đã hết sạch, chỉ còn lại toàn là thuốc bổ. Biết làm sao bây giờ khi số lượng bệnh nhân đến xin chữa bệnh vẫn còn quá đông? Các bác sĩ đã cầu nguyện và chỉ phát cho bệnh nhân số thuốc bổ còn lại. Kỳ diệu thay, theo phản hồi sau đó, các bệnh nhân uống thuốc bổ cũng được hết bệnh. Phải chăng bệnh nhân được chữa khỏi do yếu tố tâm lý và cũng do mầu nhiệm hộ trì của Ơn Trên?

Tâm lý nhơn sanh

Người đời thường có tâm lý ham sống sợ chết. Nhưng thế gian này chưa từng có một ai tránh được luật vô thường. Do đó, người tu có nhiệm vụ chuyển tâm lý này thành ý thức: Cần phải sống sao cho xứng đáng một kiếp làm người để được sống trong thể chết chứ không phải đã và đang chết trong xác thể còn sống. Giảng giải về lý lẽ này, Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:

Chư đạo hữu! Thế gian, đã là con người đang mang phần nhc thể, ai ai cũng thiết tha với s sống và s st s chết. Giới hạn kiếp sống của thế nhân trung bình là một trăm năm, nhưng thử hỏi trong khoảng thời gian ba vạn sáu ngàn ngày có mấy ai trọn hưởng?

Đã biết thế, nghĩa là không ai tránh khỏi luật sanh tử trong ý nghĩa sanh trưởng thu tàng, nhưng ai ai cũng s lẽ tử, ham chung lẽ sanh.

Thử hỏi, dầu có hoảng hốt kinh sợ cách mấy đi nữa, nhưng có ai thoát khỏi cái định luật ấy đâu. Tuy ước định rằng đời người một kiếp trăm năm chỉ có một lần, nhưng có mấy ai hiểu được và suy nghĩ đến việc sống chết lai vãng với con người không biết bao nhiêu lần trong một kiếp sống. Nhân thế chỉ biết rằng con người chỉ có một lần chết là lần dứt hơi thở, ngũ tạng lục phủ tứ chi ngừng hoạt động, nhưng nào có mấy ai để ý đến mỗi ngày hoặc mỗi đêm con người đều bị chết ít nhất là một lần. Cái chết trước tiên, như đã nói phần trên, là cái chết dài hạn. Cái chết trong giấc ngủ là cái chết trung hạn. Còn biết bao nhiêu cái chết khác từng giờ từng phút từng giây của các tế bào trong cơ thể của con người. Sự sanh tử tử sanh luôn luôn đến rồi đi, đi rồi lại đến, sanh rồi diệt, diệt lại nhường cho sự sanh khác nữa. Đó chỉ nói ở phần nhục thể của con người mà thôi.

Đã là con người mang phần nhục thể, là một trong những hằng hà sa số sinh vật. Vic ấy đâu có chi rằng quan trngphải lo âu s hãi, lo tính vic trăm năm. Điều tối quan trng là s sanh tử về mt tinh thần hoc tâm linh, hoc linh hồn hay chơn như bản thể cũng thế. S sanh tử của phần này mới là quan h cho kiếp nhân sinh khi chơn linh ẩn tàng vào phần chủ thể.

(. . .)

Nếu mỗi người hằng giữ cho ngọn tâm đăng hằng sáng tỏ mãi mãi, thì ngôi Tiên vị Phật đã sẵn dành một bên cho họ. Ngọn tâm đăng ấy trường tồn vĩnh cửu trong hiện kiếp cũng như các kiếp bất sanh bất diệt. Đó mới gọi rằng sống trong thể chết. Còn trái lại, nếu con người không biết sứ mạng vi nhân, tưởng rằng một kiếp sống hiện tại, chạy đôn chạy đáo, làm đủ mọi cách để gầy dựng sự nghiệp trăm năm cho mình, cho con cháu trong hậu thế; trong sự gầy dựng sự nghiệp vật chất đó, đã vùi lấp chơn linh thiên tánh trong mê muội tham dục, phú quý đỉnh chung, danh lợi, tình tiền, làm ngọn tâm đăng bị che lấp trong muôn thuở. Đó là con người đã và đang chết trong xác thể còn sống.([15])

Tâm lý tiến thủ

Nhắc lại, tâm lý tiến thủ là tâm lý quyết thắng, không chủ bại. Dù gặp trở ngại khó khăn tới đâu cũng không nản chí bỏ cuộc. Mà tu hành xưa nay vốn không phải dễ. Sau khi đắc đạo, Ngài Khưu Trường Xuân kể lại quá trình tu hành khổ hạnh của mình như sau:

Phải chịu đựng đói khát, nhẫn nhịn sỉ nhục, áo không kín thân, cơm không đầy miệng, ngày hai bữa không trọn, đêm khó ngủ một giấc, chẳng ngày nào mà không bị người ghét mắng, biết bao lần bị người lăng nhục. Nói ra xót lòng, nghe cũng lạnh mật.([16])

Mang tâm lý tiến thủ, người tu không thể tu tài tử, vui thì nhập cuộc, buồn thi dang ra. Đã hiểu được lẽ vô thường trong cuộc sống, biết rõ đời người ngắn ngủi, thì người tu hành không thể trì huỡn hay chờ đợi. Cần phải cố gắng hành đạo, lập công bồi đức và tu luyện càng sớm càng tốt, để trễ tràng e sẽ không còn cơ hội, thời gian và sức khỏe.

Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn dạy:

Muốn song tu tánh mạng, không đợi thời gian tuổi tác, càng sớm bước càng hay, càng sớm bước càng đủ điều kiện để giải quyết bổn phận của chính mình trên con đường giải thoát.([17])

Không phải chỉ có lúc thuận tiện mới tu, còn khi gặp hoàn cảnh khó khăn thì không tu. Mang tâm lý tiến thủ, người tu cần biết tùy doi nương vịnh để tiến bộ trên đường đạo.

Đức Giáo Tông Đại Đạo dạy:

* Lúc thuận thời thì động, nghịch thời thì tịnh. Tịnh đó cho nội lực thần khí được thông linh mẫn tuệ.([18])

* Đạo pháp trường lưu. Hành giả quyết tâm giác ngộ xuôi thuyền về bến giác thì ý chí phải kiên cường, biết lúc nên đi thì đi, lúc nên đậu thì đậu. Đêm trăng sáng dầu nước ngược cũng có thể dong thuyền; ngày mà âm u dầu xuôi dòng cũng nên cắm sào ngơi nghỉ. Đó là minh triết để bảo thân.([19])

Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn dạy:

Người biết đạo, biết tu phải nương theo cái thuận thời thiên lý mà nâng niu tâm đức của mình cho càng ngày càng thêm mẫn tuệ, trau giồi đạo hạnh cho thuần thành thánh thiện, phước huệ song tu. Người tu chỉ có bấy nhiêu thôi.([20])

Nếu biết thuận thời thiên lý để trau luyện thì người tu sẽ đạt thành kết quả, không uổng phí một kiếp được làm người, không uổng phí cơ hội có một không hai được hạnh ngộ Kỳ Ba đại ân xá của Đức Đại Từ Phụ.

Đức Đông Phương Chưởng Quản dạy:

Nên cố gắng cho đạt đạo giữa thời tận độ này. Nếu không đạt đạo thì đến thất ức niên mới có cơ hội trở về quê cũ.([21])

Trên đây chỉ mới trích lại một ít lời dạy của các Đấng thiêng liêng trong Tam Kỳ Phổ Độ về khía cạnh tâm lý để người tu ứng dụng vào cuộc sống tu học và hành đạo của bản thân. Chắc chắn rằng hãy còn thêm nhiều khía cạnh khác nữa để người tu học hỏi và ứng dụng cho bản thân trong sứ mạng tự độ độ tha.

Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo

14-9 Kỷ Hợi (12-10-2019)

DIỆU NGUYÊN



([1]) Viện Ngôn Ngữ Học, Từ Điển Tiếng Việt. Hà Nội: Trung Tâm Từ Điển Ngôn Ngữ, 1992.

([2]) https://www.merriam-webster.com/dictionary/psychology. Truy cập 18-11-2020.

([3]) Trích Thuật Xử Thế Của Người Xưa, của Nguyễn Duy Cần.

([4]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-01 Kỷ Dậu (03-3-1969).

([5]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 01-12 Bính Dần (31-12-1986).

([6]) tiến thủ 進取: Tiến tới để nắm lấy (thủ) cái tốt đẹp mong muốn. Vậy tâm lý tiến thủ là tâm lý quyết thắng, không chủ bại. Dù gặp trở ngại khó khăn tới đâu cũng không nản chí bỏ cuộc.

([7]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-4 Bính Ngọ (03-6-1966).

([8]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-10 Bính Ngọ (26-11-1966).

([9]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 14-02 Mậu Thân (12-3-1968).

([10]) Thánh thất Nam Thành, 22-8 Đinh Mùi (25-9-1967).

([11]) Thánh thất Nam Thành, 22-8 Đinh Mùi (25-9-1967).

([12]) Minh Lý Thánh Hội, 07-11 Quý Sửu (01-12-1973).

([13]) Minh Lý Thánh Hội, 01-11 Tân Hợi (18-12-1971).

([14]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 08-7 Kỷ Dậu (20-8-1969).

Một ví dụ để tham khảo về tâm lý của người nhận quà từ thiện: Nhiều năm qua, một số quán cơm từ thiện chủ trương “bán” cho người nghèo một bữa cơm ăn no có đủ cả món canh, món xào, món mặn với giá nhất định là hai ngàn đồng. Các quán này giải thích: Họ có thể biếu bữa cơm miễn phí, nhưng lại không muốn người nhận tủi thân vì mang mặc cảm đi xin ăn; do đó, các quán sành tâm lý đã chọn cách “bán” cơm với giá tượng trưng.

([15]) Minh Lý Thánh Hội, 01-11 Tân Hợi (18-12-1971).

([16]) Lê Anh Minh dịch, Thất Chân Nhân Quả. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2010, tr. 248.

([17]) Vĩnh Nguyên Tự, 10-6 Bính Thìn (06-7-1976).

([18]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 01-12 Bính Dần (31-12-1986).

([19]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, 15-02 Đinh Tỵ (03-4-1977).

([20]) Vĩnh Nguyên Tự, 16-01 Bính Thìn (15-02-1976).

([21]) Thiên Lý Đàn, 04-11 Tân Hợi (21-12-1971).