12. Ý NGHĨA VÀ TINH THẦN
HÒA ĐỒNG NỮ ĐẠO
Năm 1935, khi ban ơn thành lập Thánh Tòa
Vô Vi Huỳnh Quang Sắc, Đức Chí Tôn dạy:
Chiếu sắc nữ nam hội tựu về
Chung
tâm hòa phái trẻ đừng xê
Ngày xuân khởi dựng, con vâng thửa
Lập Thánh Tòa sen hưởng cận kề.
Vậy, phải chăng, khi ban sắc lệnh xây dựng
Thánh Tòa, Thầy đã nhắc các môn đệ hãy luôn ghi nhớ tinh thần chung tâm hòa phái mà Thầy đã dạy từ thuở
mới khai Đạo: Thầy đến lập Tam Kỳ Phổ Độ,
chỉ vụ một chữ hòa…([1])
Ba mươi sáu năm sau khi Đức Chí Tôn ban
ơn thành lập Thánh Tòa (1935-1971), lại thêm một điểm son được ghi nhận trên
dòng lịch sử của cơ đạo nơi đây, đó là sự kiện Đức Mẹ ban ơn cho các đoàn thể nữ
phái lúc bấy giờ cùng bắt tay nhau tổ chức Đại
Hội Hòa Đồng Nữ Đạo tại Thánh Tòa Vô Vi Huỳnh Quang Sắc trong hai ngày 06
và 07-8 Tân Hợi (24 và 25-9-1971).
Hôm nay, chúng ta hãy ôn lại ý nghĩa và
tinh thần Hòa Đồng Nữ Đạo đã được Đức Mẹ và các Đấng thiêng liêng giáng dạy
cách đây bốn mươi lăm năm (1971-2016) tại nơi này. Mặc dù tinh thần Hòa Đồng Nữ
Đạo được Đức Mẹ dạy riêng cho nữ phái nhưng xét cho cùng thì tinh thần hòa đồng
này cũng vô cùng hữu ích và cần thiết cho cả nam phái, cho toàn đạo, cũng như
cho toàn xã hội nhân loài, bởi lẽ hòa đồng là yếu tố căn bản và tiên quyết để
kiến tạo một thế giới hòa bình, hạnh phúc, an lạc và văn minh tiến bộ.
Trước khi trình bày về ý nghĩa và tinh thần
Hòa Đồng Nữ Đạo, xin nói sơ lược về nữ phái trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Chúng ta biết rằng nữ phái trong đạo Cao
Đài rất được Thầy Mẹ và các Đấng thiêng liêng ưu ái, quan tâm, nâng đỡ, giáo
hóa để giúp cho nữ phái thoát ra khỏi những quan niệm chật hẹp, thấp thỏi thường
tình trong cuộc sống do ảnh hưởng của tập tục xã hội từ lâu đời, để nữ phái có
thể hướng về những mục đích cao cả hơn trong một kiếp được sinh ra làm người trên
thế gian.
Có lần bày tỏ lòng thương xót cho nữ phái
vẫn còn mãi quẩn quanh trong nếp sống nhi nữ thường tình, Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
Bấy
lâu nữ phái các em vẫn không ra khỏi tam tùng, mà tùng trong xó bếp góc nhà,
tùng ra trước ngõ, tùng trước rặng rau, tùng sau luống sắn, có chi là rỗi rảnh
để bàn đạo đức tu trì. Bần Đạo lại nhìn vào đó càng thương hại cho tấm thân nhi
nữ quá phải nhọc nhằn! Cuộc đời nhi nữ quá đau thương! ([2])
Một lần khác, Đức Bồ Tát nhận xét:
Hiện
nay, có hiền nữ còn bao nhiêu sự đời trói cột: Nào con nào chồng, ruộng vườn,
nhà cửa, trâu heo. Suốt tháng tối ngày bao nhiêu vật ấy sai sử. Cứ vâng vâng dạ
dạ, phục vụ mãi mà không chán không lờn. Ngoại cảnh: Lợi danh, đỉnh chung, vật
chất câu nhử cuốn lôi. Nội giới: Lục dục thất tình sai sử, mà các hiền nữ nào
biết nào ngờ. Thân phận khổ đau, linh hồn khốn đốn, nên bước ra nửa bước đã nhớ
lại nhà, vắng một phút một giây sợ của tiền trộm đạo, thì sao hưởng được hạnh
phúc công bằng, sao thấy được tự do chơn lý.([3])
Thế nên, ngay từ năm 1926, lúc đạo Cao
Đài chưa chính thức ra mắt trước nhơn sanh, khi mà trong xã hội Việt Nam cũng
như trên toàn thế giới, nữ phái vẫn còn bị phân biệt đối xử trong tinh thần trọng
nam khinh nữ, thì Thầy đã dạy chư vị nữ Tiền Khai thành lập tổ chức nữ phái để
dìu dắt nữ giới trên bước đường tu công lập hạnh song hành cùng nam phái. Thầy
dạy như sau:
Đường Thị! ([4]) Thầy giao
phái nữ cho con lập thành. Chẳng phải vì đàn bà mà sớm nồi cơm, chiều trả cháo
hoài.
Phần các con truyền đạo kỳ phổ độ này cũng lắm nặng nề. Bao
nhiêu nam tức bấy nhiêu nữ. Nam biết thành Tiên Phật, chớ nữ lại không sao?
Thầy đã nói Bạch Ngọc Kinh có cả nam và nữ, mà phần nhiều nữ lấn quyền hơn nam
rất nhiều.([5])
Pháp
Chánh Truyền đạo Cao Đài quy định cho nữ giới được đứng
vào hàng giáo phẩm Cửu Trùng Đài cho tới bậc Đầu Sư cũng là một điểm hết sức đặc
biệt của Hội Thánh Cao Đài.
Việc mở cửa tâm pháp thâu nhận phụ nữ, việc
lập ra tổ chức nữ phái để giúp nữ giới nâng cao trình độ tu học giáo lý và tham
gia các hoạt động xã hội, từ thiện, v.v… đều thể hiện chủ trương nam nữ bình
quyền của đạo Cao Đài.
Thêm vào đó, các Đấng thiêng liêng trong
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vẫn thường khuyên dạy, khích lệ nữ phái như sau:
- Đức Mẹ:
Nữ nam phân cách bởi hồng trần
Diện mạo hình hài với xác thân
Bổn tánh chơn như đâu có khác
Con nào cũng có vị nguyên nhân.([6])
- Đức Giáo Tông Đại
Đạo:
Nữ phái cùng nam trách nhiệm đồng
Chớ nên xem nhẹ đám quần hồng
Nung gan dốc chí trên đường đạo
Một thuở thành công trước Chí Công.([7])
- Đức Vân Hương
Thánh Mẫu:
Nữ nam âu cũng một chơn linh
Đều thọ sắc ban chốn thượng đình
Xuống thế lập công tu tự độ
Và sau độ dẫn khắp nhân sinh.([8])
- Đức Vân Hương
Thánh Mẫu:
Sứ mạng Tam Kỳ quá nặng mang
Nữ lưu em hỡi tiến lên đàng
Ngày qua đóng chặt thân phàm tục
Nay phải hiên ngang với đạo vàng.([9])
Trải qua thời gian, các tổ chức nữ phái
trong đạo Cao Đài đã lần lượt được thành lập để hướng dẫn nữ giới trên bước đường
tu học, hành đạo, thực thi sứ mạng cứu độ nhân sinh, bao gồm các đoàn thể như:
Nữ Chung Hòa Phái, rồi Nữ Chung Hòa, Diêu Trì Phái, Nữ Đoàn Đại Đạo... Tuy
nhiên, các đoàn thể này hoạt động riêng rẽ, rời rạc.
Thế nên, để gia tăng hiệu quả của việc tu
học và hoạt động cứu độ nhơn sanh của nữ phái, trong hai năm 1969-1970 Đức Mẹ
đã gieo ý thức chung tâm hợp quần cho các tổ chức nữ phái trong đạo Cao Đài lúc
bấy giờ. (Không chỉ gieo ý thức cho riêng nữ phái mà cho toàn các chi phái đạo
Cao Đài).
Đất nước Việt Nam vào những thập niên 50,
60, 70 của thế kỷ trước đang chìm đắm trong cảnh đạn bom khói lửa, nhà tan cửa
nát, con mất cha, vợ mất chồng, gia đình ly tán. Biết bao sanh linh cần đến sự
cứu giúp của những tấm lòng từ ái, những bàn tay dịu hiền. Các đoàn thể tôn
giáo lúc bấy giờ đều tích cực hoạt động cứu trợ nạn nhân chiến cuộc. Tuy nhiên,
muốn đạt được hiệu quả cao trong công quả cứu tế, cần phải có sự chung tâm hợp
quần giữa các đoàn thể. Do đó, Đức Mẹ dạy:
Các
con là những thành phần giác ngộ trước hết. Các con đã biết nghe lời dạy của
Chí Tôn Thượng Đế và của chư Phật Tiên. Các con đã thể hiện được trong muôn một
tình thương của Thượng Đế. Dầu rằng các con đã làm được ngần ấy nhưng chưa xoay
chuyển được cuộc đời từ đọa lạc trở nên hạnh phúc. (…) Tình
thương đồng đạo, đồng bào, đồng chủng các con đã có, nhưng tình thương ấy các
con đã giới hạn nó trong những dấu chân trâu, thế nên chưa hòa đồng lẫn nhau giữa
dấu chân này và dấu chân khác. Những hột muối tình thương các con quá nhỏ,
trong lúc ao hồ sông rạch nước loãng mênh mông, thế nên vị muối không còn
nguyên chất của nó. Các con có hợp đoàn hướng thiện, có hợp quần để xiển dương
đạo lý mới đem lại sự kiến hiệu của vấn đề.
Các
con ôi! Nói chung cho toàn đạo và nói riêng cho đoàn thể nữ phái của các con,
đã và đang vương mang một chứng bịnh đồng nhứt, đó là chứng bịnh lãnh tụ phe
nhóm.
Suốt
mấy mươi năm trời khai đạo, truyền đạo, đã có nhiều phong trào được dựng nên
mang những danh từ tốt đẹp như Liên Hòa, như Hiệp Nhứt, như Quy Nhứt, như Thống
Nhứt, như Hòa Đồng, v.v… Chỉ một danh từ trong những danh từ ấy thôi, nếu tất cả
biết giá trị của sự hợp đoàn, thể hiện đúng mức chủ trương mục đích của nó, thì
Đạo đã thống nhứt lâu rồi, và cơ truyền giáo độ đời đã thịnh hành vượt bực rồi,
không còn như cảnh huống ngày nay.
Nói gần
nhứt là mấy năm gần đây, các con trong nhiều đoàn thể Đạo đã nêu lên những danh
từ thiết thực, như Liên Giao Hành Đạo, Nữ Chung Hòa, Nữ Đoàn Đại Đạo, Diêu Trì
Phái, v.v…. Các con chưa làm nên và đúng mức của danh từ ấy, bởi tình thương của
các con như những vũng nước nơi dấu chân trâu, óc lãnh tụ phe nhóm của các con
gần bằng núi Thái Sơn.([10])
Thế nên, Đức Mẹ đã dạy các đoàn thể nữ
phái Cao Đài lúc bấy giờ gồm Nữ Chung Hòa, Diêu Trì Phái, Nữ Đoàn Đại Đạo hãy
cùng bắt tay nhau tổ chức Đại Hội Hòa Đồng Nữ Đạo. Đức Mẹ giảng dạy cặn kẽ về ý
nghĩa của Đại Hội Hòa Đồng Nữ Đạo:
Hòa Đồng
Nữ Đạo là một hồi chuông chuyển hóa nữ phái khai tâm,([11]) cùng khẳng nhận được việc đạo là việc
chung, cùng hòa nhau để phụng sự vạn linh mà các con nữ phái đóng một vai trò
quan trọng đối với cơ đạo ngày mai. Các con cũng ý thức được chữ hòa như thế
nào, các con cũng ý thức được sự thương yêu ra sao. Nếu các con thành thật hòa
nhau, thương nhau, các con lo gì không sáng tạo được một thế hệ mới của nữ phái
ngày mai.([12])
Hòa là gì? Hòa là hòa lẫn vào nhau, nhập
làm một, đến mức không còn thấy có sự phân biệt nữa. Hòa còn có nghĩa là không
có mâu thuẫn hay xung đột trong mối quan hệ giữa các cá thể với nhau. Vậy, muốn
đạt được chữ hòa cần phải có tình thương, bởi lẽ thương nhau chín bỏ làm mười, hay thương nhau trái ấu cũng tròn. Thế nên, hòa là hòa ái yêu thương,
hòa hiệp với nhau thành một khối; không phân biệt ta người, sang hèn, giàu
nghèo, thấp cao, khôn dại; không phân biệt chủng tộc, tôn phái, để cùng nhắm
vào một mục đích chung tối thượng là đem lại sự sinh tồn an vui hạnh phúc cho mọi
người nơi thế gian.
Hòa là một tiềm lực sinh động tạo nên mọi
sự mọi việc. Trong thân thể con người, ngũ tạng lục phủ có hòa thì con người mới
khỏe mạnh. Ngoài trời đất, có mưa thuận gió hòa thì vạn vật mới sinh tồn phát
triển, cây trái thạnh mậu sum suê. Giữa con người và con người, giữa quốc gia
và quốc gia, giữa đoàn thể và đoàn thể, giữa tôn giáo và tôn giáo có hòa thì thế
giới mới thái bình an ổn. Có hòa rồi thì mọi việc dù khó đến đâu cũng có thể
thành công như lời Đức Mẹ dạy:
Nữ Chung Hòa hòa đồng nhứt thể
Có hòa rồi tát bể cũng vơi
Muốn am ([13]) sứ mạng cứu đời
Lòng con phải tợ lòng Trời mới nên.([14])
Lòng Trời chính là lòng thương yêu trùm
khắp, không phân biệt hèn sang, nghèo giàu, thấp cao, dại khôn, dữ hiền.
Nói một cách khác, muốn đạt được chữ hòa
thì đừng chấp nê, đừng nhìn vào những danh từ, hình thức khác biệt mà hãy nhìn
vào những điểm tương đồng giống nhau; quan trọng nhất là sự đồng tâm, đồng chí
hướng, đồng mục đích.
Đức Mẹ cho chúng ta ví dụ về chữ đồng như
sau:
Các
con ơi! Các con mỗi đứa đến giờ cúng đều niệm một danh Thầy danh Mẹ. Đồng
một chí hướng là tu thân hành đạo, lập công bồi đức, một kiếp làm người cho được
vẹn tròn công viên quả mãn hầu ngày kia trở về cùng Thầy cùng Mẹ. Đồng một
mục đích hoằng dương đạo pháp phổ độ nhơn sanh để xây dựng đời thượng nguơn
thánh đức trong đất Thuấn trời Nghiêu an lạc thái hòa. Đồng một quan niệm
xây dựng thế hệ con em mầm non tiếp nối sự nghiệp đạo đức theo luật tre tàn
măng mọc. Đồng nhìn nhận chủ thuyết Tam Giáo đồng nguyên, vạn giáo nhất
lý. Đồng một ý thức giữ gìn giới luật, Tứ Đại Điều Quy và Ngũ Giới Cấm,
cũng như thực hành Bát Chánh Đạo. Đồng thờ phượng một kiểu mẫu Thiên Bàn.
Đồng tụng đọc những bài kinh nhựt tụng. Đồng mặc một sắc đạo phục
bạch y. Các con đồng một ý thức cải tà quy chánh, hướng thiện tu thân, để
đoạn trừ nghiệp cũ và không tạo nghiệp mới để sớm giải thoát trần duyên. (. . .)
Các
con ngoan lắm! Biết chọn đường đi lối tiến. Nhưng các lối tiến ấy phải là lối
tiến cùng chung chớ không phải là lối tiến rẽ bước chia đàng. Có cùng chung để
anh ngã em nâng, chị dìu em bước. Con hằng nguyện Đại Đạo hoằng khai, phổ độ
chúng sanh cho thiên hạ thái bình, nhưng muốn được thái bình, phải trong đường
lối quy nhứt đoàn kết thương yêu.([15])
Xét trên bình diện rộng lớn hơn là xã hội
nhân loài, tất cả mọi người trên thế gian đều có đồng một Đấng Cha Chung là Đức
Chí Tôn Thượng Đế hay Đức Chúa Trời, Đức Allah; đồng thọ bẩm một điểm linh
quang (là Thượng Đế tính hay Phật tính) từ Đức Thượng Đế (Đại Linh Quang); có đồng
một sứ mạng vi nhân tức là sứ mạng làm người trên cõi thế.
Vậy, cốt lõi của tinh thần Hòa Đồng Nữ Đạo
chính là sự đồng tâm hòa hiệp, chung lo cứu đời, dẹp bỏ mọi tỵ hiềm, đố kỵ,
ghét ganh, và tư kiến sai lầm; không chấp nê vào danh từ tổ chức này hay tổ chức
nọ, Hội Thánh này hay Hội Thánh kia, mà hãy nhắm vào mục đích chung; ai làm
cũng được, miễn là việc làm ấy có ích lợi cho nhơn sanh, cho cơ đạo.
Sự chấp nê vào danh xưng của tổ chức mình
hay Hội Thánh mình thể hiện qua việc tín đồ bị cấm cản không được đọc kinh sách
do Hội Thánh khác hay tổ chức khác phát hành; các thánh sở trực thuộc Hội Thánh
này không được mời người của Hội Thánh khác đến thuyết giảng giáo lý, v.v… Về
điểm này, Đức Mẹ dạy:
Rõ được Đạo chí thành sáng tạo
Đồng lo chung hoài
bão kỳ này
Đã nhìn một Đạo một Thầy
Nỡ nào phân cách chơn tay cho đành.
Đừng có ý chống kình ganh tỵ
Việc chung lo phải nghĩ Đạo Trời
Không vì sự việc mỗi nơi
Không như người thế lỗ lời bán buôn.([16])
Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
Chư
hiền muội nên ý thức rằng mọi danh từ, mọi hình thức, mọi sắc thái trên thế
gian này đều là cái giả. Sở dĩ tạm mượn để mà gọi, để mà hành, còn điều tối
quan trọng, đó là sự cứu cánh và sự kết quả của vấn đề.([17])
Đức Bồ Tát còn cho chúng ta một vài ví dụ
cụ thể về tinh thần hòa đồng không phân biệt nhắm vào một mục đích cứu cánh
chung như sau:
Một
thí dụ như một món bánh. Người thợ làm bánh phải dùng đến các vật liệu, dụng cụ
để tác thành món bánh. Tuy rằng trên nguyên tắc đã có hoạch định, tạo công thức
một tỷ lệ nào cho số vật liệu, đến khi thành cái bánh, mặc dầu cho màu sắc
không được giống, hình thức không được giống, hương vị không được giống như
sách đã dạy, nhưng cứu cánh và kết quả của vấn đề là làm thế nào cho thực khách
thưởng thức được món bánh ấy để qua cơn đói lòng.
Một
thí dụ khác nữa: Đó là công cuộc xây cất một ngôi nhà. Một khi kiến trúc sư đã
vẽ thành họa đồ tỷ lệ giao cho nhiều nhà thầu khoán xây cất nhiều ngôi nhà. Dầu
những người thầu khoán ấy quốc tịch có khác nhau, ngôn ngữ có khác nhau, phương
tiện xây cất có khác nhau, vấn đề chánh phải là làm sao khai triển bản họa đồ ấy
cho đúng tỷ lệ kích thước của kiến trúc sư đã định.
Như vậy,
dầu không ai đòi hỏi, các ngôi nhà ấy vẫn giống như nhau, từ hình thức đến
khuôn khổ và cái tác dụng của nó là các gian phòng ốc đều cất có một cách như
nhau. Như vậy, vấn đề quốc tịch, ngôn ngữ và phương tiện có khác nhau giữa những
người thầu khoán không thành vấn đề.([18])
Cũng theo lời dạy của Đức Quan Âm Bồ Tát,
tinh thần Hòa Đồng Nữ Đạo chính là hạt giống để phát triển thành tinh thần hòa
đồng vạn giáo hay đại đồng nhân loại. Đức Bồ Tát dạy:
Điều
thứ nữa là Bần Đạo muốn đề cập tới vấn đề sứ mạng trong tương lai lâu dài của
Hòa Đồng Nữ Đạo. Đó là tiêu ngữ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ: Tam Giáo quy nguyên,
Ngũ Chi hiệp nhứt. Sự quy nguyên hiệp
nhứt ấy không phải chỉ gò bó trong phạm
vi nhỏ hẹp của đạo Cao Đài hay trong phạm vi
dân tộc Việt
Để đi
đến mục đích lớn rộng ấy (là quy nguyên hiệp nhứt), trước hết phải bắt đầu quy
nguyên hiệp nhứt từ phạm vi nhỏ hẹp giữa cá nhân và cá nhân, giữa tập thể và tập
thể, giữa giáo hội và giáo hội, giữa hội thánh và hội thánh, giữa quốc gia và
quốc gia. Chớ nếu giữa cá nhân và cá nhân chưa cùng sự hòa hiệp
thương yêu, giữa tập thể và tập thể
chưa được hòa hiệp thương yêu thì làm sao mong
đạt đến sự quy nguyên hiệp nhứt
trong đại đồng tôn giáo, đại đồng
nhân loại.
Muốn
đạt được cái đích tối thượng ấy, từ cá nhân của hàng tín hữu, từ cá nhân của
hàng Thiên ân hướng đạo, phải vượt ra cái chấp. Có phá
chấp mới mong đi đến đại đồng.
Cái
chấp ấy là chi, hỡi chư hiền muội?
Chấp ấy
là chấp danh từ, chấp hình thức, chấp nhân ngã. Những danh từ, hình thức, và
nhân ngã ấy là những chướng ngại vật to tướng cản lối ngăn đường cho các hàng
Thiên ân hướng đạo.
Chư
hiền muội ơi, thử nghĩ lại mà coi. Chấp làm chi. Thế gian này là chỗ dừng chơn
cho khách lữ hành trên đường thiên lý. Giỏi cho lắm cũng đến trăm năm, trăm tuổi
là cùng. Có chi là vĩnh cửu của mình. Rất đỗi mạng sống này nói rằng của mình
mà mình có được gìn giữ nó cho trường sanh bất tử, lột vỏ để sống đời đời kiếp
kiếp hay không. Hay là đến lúc vô thường gõ cửa, hoặc lúc quỷ sứ dẫn đi, hoặc
lúc Thiên sứ đến triệu hồi, rồi cũng phải riu ríu ra đi theo định mệnh?
Có
lãnh hội được như thế, biết được như thế thì không nên chấp cái danh từ, cái
ngã, cái nhân và cái hình tướng để đi đến đại đồng nhân loại; thể hiện cùng thực
hiện tình thương của Tạo Hóa dưới ánh thái dương muôn thuở này.
Mỗi
cá nhân, mỗi tập thể, mỗi tổ chức phe nhóm đều ý thức được như vậy mới mong đạt
được lý quy nguyên hiệp nhứt.([19])
Trong ngày Đại Hội Hòa Đồng Nữ Đạo năm
xưa (1971) tại Thánh Tòa Vô Vi Huỳnh Quang Sắc, Đức Vân Hương Thánh Mẫu đã bày
tỏ lòng mong ước:
Chị
mong rằng ý nghĩa Hòa Đồng Nữ Đạo sẽ thấm nhuần vào tâm đạo của mỗi em để tinh
thần Hòa Đồng Nữ Đạo bất diệt bất biến, để ứng phó thiên vạn biến hầu hoàn
thành sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ của một đàn con yêu quý thiêng liêng từ Ngọc Hư
Cung chuyển thế.([20])
Người môn đệ Cao Đài chúng ta ghi nhớ lời
dạy của Đức Thánh Mẫu để rồi cùng nhau phát triển tinh thần Hòa Đồng Nữ Đạo
thành tinh thần Hòa Đồng Vạn Giáo và Đại Đồng Nhân Loại để mang lại một cuộc sống
thanh bình, hạnh phúc, an lạc và văn minh tiến bộ cho khắp cõi nhân gian. Đó
cũng chính là niềm mong mỏi của Đức Chí Tôn Thượng Đế và Đức Từ Tôn Kim Mẫu khi
khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Thật vậy, Đức Từ Tôn Kim Mẫu dặn dò:
Trước sứ mạng Cao Đài cứu thế
Trong tinh thần huynh đệ đại đồng
Thực thi bác ái với lòng vị tha.([21])
Cầu nguyện huynh tỷ, đệ muội chúng ta được
dồi dào sức khỏe, bình an, hạnh phúc, và thành công trong tinh thần chung tâm
hòa ái phụng sự đạo pháp, phụng sự nhân sinh.
Thánh
Tòa Vô Vi Huỳnh Quang Sắc
14-9 Bính Thân (Thứ Sáu
14-10-2016)
DIỆU NGUYÊN
([6]) Diêu Trì Bửu Điện
(thánh thất Nam Thành), 15-6 Tân Hợi (05-8-1971). – vị nguyên nhân: Nữ cũng là bậc nguyên nhân nên cũng có ngôi vị cũ
trên cõi trời trước khi xuống thế gian tu học hành đạo độ đời.
([7]) Cơ Quan Phổ
Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt
([11]) Khai tâm là mở rộng cõi lòng để đến với
nhau, không còn đóng khung hạn hẹp trong đoàn thể mình, chi phái mình.