Hà Nội: Nhà xuất bản TÔN
GIÁO, 2016
MỘT
Ngôi pháp thể Trung Hưng Bửu Tòa đã hình thành
tại số 35 Nguyễn Hoàng, thành phố Đà Nẵng (nay là 63 Hải Phòng). Bấy giờ khu
phố Thạch Thang còn cũ kỹ đơn sơ nên tòa Tam Đài của nền tân tôn giáo trông
thật lung linh hình sắc mới.
Tấm bảng trên cổng tam quan ghi
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
HỘI THÁNH TRUYỀN GIÁO CAO ĐÀI
khiến người dân lạ
lẫm, không biết đây là đền, chùa
hay nhà thờ, nhưng kiến trúc nầy là điểm mới cho khách nhàn du ghé bước viếng thăm.
Nhìn vào chánh điện thấy
một quả cầu lớn có vẽ Thánh Nhãn (con
mắt trái), người ta bèn gọi nôm na là “chùa một mắt”. Mặt tiền ngôi đền trưng
bảng TRUNG HƯNG BỬU TÒA khiến nhiều người thắc mắc hỏi han, để rồi dần dần
khách thiện duyên hiểu được rằng đây là ngôi giáo sở trung ương của Hội Thánh
Truyền Giáo Cao Đài, có sứ mạng trung hưng nền chánh pháp Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ, đem đạo vào đời, mở cơ tận độ chúng sanh thời mạt thế.
Ngôi giáo sở nầy được khởi công xây dựng từ
ngày 15-10 Ất Mùi (Thứ Hai 28-11-1955) và lễ khánh thành tổ chức vào ngày 01-6
Bính Thân (Chủ Nhật 08-7-1956).
Vào giờ Tý đêm 29-5 rạng 01-6 ấy, Hội Thánh
lập đàn cơ, Đức Tổng Lý Trần Hưng Đạo dạy:
Hưng khởi Tam Kỳ hiệp pháp môn
Đạo cao độ
tận vạn sinh hồn
Tổng quy giáo pháp bình thiên hạ
Lý chánh truyền ban để bảo tồn.
Bản Thánh chào chư Thiên phong chức sắc, chức việc, chư Thiên ân nam nữ đạo
tràng.
Hôm nay Bản Thánh lấy làm vui mừng được trông thấy một dịp kỳ phùng; ấy
cũng nhờ hồng ân cao cả, nhờ sức nhiệt thành cố gắng của toàn đạo Trung Việt.
Đạo pháp từ khi Đức Chí Tôn trao truyền cho các bậc Thiên ân, kể đến nay
với thời gian không mấy mà chơn truyền bị đen tối. Các con cái của Người không
làm tròn sứ mạng, chia chi rẽ phái cho sai thất tân pháp. Tôn chỉ hầu như mờ
tối. Nên hôm nay mới có cơ cuộc trung hưng để chấn chỉnh nền Giáo Hội chân
chính duy nhất mà cứu chuộc nhơn loại trong buổi mạt đời.
Tôn chỉ Đại Đạo là Vạn giáo đồng
nhứt, vạn pháp đồng tông, làm cho cán cân đạo pháp được thăng bằng, đem
nhân loại vào cảnh thái hòa, chung một nguồn sống yêu thương, lập lại buổi hạ nguơn ra thánh đức.
Nay tuy Giáo Hội chưa được duy nhất, chi phái chưa được đồng nhất, nhơn tâm
chưa được hòa nhất, nhưng cũng khởi đầu cho sự cộng đồng thân ái. Trung hưng là
một thời pháp hy hữu. Đạo được trung hưng thì thế giới lần hồi cũng được an
bình, nhân loại lần hồi cũng được hòa thân, chúng sanh cũng được lần hồi hưởng cơ tận độ.
Các từ ngữ sứ mạng trung hưng, khai cơ
tận độ đã là những đề mục được các hướng đạo truyền giáo Trung Việt cố suy
gẫm, tìm đến chỗ thông nghĩa đạt lý để thấy rằng mở ra cơ đạo Trung Việt
không phải là thêm một lần Đức Chí Tôn lập đạo, vì vào ngày 01-01 Bính Thân (Chủ Nhật 12-02-1956) Thầy
dạy:
Thầy đã đến trần ai chỉnh pháp
Lập Tam Kỳ quy
hợp Ngũ Chi
Công bình, bác
ái, từ bi
Làm cho Âu Á Úc
Phi Mỹ hòa.
Đức Thượng Đế
Chí Tôn trong thời hạ nguơn đã lìa Ngọc
Kinh xuống cõi trần ai, lập Tam Kỳ Đại Đạo với tôn chỉ Tam Giáo quy Nguyên, Ngũ Chi phục Nhứt, dựng nền chánh pháp trung hưng,
không khư khư như xưa, cũng chẳng thiên chấp hoàn toàn theo nay. Nói cách chữ
nghĩa là: Bất nệ ư kim, bất thiên ư cổ. Phi cổ nhi cổ, phi kim nhi kim. Phi
kim phi cổ, nhi kim nhi cổ. Trung nhất thị Cao Đài.
Trong một đàn cơ tại miền Trung ngày 09-01 Giáp Dần (Thứ Năm 31-01-1974),
Đức Trần Hưng Đạo dạy:
Chẳng phải xưa mà chẳng phải nay
Trung dung quán
nhứt ấy Cao Đài.
. . .
Nhất vạn giáo mà trung vạn pháp
Hòa vạn dân tổng
hợp vạn thù
Quy nguyên Gia,
Lão, Thích, Nhu
Mượn tay nhân thế vận trù thi công.
Nói chánh pháp Cao Đài bởi vì pháp nầy xuất
phát từ Thượng Đế Thái Cực Thánh Hoàng, Đấng chưởng quản mọi sinh hóa của càn khôn
vũ trụ.
Chánh pháp nầy đã được Đức Thượng Đế giao tận
tay dân tộc Việt từ năm Canh Thân (1920) và Đức Ngô là môn đồ đầu tiên tiếp
nhận. Tại thánh thất Nam Thành ngày
29-9 Ất Mùi (Chủ Nhật 13-11-1955) Đức Trần Hưng Đạo dạy:
Canh Thân hội, Thánh minh chỉ giáo
Bính Dần thu,
Đại Đạo ra đời…
Nói trung hưng ấy là trung vạn pháp, hưng vạn
giáo để thân vạn loại, hòa vạn chủng và siêu vạn linh. Đó chính là cơ tận độ.
Tận độ là cứu vớt hết thảy mọi sanh linh. Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài Trung
Việt thường gọi là Hội Thánh Trung Hưng vì Thầy đã chọn các Thiên phong miền
Trung làm sứ đồ và ban trao sứ mạng trung hưng.()
Tại thánh tịnh Đại Thanh, ngày 24-7 Giáp Tuất
(Chủ Nhật 02-9-1934), khi đưa Đạo về Trung, Thầy dạy:
Than ôi! Chính mình Thầy đến khua chuông cảnh tỉnh, đánh trống giác mê, gay
thuyền bát nhã, phất cờ quy nguyên, lấy đức nhẫn nại và tình thương làm hướng
đạo để quy tụ các con đưa về một mối. Cái mối mà Thầy dắt con đây chính là mối
chung thiên hạ, không phân Nam Bắc, chẳng luận Đông Tây, bắt tay nhau đi đến
thế giới hòa bình, nhơn nhi vô nhơn, ngã nhi vô ngã;() còn cuộc quả báo lịch kiếp giảm tăng là lý
đương nhiên của nhơn loại.
Than ôi! Thế mà tại nước Việt Nam nầy chưa lập thành chánh đạo, thì thánh địa
chưa hoàn toàn, nên mong gì vạn quốc thiên bang! () Nội bất tề hà nhi an ngoại? () Các con tập theo gương các người thương đời
mến đạo mà quyết tâm. Dù có khó khăn chi đi nữa, cũng quyết hy sinh lãnh lấy
vai tuồng. Dù tướng dù kép, phận sự tuy có khác nhau mà thành công vẫn có một.
Ngày nay một phận sự quan hệ là truyền đạo Trung Kỳ. Ban,() Thầy sai con và
Tứ Linh Đồng Tử khá kíp về Trung đặng hoát
khai chơn đạo.
Mối chơn đạo Thầy cho hoát khai ra Trung là chánh
pháp trung hưng () của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (trung vạn pháp,
hưng vạn giáo) gồm có hai khoa:
- Nội giáo tâm truyền (tâm pháp vô vi) là khoa
tuyển độ, Thầy trao cho tiền khai Ngô Văn Chiêu từ năm 1920 ở
Dương Đông (Phú Quốc).
- Ngoại giáo công truyền (tướng pháp hữu vi)
là khoa phổ độ, Thầy trao cho ba vị tiền khai Cao Quỳnh Cư, Phạm
Công Tắc, Cao Hoài Sang từ năm 1925 ở Sài Gòn rồi chuyển về Tây Ninh.
Hai khoa nầy được xem là tả chi hữu dực của
Cao Đài, cần phải phối hợp lại
để đưa chúng sinh vào khoa tận độ. Đó gọi là sứ
mạng trung hưng tướng tâm hiệp
một, cũng gọi là cơ quy nhất được Thầy lập Trung Tông Đạo trao cho Hội
Thánh Truyền Giáo. Tại thánh tịnh Đại Thanh, ngày 24-7 Giáp Tuất (Chủ Nhật 02-9-1934),
Thầy dạy:
Trung từ đây đắp xây chánh đạo
Nam xướng lên kế
hảo đoàn viên
Kẻ thống nhất,
người quy nguyên
Cơ quan sắp sửa
tuyên truyền vạn linh.
Công cuộc đắp xây chánh đạo hay sứ mạng Trung
Hưng tại Trung Tông Đạo được Ơn Trên mở ra hai thời kỳ chỉnh và khai,
phù hợp câu “Cao Đài ứng hóa theo lòng
chúng sanh”.
Chỉnh thì có chỉnh cơ và chỉnh pháp, là giai
đoạn chỉnh đốn giáo thể, giáo chế, giáo pháp.
Khai thì có khai cơ giáo pháp và khai cơ
thành đạo, là giai đoạn giáo hóa, thọ đạo, hành trì pháp môn.
Về giáo thể, Đền Thánh Trung Hưng Bửu Tòa
hình thành theo Tam Đài gồm Bát Quái Đài, Hiệp Thiên Đài, và Cửu Trùng Đài.
Phần chỉnh sửa quan trọng nhất của tòa pháp thể nầy là Bát Quái Đài.
Đàn cơ 06-10 Ất Mùi (Thứ Bảy 19-11-1955) tại thánh
thất Nam Thành, khi tiền bối Thanh Long trình dâng họa đồ xây cất Trung Hưng
Bửu Tòa, Đức Trần Hưng Đạo dạy:
Bát Quái Đài tầng nhì, tám cửa đặt tám quẻ theo hình vạch đục lủng từ trong
ra ngoài. Quẻ KIỀN đặt ở trong cung phía liền Cửu Trùng Đài.
Cung phía liền Cửu Trùng Đài tại Tòa Thánh
Tây Ninh là cung Đạo, nơi thiết trí Thiên Bàn. Bát Quái Đài của Tòa Thánh Tây
Ninh, tại cung Đạo là quẻ Đoài. Như vậy tòa Tam Đài của Tòa Thánh Tây Ninh được
thiết kế theo trục Tây Đông (Đoài Chấn: Nhân Nghĩa). So sánh thì thấy:
- Bát quái ở Bát Quái Đài của Tòa Thánh Tây
Ninh là bát quái hậu thiên quay ngược
chiều kim đồng hồ.
- Bát quái ở Bát Quái Đài của Trung Hưng Bửu
Tòa là bát quái tiên thiên quay theo
chiều kim đồng hồ.
Các tiền bối hướng đạo Trung Việt đã thấy
điểm then chốt của công cuộc chỉnh cơ, chỉnh pháp.
Tòa Thánh Tây Ninh: Ngôi pháp thể () được lập vào cõi hậu thiên tức là cõi thế
gian. Ở trước mặt Hiệp Thiên Đài Tòa Thánh có hai chữ 仁義 (NHÂN NGHĨA) biểu thị cho “Lập nhân chi đạo”.() Tổng thể của nhân đạo gồm có hai mặt, từ hiện
thể hữu hình tiến đến bản thể siêu hình. Đức nhân mang tính tự giác và đức nghĩa
mang tính giác tha.
Trên bao lơn Hiệp Thiên Đài Tòa Thánh có
những khuôn hình tượng trưng tám hạng người trong cuộc sống thế gian (SĨ, NÔNG,
CÔNG, THƯƠNG, NGƯ, TIỀU, CANH, MỤC), và có hai pho tượng ông THIỆN, ông ÁC tượng
trưng hai mặt trái ngược nhau của con người.
Trung Hưng Bửu Tòa: Toàn thể ngôi Tam Đài phối trúc rất đơn giản với một không gian tâm linh
thông thoáng theo lời Đức Trần Hưng Đạo dạy tiền bối Thanh Long (Lương Vĩnh
Thuật) tại thánh thất Từ Vân (Phú Nhuận) ngày 21-9 Ất Mùi (Thứ Bảy 05-11-1955):
Hiền phải bình tĩnh xem xét lại tỉ mỉ họa đồ về thước tấc. Về tiểu tiết
không cần lắm nhưng về đại thể bắt buộc phải đúng với số đạo. Nhà Cửu Trùng Đài
chỉ đặt một bàn thờ duy nhất về nội nghi. Còn ngoại nghi chỉ đặt một bài vị Hộ
Pháp. Về Bát Quái Đài thì mở hoát cửa, Cửu Trùng đài nhìn vào trông thấy nửa
hình lục giác, nhưng đến tầng lầu hai, thấy rõ Bát Quái Đài. Đó là đúng cơ lập
Đạo tương đương sáu hào tám quẻ.
Cửa Bát Quái Đài mở hoát cho vạn linh nơi Cửu Trùng Đài nhìn vào thấy Thiên
Nhãn để gom một tinh thần thống nhất.
Như vậy Bát Quái Đài Tòa Thánh Tây Ninh thuộc
hậu thiên, cõi người. Bát Quái Đài của Đền Thánh Trung Hưng được chuyển thành tiên
thiên theo thánh ý là “lập lại buổi hạ nguơn ra thánh đức”. Thánh
đức thuộc thượng nguơn. Về Dịch học thường nói tiên thiên là trước trời,
hậu thiên là sau trời. Nhưng Tiên Thiên Bát Quái đã có trời đất, núi đầm, sấm
gió, nước lửa thì sao là trước trời (chưa có trời) được? Vì thế nên hiểu tiên
thiên, hậu thiên như là tiên sinh (người sinh trước), hậu sinh (người sinh sau).
Vậy tiên thiên là trời trước và hậu thiên là trời sau. Trời trước
là thượng nguơn, thời mới lập cõi thế, càn khôn còn chính vị là thượng nguơn thánh
đức. Trời sau là hạ nguơn, thời mà cõi thế gian đi vào biến thiên rối loạn, dần
dần tiến đến hạ nguơn mạt kiếp.
Đền Thánh Trung Hưng lập Bát Quái Đài theo tiên
thiên, tám quẻ tương xứng theo từng cặp: Thiên Địa định vị, Sơn Trạch thông
khí, Lôi Phong tương bạc, Thủy Hỏa bất tương xạ (trời đất định vị, núi đầm
thông khí, sấm gió xô xát, nước lửa không triệt nhau).
Từ Bát Quái Đài quy chiếu sang Cửu Trùng Đài
ý nghĩa thế nào? Tại thánh thất Thái Hòa ngày 08-10 Ất Mùi (Thứ Hai 21-11-1955)
Đức Quan Thánh Đế Quân dạy:
Các hiền đã tìm các ngôi trong chín số của các số trong chín ngôi chưa? Một,
ba, sáu, chín là gì? Một là Giáo Tông. Ba là Chưởng Pháp. Ba Chưởng Pháp cộng ba
Đầu Sư là sáu. Chín vào hàng thứ tư là ba mươi sáu Phối Sư (…). Còn ba ngàn
Giáo Hữu, bảy mươi hai Giáo Sư là hậu thiên thì tìm bằng hào; ba mươi sáu trở
lên thì tìm bằng quẻ. Hiểu chưa? Tìm hào được không?
Như CÀN KHÔN là nhị hữu hình đài. Mỗi quẻ sinh làm ba quẻ nữa: CÀN, KHẢM,
CẤN, CHẤN; KHÔN, LY, TỐN, ĐOÀI. Tìm thì lấy CÀN nhứt, ĐOÀI nhì, LY tam, CHẤN
tứ, TỐN ngũ, KHẢM lục, CẤN thất, KHÔN bát. Cộng tám quẻ thành bốn ngôi lập
phương là bốn con số chín (4 x 9 = 36 quẻ). Tám
quẻ ấy là cơ Lập Pháp gọi là Thái Cực, Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Bát Quái. Đến cơ
Khai Pháp thì tám quẻ chồng nhau, mỗi quẻ đủ sáu hào, mà sáu mươi bốn quẻ thì
bao nhiêu hào? Hiền đệ nhơn lên coi. Sáu mươi bốn quẻ nhơn sáu hào thành 384
hào. Nhơn 384 hào với 8 thành 3072.() Cần phải lấy
hào, lấy quẻ mà hỗn hợp tìm Lễ Sanh, Chánh Phó Trị Sự, Thông Sự. Vậy buộc các
hiền phải thanh tịnh mà lý giải cho suốt nghĩa. Tìm bốn ngôi của bốn cơ quan,
tìm hai ngành của ngành ngang, ngành dọc.
Về giáo chế của Hội Thánh Truyền Giáo chỉ từ
phẩm Giáo Sư (hoặc Phối Sư) trở xuống,() và phần chỉnh cơ lập pháp đã được thấy rõ là
ba phái, bốn cơ quan.
Ba phái (Thái, Thượng, Ngọc) là đường chính
thống phải noi theo, cũng là tôn chỉ của Cao Đài Giáo (Tam Giáo quy Nguyên). Bốn
cơ quan là cơ chế Hội Thánh để thực thi sứ mạng đưa đạo vào đời, đem đời đến
đạo ngõ hầu đạt mục đích cải
thiện thế gian và giải thoát tâm linh.
Đúc kết lại giai đoạn chỉnh cơ chỉnh pháp
của Trung Tông Đạo, Hội Thánh Truyền Giáo đã hoàn thành một khuôn mẫu Hội
Thánh hành pháp mở cơ giáo pháp tiến đến cơ thành đạo. Khuôn mẫu chung đó
là:
8 + 1 = 9
|
|
Địa Thiên Thái: Cơ quan Hành Chánh
|
6 + 3 = 9
|
|
Thủy Hỏa Ký Tế: Cơ quan Minh Tra
|
2 + 7 = 9
|
|
Trạch Sơn Hàm: Cơ
quan Phước Thiện
|
4 + 5 = 9
|
|
Lôi Phong Hằng: Cơ quan Phổ Tế
|
Cơ quan Hành Chánh thuộc về phái Thượng. Pháp Tứ Bửu là Khai Đạo Thông (tẩy tịnh,
khai đàn, trấn thần, an vị).
Cơ quan Phước Thiện thuộc phái Thái. Pháp Tứ Bửu
là Khai Sinh Cơ Thông (chẩn tế).
Cơ quan Phổ Tế thuộc phái Ngọc. Pháp Tứ Bửu
là Khai Nguyên Giáo Pháp (trị bệnh).
Cơ quan Minh Tra thuộc ty Hiệp Thiên Đài.
Pháp Tứ Bửu là Khai Pháp Thông (giải oan).
Bốn cơ quan nầy là guồng máy của Hội Thánh
gọi là Tòa Nội Chánh. Trong đó ba cơ quan hành pháp thuộc ba phái và một cơ
quan bảo pháp thuộc ty Hiệp Thiên Đài. Hai cơ quan Hành Chánh và Minh Tra là
hai chân, hai cơ quan Phước Thiện và Phổ Tế là hai tay. Nếu đối chiếu với bốn
cơ quan của Tòa Thánh Tây Ninh thì có khác. Cơ Quan Phước Thiện của Tòa Thánh
do chức sắc Hiệp Thiên Đài trông coi gồm có mười hai đẳng cấp thiêng liêng. Còn
Cơ Quan Phước Thiện của Hội Thánh Truyền Giáo do chức sắc phái Thái trông coi
chỉ có chín cấp ngang với chín phẩm Cửu Trùng Đài. Cơ quan Minh Tra không hành
xử chức năng tư pháp mà lo phần bảo pháp.
Đức Chí Tôn dạy rằng Đạo thành khi nào các
con hiểu được thánh ý và làm đúng theo thánh ý. Từ ngôi pháp thể Tòa Thánh Tây
Ninh đến ngôi pháp thể Trung Hưng Bửu Tòa, ta có thể khám phá thánh ý ở đây là:
Đạo Thầy buổi đầu đưa vào cõi người động loạn, hậu thiên (tán vạn thù) và người
tín đồ được truyền đạo phải tu hành để quay về cõi tịnh, tiên thiên (tụ, quy
nhứt bổn).
Trong Đạo
Học Chỉ Nam (Chương thứ nhì, Tiết thứ ba, Mục 1), Ơn Trên dạy:
Tu là hậu thiên phản tiên thiên, nói một cách khác là do thiên hình vạn
trạng mà trở lại nguyên lý tối sơ. Cho nên mới có câu nhứt bổn tán vạn thù (là
lúc đi ra ngoài), vạn thù quy nhứt bổn (là lúc trở về gốc).
PHẠM VĂN
LIÊM