Thứ Ba, 21 tháng 4, 2020

IX. LẠNH LÙNG THỜI KHUÊ (Sự Nghiệp Trung Hưng / Phạm Văn Liêm)



IX. LẠNH LÙNG THỜI KHUÊ
Thánh ý cho thấy rõ sứ mạng chỉnh cơ, chỉnh pháp tại Trung Tông Đạo do Đức Giáo Tông và Đức Ngô đảm trách; nay Thầy thâu hồi sứ mạng nên Đức Giáo Tông ngưng điển. Các Đấng thiêng liêng và Thiên Đồ có bổn phận chăm lo hộ trì phần vô vi cho Hội Thánh không thể ứng dụng quyền năng được. Về phần hữu hình, chức sắc Hội Thánh bất đồng nội bộ, bất thông pháp môn, nghi ngờ cơ bút, hầu như hàng ngũ đã tự phân thành hai hướng. Một, chuyên phát huy mặt hành đạo, chăm lo củng cố các tầng lớp giáo đồ, xây dựng giáo sở, bồi đắp giáo quyền, rao truyền giáo lý, phát triển dân sinh… Hai, nghiêng về tịnh luyện, quyết tâm tiếp thụ pháp ân tận độ theo đại nguyện của Đức Ngô. Buồn lòng về tinh thần bất nhứt nầy, đồng tử Liên Hoa nhập tịnh để tránh việc lập đàn.
Càng lúc hai luồng tư tưởng của các chức sắc Hội Thánh càng rõ rệt, sinh ra lời qua tiếng lại nên Ơn Trên đã ứng hóa vào hai lối riêng nhau.
Các chức sắc nghiêng về tu luyện cảm nhận về con đường trung đạo của Trung Tông là thống hiệp tướng tâm, nên thiết tha với điển huệ tiếp duyên thọ tu trọn pháp, do đó đã cầu đàn riêng xin Đức Tôn Sư chỉ điểm. Đồng tử Liên Hoa chấp nhận thủ cơ đàn riêng như là đàn tu của Phước Huệ.
Đàn riêng Tý thời, ngày 27-5 Canh Tý (20-6-1960):
THI
NGÔ tâm nguyện thẳng đến Tiên Bồng
ĐẠI nghiệp mới còn có thể trông
TIÊN Phật hỏi ai lòng đã quyết
GIÁNG thăng cho rõ máy huyền công.
Bần Đạo chào chư liệt đẳng Thiên ân, đạo hữu.
Giờ nầy Bần Đạo cũng đặt lòng tận độ đến cùng chư môn sinh đã phát nguyện trở bước về Thầy. Con đường quay lại ngôi xưa vị cũ cần nhứt là ở chí nguyện nơi lòng mình. Lòng ấy không còn vương vấn lợi danh, tài sắc ở đời mà chỉ thiết tha với con đường giải thoát. Vì lúc nào người giải thoát cũng cầu cho được mối vô vi thanh tịnh ở lòng mình nên lòng được bình an mà tiếp trọn thánh ân linh điển. Vậy chư hiền đồ an tọa.
Đây bước qua một bước gay go, mà còn nhiều bước gay go nữa. Có gay go như thế mới thấu được lòng mình. Càng gay go thì lòng mình mới trở nên tươi đẹp. Gay go là phần thưởng cho kẻ nhiệt thành thì ráng mà nhận lấy những cái gì mà người ta không dám.
Hôm nay đã đành sứ mạng trung hưng, vì quyền pháp chưa linh, ân oai chưa tỏ, nên giữa nhau trong nội bộ bất đồng, mọi việc Thầy có thương cũng không làm sao xong xả.
Thời giáo pháp đã ngẫu nhiên bước đến một bước lạnh lùng: Thời Khuê đã hiện. Đã là Khuê rồi thì lòng ai cũng mang lấy một mối ngờ, mà ngờ nhau thì trông vào ai cũng người thù địch. Vì vậy trong giai đoạn Khuê nầy, ai là người đã thấy xa biết rộng, nên chữa cứu lại cho được tốt lành. Đứng trong thời Khuê, người quân tử há chẳng biết Khuê mà chữa tránh cái Khuê để cho Hỏa Trạch Khuê ngược lại Trạch Hỏa Cách? ([1]) Khuê trở thành Cách thì sứ mạng sẽ về, quyền pháp trung hưng được huy hoàng tỏ rõ.
(Lời quở: Điển ký, bớt một phết, một nét là tội của người chép. Sao không cẩn thận chủ tâm? Tu hành như vậy thì sao đắc được quả? Tai phải lóng nghe cho kỹ. Ý phải nghĩ cho nhằm. Ngoài ra đó là phương luyện chí.)
BÀI
Từ đây các đệ lo tu
Để lòng hôm sớm đền bù tội khiên
Thì là thấy được pháp quyền
Thì là giữ vững mối giềng Trung Tông
Nếu còn muôn mối chưa thông
Làm sao thấy được Tiên Bồng ngày quy?
Lòng Thầy lân mẫn từ bi
Trông người hối quá ban kỳ hồng ân
Thấy nhau nghi kỵ phân vân
Làm sao sự nghiệp canh tân ở mình
Mong sao ai nấy thực tình
Vì ơn cứu chuộc quên mình mới hay
Chớ đừng ném đá giấu tay
Để cho nội bộ đắng cay nghi ngờ
Mong trò cầu lấy huyền cơ
Cầu ơn cứu chuộc đừng mơ lợi quyền
Tu sao nên Phật nên Tiên
Mới là hạnh phúc phỉ nguyền toàn dân
Nếu lòng đo đắn so cân
Lấy khôn lấy khéo khó gần thánh ân
Hôm nay hội ngộ chia phân
Bên trong rạn nứt như gần rã tan
Nhơn sanh không ngũ không hàng
Giáo quyền, giáo phẩm nghênh ngang tréo tròng
Cơ đồ gánh lấy không xong
Tội tình quy cả Thiên phong Lưỡng Đài
Làm sao đừng để chia hai
Làm sao cứu lại ngày mai mạnh lành
Làm sao điều độ nhơn sanh
Làm sao ai nấy thân danh rỡ ràng
Ngày mai muốn được huy hoàng
Ngày nay ai nấy phải toan tu hành
Ngày mai mối đạo được thành
Ngày nay chức sắc khép mình lo tu
Ngày mai thấy được pháp mầu
Ngày nay hạ thủ tu cầu Tiên gia
Ngày mai được gặp mặt Cha
Ngày nay ai nấy thiết tha e dè
Ngày mai đất chở trời che
Ngày nay đừng tạo phái phe thù hềm
Từ đây để các trò xem
Hai đường thưởng phạt hư nên rõ ràng
Không tu sao được trong hàng
Không tu sao thấy điển quang nhiệm mầu
Thiên ân ai có nguyện cầu
Nhứt tâm chung thủy pháp mầu được trao
Trao rồi phải giữ làm sao
Cho còn cho tỏ, cho cao cho thành
Cho lòng đừng lệch đừng tranh
Cho thân ra khỏi bức mành vô minh
Có tu quyền pháp có linh
Có ơn hướng đạo, có tình nhơn sanh
Có tu muôn việc được lành
Có tu mới hết cạnh tranh nghi ngờ
Có lòng sao lại ngẩn ngơ
Ơn Trời đã đến có chờ được đâu.
Chư hiền đồ cũng thấy được ơn điển đã cạn. Cạn mà không lo tu sửa nội bộ thì càng bữa càng cạn cho đến lúc kiệt tắc thì không còn cầu cứu nơi đâu.
Vì tại sao lại cạn và đến khi phải kiệt tắc? Là ví như nước không nguồn, hay bị cắt mạch thì làm sao không tắc được. Cũng vậy, ơn điển không chan trải đến cho người là vì người bị phạm một tội nghịch chống nào, hay ô uế nào, đã tự đoạn kết mối thông công. Hướng đạo đã không còn nối liền với ơn điển bao la thì quyền pháp của hướng đạo hữu hạn. Nhơn sanh tuy còn sống trong quyền pháp của hướng đạo cũng sống trong hữu hạn mà thôi.
Tại sao hướng đạo không còn sống trong quyền pháp bao la? Vì tại lòng người hướng đạo đã chật hẹp. Nên người hướng đạo muốn che chở tận độ nhơn sanh để làm tròn sứ mạng của mình thì nhơn lúc khảo thí này cũng được thấy mà lo sợ. Biết lo sợ càng phải tu. Muốn tu thì phải thật thà, mới cầu được cái pháp môn vô lậu mà tu. Trụ từ chỗ thuần chơn vô ngã để cầu lấy cái chơn thường thanh tịnh cho mọi người. Nên không thực hành mà đem lòng giả dối cầu lấy cái đạo nhiệm mầu thì không bao giờ được thấy nhiệm mầu. Người chưa thể giả được với người thì làm sao giả được với Thần Thánh, với các bậc đại giác được?
Vậy Bần Đạo khuyên đừng có đem lòng giả dối mà cầu đạo ở Bần Đạo. Số đông chức sắc đã lấy lòng giả dối cầu lấy đạo trường sanh của Bần Đạo, nên Bần Đạo không lấy giả dối ấy, rồi cái đó nó hoàn trở về với lòng đó (tự thủ).
Vậy hàng chức sắc đã thọ pháp mà bị phạm giới tu, phản nghịch lại lời hồng thệ, nếu đợt sám hối này không hối cải thì sao khó cầu. Bần Đạo cũng lấy lòng thương.
Về các tu sĩ Phước Huệ Đàn đã phải một cơn khảo thí, lòng cũng chưa định hẳn. Dù sao cũng ráng mà dìu dắt chúng nó. Vì chưa phải sự không hết lòng mà ở lòng người khó xử cho nó.
Việc hành chánh thì phần đó đã hứa, và Thần Tiên cũng giữ lời. Khi nào người bất lực sẽ ban cho một quyền pháp sống.
Việc xây dựng Hội Thánh và xây dựng quyền pháp trung hưng chỉ còn có một phương là chư Thiên ân hướng đạo chịu tu. Tu cho đắc cái lòng chơn thường thanh tịnh thì sự nghiệp lo gì không phục hồi, nhơn sanh lo gì không thỏa nguyện, danh nghĩa lo gì không rõ ràng, giá trị Thiên ân lo gì không quý trọng.
Vì Thiên ân ít tu, Thiên ân còn lấy lý trí để đoán xét chơn lý, hoặc tìm hiểu chơn lý thì không bao giờ thấy pháp môn. Mới tu sẽ bị thế nọ thế kia, điều đó vì thiếu đức tin. Mà đã thiếu đức tin thì không bao giờ hưởng được quyền pháp đó.
Vậy Bần Đạo cũng mừng. Trong dịp khảo thí nầy, chư Thiên ân đã thấy được phần nào về quyền pháp, đã cho Hội Thánh nhiều kinh nghiệm.
Muốn dẫn người ra khỏi tối tăm, mình phải sáng suốt. Chỉ có người sáng suốt mới làm hướng đạo. Muốn đem tự do an lạc cho loài người thì lòng người hướng đạo phải chứng được pháp môn thanh tịnh trước.
Đợt tịnh Liên Hoa kỳ nầy là một bước đầu. Bước để trở về chỗ cũ, thì cũng là việc mừng. Nhưng mới sơ cơ, cần phải tăng tiến nhiều và cố gắng hơn mới bồi đắp lại cho các phần hư hỏng. Con đường rất gay dài, phải nỗ lực mới kịp.
Việc làm đạo thiết cần mà không thiết cần hơn việc tu thân luyện kỷ. Nếu hai điều vì Giáo Hội, vì bản thân, cần bỏ bớt một, thì bỏ phần Giáo Hội, lo phần tu thân. Có tu thân mới xây dựng được Giáo Hội. Có Giáo Hội để nương cậy làm một phương tiện tu thân lập công. Nên dầu là sứ mạng mà thân không tu, thì sứ mạng cũng không làm được trọn, lại còn gây nhiều trở ngại.
Việc trong Hội Thánh từ đây còn gặp nhiều khó khăn. Mà khi có khó khăn bên ngoài là lúc các hiền đã nối lại cùng Thầy được một mối liên lạc. Đến đó cũng là một dịp tốt. Nhưng phần nội bộ các hiền đồ nên xóa bỏ cựu ác, gây lại một tinh thần tin cậy và yêu thương. Rồi đây sẽ an toàn trở lại. Việc nào có đến cho Hội Thánh hay đến cho các hiền trong lúc nầy là lúc cần phải chung nhau mới gỡ được khổ. Không chung nhau thì khổ hoài. Nghĩa là còn chống nghịch nhau thì còn lâm lụy suốt đời. Thôi, công việc tu hành là vậy.
Phước Huệ Đàn đã ban chung trong hàng môn sanh thọ pháp lấy đó làm nơi cầu học. Hoặc ở Tam Kỳ hay chuyển đi nhiều nơi khác. Sau sẽ hiểu.
Còn sự tâm nguyện của nữ tu đó là một phần. Phải có đơn xin thọ pháp. Đơn phải tự mình viết và hai người bảo đảm. Gia Trưởng đến Ban Tịnh Đường xét lại. Mỗi khi truyền pháp, dầu một người cũng phải lập đàn cơ để dạy.
Còn việc chư chức sắc muốn nhập tịnh, không phải theo đợt tu, mà sau khi nhập tịnh của mỗi đợt phải giữ ít nhất là ngày nào cũng một thời công phu. Độ rày chức sắc còn làm đạo thì nên học chương quán tâm tịnh định cũng đủ. Ngày nào thấy đủ điều kiện tiến lên sẽ xin chuẩn pháp môn tu khí dưỡng tinh. Bây giờ số đông chức sắc đã sa ngã vào giới cấm của nhà tu là giới sắc dục. Ban Tịnh Đường nên lập lại danh sách nhập tịnh để cho Cao Tiếp Văn gạch bỏ những tên bị phạm giới ra bộ tu, trừ người đã sám hối.
[Bạch: Kính bạch Tôn Sư, chúng đệ tử nhứt tâm nguyện cầu tâm pháp. Cúi xin Tôn Sư ban ơn cứu độ, cho chúng đệ tử được phép tu lại như xưa.]
Các hiền đồ nên tu lắm. Vì làm việc lâu ngày, trước tán tinh thần, thiếu bình tĩnh sáng suốt. Nên tu để tụ khí gom thần cho thiên chơn được trọn.
Bây giờ các đệ tử xin tu cũng còn đông, nhưng vắng mặt. Hôm nay Bần Đạo muốn từ đây đến rằm tháng 6, Bần Đạo xin gia hạn sám hối cho những người xin tu được lập danh sách rồi xin sám hối. Dầu sao ít nhiều cũng bị phạm hồng ân. Sau đó, xin Hội Thánh mà chấp bút điểm danh, rồi ban pháp. Lấy danh theo các bài được điểm lập bộ tu lại. Nhưng thời gian hành đạo được tịnh định tối đa là năm năm phải trở về phương tu trọn vẹn. Nghĩa là tứ thời công phu.
Bần Đạo ban ơn và chào chư hiền đồ.
Ban lệnh thâu hồi sứ mệnh đối với Trung Tông Đạo, là cách Đức Chí Tôn giáo hóa, cảnh sách các Thiên ân sứ mạng. Cho nên sau lệnh thì các bậc tiền bối Thiên Đồ đã đổ điển lực về cơ, bảo khuyên chỉ điểm. Đức Ngô đã nêu tỏ giữa cái tu và cái hành, giữa độ mình cứu người, giữa lập công và đạt chứng, giữa quyền và pháp, giữa cái cần và cái đủ cho cơ đạo, cho mỗi người cầu đạo và cho mỗi Thiên ân, cho sự thành bại của một sự nghiệp, mà Đức Chí Tôn đã bố hóa trên lộ trình Trung Tông Đạo. Và rồi Đức Chí Tôn cũng không đành trước bao tâm trường của đám con thơ khờ khạo nên đã giáng lâm ban ơn vạch đường tiến thủ.
Đàn riêng ngày 29-6 Canh Tý (21-8-1960):
CAO thấp cân đo chớ tưởng lầm
ĐÀI tiền Thầy ngự luống thương tâm
TIÊN phàm ai thấu phân cho được
ÔNG nguyện dìu đưa kẻ quyết tâm.
Chào mừng các con.
Giờ nầy Thầy đến mở đường tận độ cho các con một năm thành công, mà cũng cho biết một năm đầy gian khổ.
Con đường mà Thầy định đưa bước các con hôm nay là con đường thanh tịnh. Đường ấy tuy không nguy hiểm khó khăn mà ít người để chơn nên nẻo về âm u. Nếu lòng chưa thanh tịnh cũng gặp nhiều chướng ngại.
Hôm nay Hội Thánh các con lâm vào một thời chống trái. Thời này cả một sự gay cấn, ngọc đá chưa phân. Nếu không phải con mắt nhà nghề thì dầu cho nó là của quý Biện Hòa cũng khó mong khỏi tội khi người. Nên Thầy muốn cho các con từ nay trở đi lập pháp độ mình cứu người trên nền thanh tịnh. Hằng ngày soi rọi vào lòng mình, cố nguyện làm tiên phụng sự cho Thầy, muốn cho được cái tâm thanh tịnh.
Tâm đã hàm súc tiên cơ, khí đủ thần đầy, tinh huyết sung mãn thì tự khắc thấy được máy dinh hư tán tụ, làm cho bình định nhơn hoàn. Vì phương thuốc cứu đời là một khối tinh thần trọn vẹn, nào phải ở tài ba lý trí mà ổn định được sóng gió trên mặt đời. Nếu không suốt tận Thiên cơ thì đâu dễ gì làm cho lòng người thỏa mãn. Nên Thầy mới cho các con một pháp môn tận độ kỳ trung hưng là về phần hành đạo tinh luyện. Lấy Cửu Trù để khai trị nhơn tâm, vận hóa theo độ số của đất trời thì được độ mình mà đem người về một. Nên Thầy muốn ban cho con những yếu khuyết tối cần để con sớm được ngày chứng ngộ, cũng là sự vui mừng cho Giáo Hội. Ngặt vì con còn chạy theo thế sự hơn thua, lòng không thanh tịnh. Lòng con không thanh tịnh thì dù Thầy có thương muôn vạn lần hơn cũng không sao nói được cho con cảm thông cơ mầu nhiệm đất trời. Ít ra con phải có vốn liếng được ít nhiều về thuộc linh thánh khí mới nghe thấu lời bí nhiệm. Lời bí nhiệm đâu phải giấu kín ở một nơi nào, mà lúc nào cũng vang động trong không gian. Vì con thiếu lòng thanh tịnh mà nghe không được. Bao nhiêu lời trong thánh ngôn cũng như sự việc xảy ra mỗi ngày, mà có đứa nào biết đó là cơ mầu nhiệm đưa đến.
Vậy Thầy muốn con nghe cho hiểu được lời Thầy, ngó cho rõ lẽ hư nên của cơ Tạo Hóa. Muốn thế, bởi đâu Thầy không dạy bày nhắc nhở? Vì con chưa đủ sức nghe, sức hiểu ý Thầy. Thầy cũng thường hiện bao lẽ thật ở trước các con, mà các con chưa hề thấy được. Là vì mắt các con yếu thấy, tai các con thiếu tuệ. Thầy muốn con cảm thông và hăng hái những việc Thầy bày và được gần gũi bên Thầy. Vì các con vô minh mà chẳng thấy Thầy, không nghe Thầy, mà các con loay hoay tìm kiếm chi mãi trong vòng thị phi náo nhiệt.
Vậy tóm lại, muốn cứu đời độ mình là trước phải làm chủ cái lòng mình. Lòng không lung lay phóng tán thì hạo khí của trời đất đến nhóm tụ nơi lòng mình. Lòng nương theo hạo khí mà sống, hòa nhịp với thiên lý vạn hữu chúng sanh cốt làm cho lòng thanh tịnh. Thân đứng trước bao thử thách cám dỗ, bao khiêu khích đe dọa, bao nguy kịch khó khăn cũng không lay động lòng mình, thì lòng ấy đã được làm thầy của vạn hữu, làm chủ sự biến hóa mất còn. Được vậy thì mới sửa cái hư, chữa cái tệ, khiến kẻ dữ làm lành, trừ các họa hại, gây cho nhân dân một tinh thần bình đẳng vô ngã. Nếu không thanh tịnh thì làm sao nếm được cái vị chất tính dược như Thần Nông, khai được Bát Quái, mở được Cửu Trù như Phục Hy, Đại Vũ.
Vận được khí nơi trong thì cũng vận được khí nơi ngoài. Khai được cửu khiếu ở người, thì Cửu Trù cũng không phải khó gì. Từ xưa nay các sự nghiệp lợi ích cho đời còn để lại những người đắc đạo, nào phải kẻ học nhiều mà không làm chủ được tâm. Vậy các con sau khi sứ mạng đã bị truất rồi, thì sự việc các con có làm khó nhọc đến đâu cũng không đem lại kết quả. Là vì sứ mạng không còn, cũng như có xác không hồn, có gì giá trị. Nên sự xa cách giữa Thầy là việc làm của các con trở nên khó nhọc.
Bây giờ Thầy muốn độ các con. Chờ một ngày các con thành công, Thầy sẽ trao lại quyền pháp để đương vi tiếp tục sứ mạng. Vì hiện nay các con còn ở trong thời Khuê, mọi việc chưa hiền, mọi người lòng còn cách bức. Bây giờ Thầy để tự lòng các con chọn lấy một con đường tu. Về hành đạo thì cứ theo quy trình quyền pháp đã định và tùy theo địa phương, trình độ mà giáo hóa, không thêm bớt gì khác. Các con đây cũng vậy. Thầy không muốn để giữa các con nghi kỵ nhau làm trở ngại cho nhơn sanh, nên Thầy cũng thể lòng chung mà mong các con xúm nhau xây dựng, chớ không được cầu hỏi riêng rẽ mà phạm đến quyền pháp chí công. Chỉ riêng cho những con nào muốn tu giải thoát được cầu lấy cái đạo thanh tịnh thì có sớ, quần Tiên chư Tổ đến chỉ điểm cho. Nhưng cũng lắm dặt dè để tránh cơ khảo thí.
Việc xây dựng Tịnh Đường là một việc quan yếu cần được sự giúp đỡ nhiều của toàn đạo. Nhưng trong thời Khuê phải lo chuẩn bị mọi mặt về nội dung quy ước. Nếu đã được mọi bề thế, đủ tư cách sẽ cho một Tông Đạo trung hưng phương tu chia năm đẳng, pháp đạo chín tầng, mở rộng phạm vi, bất cứ hạng nào tu cũng được, miễn là trường trai tuyệt dục, nguyện đi thẳng, thì cứ lần lượt trên nấc thang năm bậc mà tiến.
Bây giờ nói lại ngày sám hối của chư Thiên ân trong Giáo Hội Truyền Giáo đã được Thầy đồng ý xá giảm tội tình. Song dầu bao lần lầm lỗi cũng phải từ chối, cũng giữ được tâm nguyện thì khỏi phạm Thiên điều. Dầu kẻ kia được xả giới cũng không phép bội nghịch quyền pháp và lộ Thiên cơ bí tích. Muốn được độ có ngày cầu xin.
Về việc tu hành, nói phần thế đạo còn khó khăn thay, huống gì thiên đạo. Người tu thiên đạo không phải đại căn đại kiếp thì làm sao thắng nổi ma dục. Nên không nên ép buộc ai, mà chỉ khuyên người, nếu kẻ đó giác ngộ thành tâm. Phát tâm rồi cũng có thể sa ngã. Sa ngã là việc thường, đừng lấy làm lạ. Những người sa ngã mà biết đâu một phen giác ngộ tu mau. Miễn sao kẻ phạm giới mà hối cải kịp và biết ăn năn chuộc lại. Cuối cùng ngày chung quy cũng còn ở trong thiên đạo là được độ.
Bây giờ lập xong bộ Tịnh Đường dâng lên, nếu được Tam Thanh chấp chuẩn thì Thầy sẽ ban cho thành lập một Tông Đạo, không phải thống thuộc một chi nào. Mà Tông Đạo nầy chia làm hai phần. Một xiển dương giáo pháp lập trên nền tảng Tứ Giáo đồng nguyên. Phần nầy cần được một chương Tâm Pháp Tận Độ. Nếu con không đủ tư cách lãnh lấy Tông Đạo nầy thì thống thuộc ở Chiếu Minh mà tu. Song Chiếu Minh tu theo phương pháp giải thoát tại gia, không dung hòa được các phần yếu khuyết của các giáo. Nay Thầy đến đây chỉnh cơ lập pháp ban sứ mạng trung hưng. Về công truyền, Thầy duy nhất nội bộ và kết hợp các pháp môn kim cổ Tứ Giáo. Về tâm truyền thì tổng chi phương môn tận độ:
1. Ban pháp phục sinh.
2. Ban pháp khai thế tạo thế.
3. Ban pháp bí tích.
4. Tu cầu sống trong cơ tái tạo tại thế.
Nghĩa là tâm truyền Tông Đạo trung hưng. Một là tu hẳn các bí tích, làm Đầu Họ và làm Giáo Sĩ. Hai là tu cầu quyền pháp sống trong cơ tái tạo tại thế.
Các con có hiểu? Nói lại nghe.
Vậy thì cơ tâm truyền gồm năm bậc để xây dựng một Tòa Thánh quyền pháp ngày mai.
Ngày mai không còn nhiều chi nhiều phái như bây giờ, mà chỉ có một Giáo Hội duy nhất chia làm hai đường. Một là công truyền, hai là tâm truyền. Tuy chia phần ra làm hai, chớ kỳ trung là một. Tâm truyền là cơ chỉ nòng cốt cho Giáo Hội. Công truyền làm môi giới trợ đạo. Vì vậy không qua thiên đạo không thể chấp hành quyền pháp của Giáo Hội. Vì vậy, người chức sắc nào cũng tu Tịnh Đường (thọ pháp). Giáo Sĩ cũng tu (thọ pháp). Chứ người Giáo Sĩ mà không đạt tâm pháp thì làm sao thông suốt lẽ đời.
Thầy ban ơn các con. Ngày nào con lập xong bộ Tịnh Đường và quy chế nhà tu sẽ cầu Ngô Đại Tiên dạy cho mà biết.
Phước Huệ Đàn hoặc đổi đi hoặc chia đôi chỗ làm hai đàn. Nghĩa là Phước Đàn hay Huệ Đàn. Đến đó sẽ dạy.
Hiện nay các con cần tu, cần để lòng cầu nguyện cho nội bộ lành mạnh, quyền pháp khỏi suy, chức sắc được công bình tỏ sáng, giảm cơ khảo thí. Cơ khảo thí không nên cho nó hoành hành nữa, là giữa các con đừng nghi kỵ bàn tán nhau. Dù ai có nói nầy nói nọ, nhịn nhục mà tu, để rồi ngày mai sẽ thấy.
Công việc trong nội bộ lần hồi cũng nhờ tu mà chuộc được sứ mạng. Sứ mạng sẽ trở về với các con, thì các con mới sống trọn vẹn cùng Thầy. Các con có sứ mạng mới khỏi bị khi dể.
Sứ mạng vì vi phạm hồng ân mà mất sứ mạng (do cậy quyền ỷ sức, thiếu đức tin). Thầy không tiếc sứ mạng đã cho các con. Vì các con chống nghịch quyền pháp mà các con tự bỏ sứ mạng.
Vậy các con có quyền pháp là có sứ mạng. Các con nếu ráng một lúc nữa thì danh nghĩa của các con cũng như của Đạo được tươi tắn. Vì giờ hỗn loạn đến rồi, nếu quyền pháp không có, làm sao che chở cho nhơn sanh. Không bao xa, chỉ làm cho Đạo thành. Nếu các con không cố gắng thì Thầy cũng phải lấy lại mà trao cho phái khác. Vậy con cố gắng hai năm nữa sẽ biết. Thầy vẫn nới thời gian cho các con sửa cải. Thầy biết các con phải bị một lần khổ đau, một lần tủi nhục mới mạnh mẽ. Thầy sẽ cho các con đến đó. Thầy ban ơn.
[Bạch: Kính bạch Thầy, chúng con cúi cầu ơn Thầy ban pháp cho chúng con được tu lại, hầu cho chúng con được phục sinh thân tâm lành mạnh, được đẹp lòng Thầy.]
Pháp tu là pháp bí mật, phải ở trong bí mật. Vì vậy chỉ truyền cũng ở chỗ bí mật.
Vì cơ khảo thí, nếu truyền cho con nầy, còn con khác chưa được truyền thì nó tưởng là cơ khảo thí. Vậy buộc việc làm đã bí mật phải cho bí mật. Cũng là chờ ngày giờ Đức Ngô sẽ dạy. Việc tu thì chỉ bốn thời công phu. Nếu làm được một, hai, ba hay được bốn tập lần sẽ hứa với Người. Người sẽ chỉ dẫn. Nghĩa là các con phải chờ một đàn cơ bí mật. Mà từ đây luôn luôn ở trong sự bí mật. Lòng người đã Khuê thì việc làm cũng Khuê.
Cũng vì chưa thâm đắc được sứ mệnh của Trung Tông Đạo Hội Thánh Truyền Giáo là hành đạo tịnh luyện đi đôi, tướng tâm đồng tu, thêm nữa đường vào bí pháp còn quá lạ lẫm nên Hội Thánh đã lâm vào tình trạng “đồng kỳ chí bất đồng hành” của quẻ Khuê. Quẻ Hỏa Trạch Khuê, theo lời Tượng nói: Lửa trên, đầm nước ở dưới (thượng hỏa hạ trạch), bậc quân tử cùng nhau mà ý khác nhau (quân tử dĩ đồng nhi dị), cho nên quý hướng đạo Hội Thánh cùng chung sứ mệnh mà chia lìa đôi hướng. Một bên lập đàn riêng để tu thì chỉ được phần tịnh luyện. Còn một bên không được Đức Giáo Tông xuống điển thì không thể đương vi quyền pháp hành đạo. Như vậy sứ mệnh cứu mình cứu mình đi vào hư vọng. Ý thức được điều đó, Hội Thánh đã lập đàn để cầu ân điển giáo hóa cho bước đạo trung hưng sứ vụ.
Đàn giờ Tý ngày 05-7 Canh Tý (26-8-1960) tại Trung Hưng Bửu Tòa:
HOÀNG đạo lần ba mở độ đời
NGỌC lành dồi luyện lấy ai ơi
TRÁC tâm thánh khiết đương quyền pháp
GIÁNG giáng thăng thăng rõ máy Trời.
Chào chư Thiên ân chức sắc, chư quý đạo tâm nam nữ đàn tiền.
Giờ này Bản Thánh nương cơ nhập đàn để lời nhủ khuyên toàn đạo. Mối tình đồng đạo từ lâu cùng những lúc vui khổ có nhau, đều để chí nhiệt thành quyết mạnh tiến trên đường sứ vụ. Hôm nay nhìn lại nhơn sinh thấy có phần yếu đuối trên nẻo tu hành, lòng Bản Thánh lấy làm buồn. Dầu đã được nhập thánh siêu phàm cũng không sao dứt được tình riêng. Nhớ những ngày trong gia đình Truyền Giáo thượng hòa hạ mục, mặc dù cơ Trời luân chuyển, việc thế đổi dời. Biết vậy, nhưng làm sao cũng muốn cho nhau như ngọc lành không tì vít.
BÀI
Nhìn cuộc thế như guồng chỉ rối
Trong đạo nhà nhiều mối ngổn ngang
Biết ai tâm huyết luận bàn
Để cùng chia sớt lo toan dựng gầy
Nơi Trung Tông Đạo Thầy điểm hóa
Nghiệp trung hưng Thầy đã dẫn đầu
Giáo quyền thiết lập Trung Châu
Chỉnh tu nội bộ pháp mầu ban trao
Thế mà ai, ai nào có biết
Để lòng lo cương quyết với nhau
Nhuộm cho chơn lý một màu
Tình thương lẽ sống dồi dào gần xa
Nay đã tới Long Hoa hội mở
Phật Thánh Tiên dâng sớ cầu xin
Thấy người vì cạn đức tin
Làm sao trông cậy nhận nhìn ơn Cha
Thầy rộng lòng thứ tha chờ đợi
Đợi lòng người đổi mới ăn năn
Sống trong quyền pháp giáng thăng
Trong ngày phán đoán công bằng có tên
Giờ lớn nhỏ ta nên nghe lịnh
Dưới trên đều bình tĩnh gẫm coi
Ơn nào được Thánh dẫn soi
Phước nào được giữ gậy còi trong tay?
Còi gậy để phải thay người khác
Thì hồng ân lệch lạc làm sao
Lời nào ta đã ước giao
Rửa tay thế sự quyết vào Huyền Quan
Dứt các mối tệ đoan ác niệm
Tạo tình thương mà kiến huyền cơ
Cùng nhau gióng trống phất cờ
Tiên phong cải tạo mở cơ độ đời.
TIẾP ĐIỂN
NAM bang được chọn dựng nền Tiên
CỰC khổ rồi đây được có quyền
TIÊN Phật muốn thành phiền não đoạn
ÔNG ban bí tích để thăng thiên.
Bần Đạo chào chư Thiên ân. Chào liệt quý đạo tâm nam nữ.
Bần Đạo lần đầu đến với Hội Thánh Truyền Giáo, cũng là một sự hân hạnh trong cơ duyên dìu dắt giữa quý hiền và Bần Đạo.
Nơi đây từ tiếp cơ lập pháp quyền, việc tối cao đều ở Pháp Chánh Truyền. Về phần lãnh đạo nội trị, ngoại giao ở nơi tay Lý Bạch Đại Tiên xây nền tân pháp. Nhưng cơ phổ độ rộng mở, sự lập công của quần thánh được lâm cơ giáo hóa, dìu dắt nhơn sanh. Bần Đạo đến đây cũng một lẽ đó. Nghĩa là từ nay chư Tiên sẽ mượn các cơ đàn để thí pháp, dìu dắt môn sinh, thì Bần Đạo cũng nhắc lại để chư hiền được cảm thông cơ tận độ.
Cơ tận độ lần ba, Thầy cho liệt Thánh quần Tiên lâm phàm phổ hóa đưa người trở lại nẻo lành. Điểm đạo khai đàn cho khách hữu duyên về nơi quyền pháp. Nên các nơi trong đạo ngoài đời có lòng cầu thỉnh thì Tiên Phật đều đến dạy bảo.
Nhưng với quyền pháp Trung Tông không phải thế. Nghĩa là nơi đây đắc sứ mạng trung hưng, chỉnh tu nội bộ, làm nòng cốt cho quyền pháp sau nầy mà có bày bố ân oai, xây dựng cơ cấu, sắp xếp hàng ngũ cửu phẩm tam thừa, truy ân các Thánh, thành lập tổ đình, mưu lấy sự tương lai hy hữu. Nhưng đức non tài thiếu, gặp cơ khảo thí mà sứ mạng lớn lao không thể một ít người đương nổi. Nếu nội bộ bất hòa thì con đường ấy phải chờ một thời gian tu học, hầu xứng đáng và cũng đủ điều kiện tiến hành.
Ngặt vì thời gian quá gấp rút, mà nội tình chi phái mỗi ngày lạc hướng càng xa. Nếu thời thế xảy đến cho loài người mà trong đạo thiếu quyền pháp làm sao an ngự thánh địa. Nghĩa là mọi người tu, mọi người có đạo. Tu hay có đạo là một việc. Việc ấy là phước cho người cho đời, nhưng chưa đủ an bài che chở cho loài người được. Mà loài người cần có một tổ chức Giáo Hội đủ quyền pháp ân oai. Nơi ấy làm tòa ngự trị của Thầy, sứ mạng được về cho thiên hạ. Nên Hội Thánh là cái cửa ban phát quyền hành mệnh lệnh của Trời. Hội Thánh làm cái cửa thì mọi nơi ở Trời phát xuất ra đó. Loài người nương đó mà được nghe ngóng ý Trời, tựa vào đó mà nhập vào Thiên môn tịnh cảnh. Nên quyền pháp Hội Thánh trở nên trọng đại. Hội Thánh là cái lái, thế giới là con thuyền, nhơn loại nương sống ở thuyền, hướng đi của nhơn loại là cái lái vậy.
Vậy từ nay Hội Thánh có một con đường là phải tu. Mọi người lo tu, người người đều tu. Lớn nhỏ ân cần chiều sớm công phu, bòn mót công quả, xây dựng một nền công đức chung để tiếp tục hoàn thành sứ mạng trung hưng chánh pháp.
Bây giờ nói tu, thì người Thiên ân, kẻ đạo hữu cũng không biết tu làm sao nữa. Tu rồi. Ai cũng ăn chay giữ giới, ai cũng cúng sám quỳ hương. Hơn nữa, người Thiên ân thì xuất gia ly tục, là tu rồi. Giờ còn tu sao nữa? Phải vậy. Tu là thế. Nhưng ở đời không phải tu bao nhiêu đó mà an thiên hạ, được siêu phàm.
Tu là sửa, sửa mọi nết xấu tật hư. Nhưng cái gốc của nó cần được gia công trừ khử. Nên mọi người nhìn lại sự thất bại của mình, của đoàn thể mình, của chi phái bạn. Nói chung các tổ chức trên mặt địa cầu, đều bởi cơ tâm làm xáo đổ cả trật tự. Cơ tâm đã manh khởi lên rồi thì dầu có khôn ngoan đến mấy cũng không còn thuần chất thánh tâm nữa. Xây dựng cơ tâm được mạnh lành trọn vẹn và phải đem nó trở về nơi trong, giữ nó cho còn thanh tịnh. Điều ấy ở phần pháp môn. Bần Đạo khuyên nhắc chư hiền từ đây nên đặt mình trong pháp đạo, nghĩa là đặt mình trong thanh tịnh để cầu huyền cơ. Mọi việc Hội Thánh thì lo giữ gìn.
Một là guồng máy, trên Thiên ân lành mạnh vui đẹp, dưới hàng ngũ nhơn sanh được yên ổn cậy tin. Chưa có điều kiện tiến lên thì chuẩn bị cho mùa xây dựng sắp tới. Nghĩa là Thiên ân quyền pháp đâu đấy đường hoàng tôn ti trật tự, làm gương mẫu cho người dưới thật lòng tu học giải thoát. Với đạo hữu, nên nâng đỡ họ bằng mọi mặt quyền pháp. Nghĩa là làm cho họ nể và yêu, nể mà tin, nể mà kính, nể mà sửa mình, nể mà ăn ở giữa nhau có tình êm ấm. Nên người Thiên ân đủ quyền pháp rồi không cần nói họ mới nghe. Nên lấy Thiên ân làm nòng cốt. Nếu Thiên ân nào không đương nổi quyền pháp, thì ngưng quyền bãi chức để cho Giáo Hội mạnh lành. Đừng nể đừng vì mà chơn truyền phải bởi đó trở nên thất bát.
Hai là về đạo hữu có một lòng tu cũng chưa đủ bảo đảm, mà lòng còn phải thường tư duy việc làm lành lánh dữ. Có làm được lành thì ma chướng mới tiêu, nghiệt ác mới đoạn. Làm lành thì lòng tham sân được dứt. Có làm lành mới bứng được cái gốc sanh tử luân hồi. Làm được là xây dựng cho bao hậu nhựt. Nên đạo hữu ráng lo lập công quả để cho nhẹ bớt tiền khiên. Lập công quả để làm bùa hộ mạng, làm pháp ẩn thân trong buổi đời tên bay đạn lạc. Mũi Thiên oai đã đến không chừa một ai, nếu kẻ đó không chịu làm lành. Ngày khói lửa bốc lên, nếu nghiệp chướng còn thì tránh sao khỏi cháy. Tai nạn chập chồng ghê sợ. Nào hồng thủy, nào đất sập, nào ôn hoàng, đủ trò biểu diễn những màn lạ lùng.
Ráng lo tu. Tu lẹ, tu mau đi đạo hữu.
Về phần Thiên ân Hội Thánh như vậy. Chư hiền có đồng ý với Bần Đạo điều đó không?
[Giáo Sư Thái Phẩm Thanh bạch …]
Phải. Nghĩa là chỉnh tu quyền pháp chọn lọc Thiên ân. Về Giáo Hữu trở lên xây dựng một nề nếp sống trong quyền pháp. Vị nào còn nặng gia đình ân ái thì nên gởi chức vị lại, cho quyền pháp Hội Thánh được linh. Còn từ Lễ Sanh trở xuống, cố gắng xây dựng được trỗi hơn người tín đồ. Nghĩa là Chánh Phó Trị Sự, Thông Sự, Lễ Sanh không được một ai kém thua đạo hữu. Nếu đem so sánh giữa một người Thiên ân với một nhóm đạo hữu, mà vị Thiên ân chức sắc đó kém hơn thì xin ngưng quyền chờ ngày xứng đáng phục vị (kém về giới). Thà nơi địa hạt đó thiếu người còn hơn có người mà để nhơ danh Giáo Hội.
Vậy cố gắng xây dựng cho đến cuối năm. Hàng ngũ đó không được như nguyện thì thi hành ngay để kịp đầu năm Nhâm Dần làm lễ tiếp tục sứ mạng.
Cuộc vận động thống nhất nền đạo, Hội Thánh ta cũng có một trọng nhiệm phải lo. Ngày liên kết nhau cũng không còn xa mấy. Thời thế xoay, muôn việc đều xoay. Hội Thánh lập, mọi người được lập.
Thôi Bần Đạo ban ơn cho Hội Thánh, ban ơn cho chư chức sắc, chức việc thành công trên nguyện lực và sứ mạng được hoàn tất, ban ơn cho chư đạo tâm nam nữ.
Bần Đạo chào. Thăng.
Đức Nam Cực Tiên Ông dạy nghiêng về quyền pháp hành đạo. Còn việc tịnh luyện chỉ buộc phải tu. Phương môn tu, Tiên Ông dạy phổ quát về điều phục cơ tâm và điều ấy ở phần pháp môn phải đặt mình trong thanh tịnh để cầu huyền cơ. Quý chức sắc nghiêng về tịnh luyện không thỏa mãn việc xin pháp tu nên lại lập đàn riêng để cầu huyền cơ vào ngày 15-7 Canh Tý (05-9-1960).
BẢO người sứ mạng sợ mà lo
THỌ lãnh Thiên ân xứng phận trò
THÁNH lịnh trước sau lòng chẳng đổi
NƯƠNG nhờ quyền pháp mới xong cho.
Chào quý hiền Thiên ân.
Cho hay đạo pháp rất mầu vi
Nếu thiếu lòng tin dễ thấy gì
Một quyết từ đây về với Mẹ
Sống trong thanh tịnh thấy Tam Kỳ.
Đức Bảo Thọ Thánh Nương cho tiếp bài thơ dài bảy mươi sáu câu để dạy cởi bỏ nghiệp duyên, thuận tùng quyền pháp trong tinh thần hòa hợp xây dựng giáo quyền vững mạnh, nhất là thọ bí pháp tu trì để thoát bể khổ trần ai. Đức Bảo Thọ Thánh Nương ban cho mười lời khuyên cụ thể bằng mười khổ thơ song thất lục bát. Sau cùng Đức Bảo Thọ Thánh Nương căn dặn:
Việc chi đều tin ở Trời. Cơ đạo gặp lúc suy yếu, người Thiên ân một là thấy được lỗi mình mà lo gấp rút cải quá tự tâm. Hai là cố gắng bội phần để lo chống đỡ mọi chỗ bằng lòng biết tu, đem thần tiếp về chỗ Thầy là chỗ tâm khiếu.
Vậy việc nội trị, ngoại giao tuy ngó như thuyền bị bão, nhưng ai biết không ở sức mình mà giữ được, thì phải cầu lạy đến Trời. Còn nước cuối cùng là thế đó, các anh em ạ!
Làm sao cũng vời cho được Giáo Tông đến thì Hội Thánh mới có con đường hành pháp, khai thông thánh giáo. Bằng không thì vô phương đó các hiền.
Đang trong giai đoạn Ơn Trên chú trọng xây dựng nhà tu nữ phái Phước Huệ Đàn và dòng tu Bảo Thọ. Vì sau khi được Đức Mẹ phê chuẩn thành lập, lãnh đạo nhà tu và dòng tu cùng vào hồng thệ với Hội Thánh cũng lâm vào cảnh khảo đảo nặng nề. Trong đàn riêng ngày 15-7 Canh Tý, Đức Bảo Thọ Thánh Nương hộ trì nữ phái thiết tha răn nhắc:
Thầy thương xuống công bình tận độ
Bởi lòng ta nghiệp đố chống kình
Làm cho quyền pháp mất linh
Hóa nên hàng ngũ nhân sinh rã rời
Làm đoạn cắt giữa người và Thánh
Hóa cho nên nóng lạnh tình đời
Làm cho cơ cấu đổi dời
Cơ tâm xảo quyệt cơ Trời đâu dung
Khuyên ai nấy mau cùng hối cải
Dừng bước đời trở lại về Cha
Muốn cho lớn nhỏ thuận hòa
Phải lòng như thiết như tha khẩn cầu.
Đức Bảo Thọ Thánh Nương dặn dò:
Làm sao cũng vời cho được Giáo Tông đến thì Hội Thánh mới có con đường hành pháp, khai thông thánh giáo. (...) Chư Thiên ân cố hiệp tâm hiệp ý, chung lòng cầu xin tái ban ơn thực thi sứ mạng. Chỉ còn một tháng nữa đến lễ tấn tôn Phật Mẫu, Hội Thánh lo hướng về việc giúp đỡ nữ phái chuẩn bị đại lễ và sẽ thiết đàn thỉnh giáo.
Đàn đêm Trung Thu 15-8 Canh Tý (05-10-1960) tại Trung Hưng Bửu Tòa:
Mẹ mừng các con.
VÔ tâm thì được nhận hồng ân
CỰC Mẹ vì con đã mấy lần
TỪ đó đến nay chưa gắng chí
TÔN quyền trọng pháp mới yên thân.
Mẹ miễn lễ. Các con ngồi tọa thiền theo phép. Để thần tại Khí Hải mà nghe Mẹ dạy. Đọc và nói cho toàn con cái đều nghe.
BÀI
Hôm nay các trẻ về đây
Đón mừng Đức Mẹ xin Thầy gia ân
Mẹ nhìn con muôn phần thương xót
Mẹ dạy con đã trót nhiều năm
Lòng con như mối tơ tằm
Gỡ ra cho được bao lăm mới rồi.
Bài thi của Đức Mẹ dài năm mươi câu song thất lục bát, thấm đẫm tình giáo hóa răn nhắc cho toàn Hội Thánh:
Muốn xây dựng một tòa Hội Thánh
Thì nữ nam chia gánh liệu lo.
Qua phần tản văn, Đức Mẹ dạy:
Mẹ đã nhiều phen dạy bảo. Một là trong hàng Thiên ân, từ trên đến dưới, đều được tận tụy với nhiệm vụ mình. Nương lấy quyền pháp đó mà che thân. Mượn chức trách nầy đặng dễ bề giáng ngự lòng phàm, tiện phần lập công tu học. Các con nhờ chức vụ được gắn mà dễ bề gần Thầy được Đạo. Các con cố giữ nó cho còn thì đời con trở nên tốt đẹp, thân con không bị trần lỗ xấu xa. Con nhờ đó làm bùa hộ mạng, làm pháp tiêu oan. Ngày nào con tự bỏ nó ra là ngày đó lần lần con sẽ đi xa ngoài đạo pháp mà gần với ma tà tội lỗi.
Nếu con nào chưa thọ pháp thượng thừa thì cũng phải cầu có một chức vụ mà tu. Điều ấy cần cho các con lắm. Đứa nào có chức vụ rồi, mà lười nhác thối thác, thật là đen tối vô cùng. Đã được ơn Trời cho, hay Hội Thánh gắn vào, thì ráng giữ. Không đi hành đạo được thì ở nhà mà giữ lấy giới đó đặng tu. Nếu con nào buông ra thì quyền pháp không còn ngự.
Đức Mẹ dạy tiếp về giáo phẩm cho nữ phái, dạy về tu sĩ, việc hồng thệ, việc thọ pháp thượng thừa, việc xây dựng tu xá, thảo xá hiền cung. Cuối cùng Đức Mẹ “ban bố quyền uy khắp trong Giáo Hội. Mẹ mong sao mỗi con sống mãi ở lòng Mẹ để con được bình an và nhiều hạnh phúc.”
Quý Thiên ân tiếp nhận lời dạy của Đức Mẹ đã cùng nhau khai triển, đồng tình trên công vụ, mở ra chương trình tu học các cấp và ngay tại Hội Thánh, để đón hồng ân sứ mạng sẽ trở về cho Hội Thánh.
Hội Thánh vào lập đàn tại Tam Kỳ trong dịp kỷ niệm ngày quy thiên của Đức Bảo Thọ Thánh Nương để cầu mong tiếp ơn chỉ giáo của Đức Ngô và Đức Giáo Tông, nhưng lâm cơ lại là bậc Thiên Đồ Trung Bảo.
Phước Huệ Đàn, ngày 09-9 Canh Tý (28-10-1960):
TIẾP kỳ giáo hóa độ quần lê
VĂN chất bân bân trọn mọi bề
PHÁP đạo đã ban người gắng giữ
QUÂN đồng quân mạng quyết quay về.
Bản Quân chào chư phận sự, chư đạo tâm, chư tu sĩ. Mời an vị.
Bản Quân được lệnh Tôn Sư giao bộ Tịnh Đường để xét lại những ai sớm chiều trọn nguyện. Nhưng than ôi, máy Tạo mầu vi, lòng đời còn tà tâm tư dục làm sao thấu được lẽ Trời! Một sắc một không, chưa dễ lòng phàm thấu biết. Máy dinh hư tiêu tức thoạt thấy thoạt không. Nếu chẳng trọn đức chí thành, đâu dễ suốt tường lẽ Đạo.
Đây, Bản Quân đặt một vài chứng minh để cho tịnh chúng rõ tường mà hối quá lòng mình để sống liền trong máy nhiệm.
Cơ khí phát minh, văn minh vật chất thịnh đạt là mầm suy bại mê ngu. Thời nầy bên ngoài ngó như mỹ lệ huy hoàng, mà bên trong tinh thần quá nên suy yếu.
Thời nầy gọi là thời Bí. Sau Bí đến thời Bác. Bí Bác đã làm cho chánh pháp lu mờ, phần bè lũ tiểu nhơn đã trở nên cực thịnh.([2]) Thượng cửu ([3]) đã quá mỏng manh, như trứng trong ác. Đường đạo đã đến lúc suy tàn. Đường đạo đã suy thì nhơn loại tức khắc phải nguy vong. Ôi, ai không đáng sợ đáng kinh!
Thế mà không đâu. Trong đám tàn bạo vô lương kia cũng còn có một hào lục tam biết bỏ bầy tiểu nhân mà theo cùng quân tử. Vả lại, quân tử không bao giờ tuyệt dứt, tiểu nhân không mấy thuở trường tồn. Hễ bên nầy một âm trưởng thì bên kia một dương trưởng. Ví như bánh xe mười hai cánh đi song hành, hễ có trưởng ắt có tiêu. Nên sau cái vui có cái buồn, có cái suy tức là có cái thịnh.
Mỗi ngày có mười hai giờ, mỗi năm mười hai tháng. Lớn ra một Nguyên một Hội, đều có một quẻ hiện ra, một quẻ ẩn dấu, mà lúc nào ta chỉ được thấy sáu hào. Cũng như đêm ẩn ngày hiện vậy. Nói về tháng thì như tháng Giêng, tháng Bảy: quẻ Thái, quẻ Bĩ. Tháng Hai, tháng Tám: quẻ Tráng, quẻ Quan. Tháng Ba, tháng Chín: quẻ Quyết, quẻ Bác. Tháng Tư, tháng Mười: quẻ Càn, quẻ Khôn. Tháng Năm, tháng Mười Một: quẻ Cấn, quẻ Phục. Tháng Sáu, tháng Chạp: quẻ Độn, quẻ Lâm. Tháng Bảy, tháng Giêng: quẻ Bĩ, quẻ Thái. Tháng Tám, tháng Hai: quẻ Quan, quẻ Tráng. Tháng Chín, tháng Ba: quẻ Bác, quẻ Quyết. Tháng Mười, tháng Tư: quẻ Khôn, quẻ Càn. Tháng Mười Một, tháng Năm: quẻ Phục. quẻ Cấn. Tháng Chạp, tháng Sáu: quẻ Lâm, quẻ Độn. Vòng bên này Phục, Lâm, Thái, Tráng, Quyết, Càn, Cấn, Độn, Bĩ, Quan, Bác, Khôn; thì vòng bên kia Cấn, Độn, Bĩ, Quan, Bác, Khôn, Phục, Lâm, Thái, Tráng, Quyết, Càn. Mà lúc nào ta cũng thấy trong mười hai quẻ. Hễ bên nầy hiện ra Bác thì bên kia ẩn lấy Quyết mà chờ thời.
Nếu nói tháng nầy là tháng Chín, tháng Chín là quẻ Bác. Các hiền ở trong thời Bác nên lựa lấy hào nào để tu thân xử sự?
Sau quẻ Bác đến quẻ Phục, đến quẻ Vô Vọng, đến quẻ Đại Súc. Hôm nay Bản Quân giải ba quẻ nầy để chư hiền nương đó mà học, mà làm.
Đã nói nữ phái được hồng ân xây dựng một Hội Thánh quyền pháp thì Ơn Trên đã ban cho một bí quyết thành công. Bí quyết đó là quẻ Phục. Quẻ Phục là giai đoạn đầu của thời kỳ chỉnh cơ lập pháp, dựng lấy nền tảng quyền pháp. Thế mà nữ phái thấy gì đâu.
Từ mười ngàn năm nay chưa có một dịp nào phe yếu được đứng ra hưởng trọn hồng ân như buổi Tam Kỳ Phổ Độ. Nữ phái đã được bình đẳng trong cơ cứu chuộc của Đạo Trời. Nữ phái chung bàn sự đời việc đạo, ân phước lớn lao. Đã chết đi mà được sống lại, trong tối tăm thoát nhiên xán lạn. Đương đau khổ mà thấy an nhàn. Ơn phước lớn lao kia chẳng những riêng cho nữ phái, mà chung cho cả nhơn loại trên hoàn cầu.
Như thế là Bác đã thành công, chốc lát hóa buổi Thuần Khôn đen tối. Thầy phát tâm từ bi, thị hiện giữa thế giới tàn tạ khôn cùng. Quay ngược bánh xe thiên điển, tái tạo cho loài người chuyển Khôn thành Phục. Vì thế mà bốn biển hồi sinh, vạn vật nơm nớp sống còn, thấy được lòng từ bi háo sanh của trời đất. Vậy muốn biết được lòng thương yêu tái tạo, loài người không ngó đâu ngoài mà ngó vào quẻ Phục.
Quẻ Phục hào sơ là hồn nhiên Thiên lý, bản thể chúng sanh.
Lôi đã khởi đầu thì trập trùng vạn hóa khởi sinh. Mà Phục là quay về trở lại nguồn gốc vô vi thanh tịnh, nhứt khí hư vô.
Khí ấy là mẹ đẻ khắp vạn loại. Khí hư vô là đó. Khí đã khởi sinh thì bản lai hồi cổ. Nên dưới Khôn có Chấn cũng như đất có huyền khí thượng thăng. Mà đó cũng là Tổ Mẫu huyền quan nhứt đạo. Ráng gắng công tu dưỡng ngày ngày, đem hết thức quan tâm năng vào trong mà ôn tu điều dưỡng.
“Sơ cửu bất viễn phục.” Ví như Nhan Hồi chẳng lỗi hai lần. Dẫu cho trung chính đương quyền. Dầu cho trung chính đương quyền như lục nhị cũng phải hạ mình mà tùy thuận theo quân tử dương đạo. Sao các hiền không noi lấy để tu? Mãi cứ la đà mê đắm như lục tam tồn thất tồn phục, tham muốn hư thân, sám hối nhiều lần, tu rồi bỏ, bỏ rồi tu, kết quả cuộc đời ở đâu vào đó.
Dầu ở trong thời Phục, lắm người tội lỗi, chống chế quyền pháp, cố hại người hiền. Các hiền không đủ sức dàn xếp cản ngăn thì ở như hào lục tứ: “Độc Phục”, thành tâm theo thời mà dưỡng chí. Nếu hiền nào cảm thông lý nhiệm thì gắng lòng “độc Phục”. Đừng trái chống như thượng lục, tội lỗi vô cùng. Tội lỗi này quá nên táo bạo, song chống Trời thì không nơi an ổn.
Về quẻ Thiên Lôi Vô Vọng, hào sơ cũng như hào sơ cửu quẻ Phục. Đã vô vọng là hồn nhiên Thiên lý, chẳng để một mảy riêng tư. Chư tu sĩ ở đây đã nguyện đi lên đường giải thoát, phải làm sao tu lấy vô vọng. Phải luôn luôn chờ đợi lệnh Thầy. Biết thời mà xử sự. Vô vọng rồi thì thiên hạ tôn trọng. Thiên hạ tôn trọng là vì mình tu được tâm vô vọng.
Sơ cửu, lục nhị đứng trong thời động mà động là vô vọng. Cửu tứ, cửu ngũ đứng trong thời tịnh mà tịnh là vô vọng. Còn như thượng cửu thì thân phải nguy. Hơn nữa, tu mà không kềm chế được bản tánh, không in khuôn quyền pháp nên phải chịu cái vạ vô cớ, họa gởi tai bay. Như hào lục tam không ăn trộm trâu mà người nghi mình cất giấu. Ở trong thời vô vọng mà còn vọng. Đã tu mà chẳng khép nép tinh tường để cho tà niệm vọng lên, nên người lấy đó mà làm ngờ. Nên khuyên người cẩn thận gìn giữ.
Đã tu phải bị khảo. Ma có khảo đạo mới thành. Sự thử thách nầy nào khác chi hào cửu ngũ, đã trung được chính thì có ngại gì tai tật qua loa.
Thế thường, hãy đau là uống thuốc. Có điều ở trong vô vọng thì có tật gì. Dù có như Khổng Phu Tử bị vây khổn ở Trần, Thái mà giữ được thanh tịnh thì tự nhiên rồi muôn việc cũng qua, lại tỏ được cái chí mình hồn nhiên vô vọng (là thuốc). Nên người tu như các Thiên ân hướng đạo, như chư tu sĩ xuất gia lo gì không đủ trợ duyên, không phần no ấm.
Ăn cơm nhân dân, làm việc xã hội, thọ ân đạo tràng, khai thông đạo pháp. Làm con người Giáo Hội sống với mười phương, đừng nhỏ nhen. Ăn cơm nhà, làm việc nhà, là chưa phải con người tu sĩ.
Quẻ Đại Súc, tương tự cho biết là uốn nắn con người. Con người có cái lòng vô vọng, có cái pháp vô vi uẩn súc nơi trong được đầy đủ tài đức để gánh vác Đạo Trời, lo cho phong thuần tục mỹ.
Súc tụ được tinh ba Tạo Hóa, quyền pháp đủ đầy thì lo gì không vui đẹp. Nhưng người quân tử không nên chấp một điều nào mà quán vô thường vô ngã, vô tướng vô nguyện để chịu đựng bao nghịch cảnh oái oăm.
Không phải lúc nào dương cũng cứng, âm phải mềm. Ở thời Súc nầy, âm súc dương, nên người quân tử phải biết thời mà hạ mình, ẩn nhẫn lo trọn lấy đạo vô vi.
Ôi! Sơ nhị dương cương quân tử, mà sơ bị lục tứ chỉ súc, nhị bị lục ngũ ngăn cản, thế mà sơ phải ép nép chịu lui. Nhị được trung kiện Càn tượng mà cũng thối bước dừng chân. Ôi, cái thời sao mà quá đau đớn cho người quân tử ! Dầu tài ba đức độ như cửu nhị cũng phải tháo trục gác xe.
Âm đã đến buổi cường bạo lớn lao thì dầu dương có cương kiện cũng không sao tiến được. Tứ âm mà súc sơ dương đến như câu “đồng ngưu chi cốc” lục ngũ mà súc cửu nhị, thật không còn nói ứng đối làm gì. Nhơn tình là thế. Đau đớn cho hào lục ngũ, tàn bạo như vật có vuốt có nanh. Nếu không biết cách tảo trừ độc hại thì đạo pháp đâu còn. Vì vậy mà nói “Phần thỉ chi nha, cát.”
Các hiền tu nên học quẻ nầy để xét xử nhơn tình, an mạng thính Thiên. Quẻ nầy âm súc dương tức là tiểu nhơn cầm giềng quân tử. Nên hào cửu tam, thượng cửu lại tương đồng tương đắc, hòa nhau mà tiến, lo cho mối đạo đại hành.
Ba quẻ nầy, nên đem ra học tập, nên thảo luận tìm bí pháp.
Tiếp Văn Pháp Quân là quả vị của tiền bối Cao Hữu Chí, một hướng đạo dày dạn chí tâm vì nhơn sinh. Giai đoạn đạo Cao Đài bị ngăn cấm tại Trung Kỳ, Tiền bối đã thân hành đó đây với đôi gánh mua kén bán tơ, nhưng thực sự là gánh đạo đi truyền thánh ngôn, thánh giáo. Hồi đó Truyền Giáo còn là Cơ Quan, tiền bối là Đại Diện Hiệp Thiên Đài cùng với Quyền Hiệp Lý Phan Thiện Trì (Đại Diện Cửu Trùng Đài) chăm lo đảm đương đạo sự.
Khi hướng đạo Cao Đài bị bắt ra tòa, tiền bối bị lâm vào án tử và tiền bối đã nói với đồng tử Liên Hoa và đồng tử Diệu Thông tại phiên tòa Hiền Lộc: “Hai anh rồi sẽ được về thôi. Còn tôi, Đức Chí Tôn đem về bằng cách nầy. Các anh ráng giữ gìn sức khỏe để còn phụng sự đạo pháp và nhân sinh.”
Tiền bối đã về Thầy với bảy phát súng vào tuổi năm mươi. Đàn ngày 23-8 Ất Mùi (08-10-1955) tại thánh thất Thái Hòa (Quảng Nam), Đức Lý Giáo Tông sắc phong cho tiền bối quả vị Bảo Nguơn Chơn Quân Cao Tiếp Văn Pháp Quân đứng trong hàng Thiên Đồ Trung Bảo hộ trì phần vô vi Cơ Quan Minh Tra.
Đức Cao Bảo Văn Pháp Quân đã về cơ nhiều đàn dạy đạo cho Hội Thánh. Nay trong cơ khảo thí tinh vi tế nhị nầy Đức Tiếp Văn Pháp Quân giáng điển dùng lý Dịch chứng minh lẽ dinh hư tiêu tức của cõi thế vô thường và cho Hội Thánh học ba quẻ liên tiếp của Thượng Kinh: 24 Địa Lôi Phục, 25 Thiên Lôi Vô Vọng, 26 Sơn Thiên Đại Súc. Bậc Thiên Đồ đã giải trình rất thích ứng với vận hành cơ đạo theo Thoán Truyện, Thoán Từ, Hào Từ của từng quẻ. Thật là “Văn chất bân bân trọn mọi bề”.
Ngày 10-9 Canh Tý (29-10-1960), kỷ niệm ngày quy thiên của Đức Bảo Thọ Thánh Nương, đàn cơ thiết lập tại nhà tu Phước Huệ vào giờ Tý:
TRỊNH trọng xin thưa quý đạo tràng
THỊ thành lui bước lánh vua quan
THANH bần chiều sớm vui mùi đạo
Mừng thấy hồng ân thấy nhẹ nhàng.([4])
Được lệnh Từ Tôn Phật Mẫu (…), tệ muội kính cẩn chào mừng quý liệt vị Thiên ân. Chào quý đạo tỷ và chị em thân mến.
Từ khi tách bước đường đời về chầu Phật Mẫu, được hồng ân độ khắp đàn tràng. Nhìn lại chị em lúc nọ, mà buồn buồn cho phận liễu bồ. Chị em ta được quyền pháp sớm chở che cũng chưa thoát thường tình nhi nữ. Dù được duyên chung trong lẽ sống hồi sinh mà lòng giác ngộ chưa mấy người dứt xong nợ thế. Nếu bây giờ chị em ta còn trù trừ dụ dự, thì nước ngược khó quày. Một thuở hồng ân chẳng gắng, muôn đời ân hận lầm than.
Chị em ôi! Lúc ta chưa tu đâu thấy nhọc nhằn. Mặc tình buông lái thả chèo, trối cho dòng nước chảy xuôi, coi cách nhẹ nhàng phơi phới. Đến khi ngó lại bến cũ xa mù, mới trở quày thuyền lại thì gặp phải nước ngược gió nà. Chị em ta cố gắng, cố gắng quá nhiều, nhưng vì đi ngược nên thấy quá chừng lâu lắc. Lâu mặc kệ lâu. Lòng ta đã quyết. Có quyết mới thành công. Có mệt nhọc vì xé nước rạch chằm mới mong trèo qua gành thác.
Chị em ôi! Ta đã buông xuôi thuyền lòng trôi theo dòng nước đời quá sức xa rồi, nên khi quày trở lại phải chịu lắm ngày khó nhọc. Bây giờ ta phải gắng lên, gắng lên thêm nữa cho nhiều. Nếu lười nhác đổ liều còn trụt lùi cho tới âm ty mù mịt.
Tệ muội đây số kiếp có chừng, nên bước tu có ít, công trình tu học chẳng bao nhiêu. Bao phen quỳ dưới Diêu Tòa, tệ muội xin xuống trần gian bồi đắp lấy công phu, công quả. Nhưng Mẹ Từ Tôn e sợ buổi thế mãn, nghiệt quá nhiều, nếu một bước hớ hênh khó mong ngày trở lại. Nên lòng tệ muội đây nửa quyết nửa không. Quyết là vì nghĩ uổng một dịp hồng ân mở đường giáo hóa. Dịp nầy nếu tu ắt được đứng trong Cửu Phẩm Liên Đài. Không lẽ vì sợ mang lấy xác phàm, tình thức đa đoan, phải sa đắm, hồn chôn trong ngũ trược thì bao giờ trở lại vị cũ quê xưa. Nên tệ muội nương sức oai thần, dùng điển lực vô vi để hộ phò chư tu sĩ, ít nhiều cũng được chút công. Tệ muội thấy hữu hạnh nhứt là chị em có đủ các tiện nghi giải thoát. Thế mà chị em còn trông đó ngó đây, chừng đến khi hoàn cảnh đổi thay, trào lưu xoay ngược, thì một thân nô lệ cho muôn người, không khéo rồi phạm đến luật hình, phải chịu trong vòng tên bay đạn lạc. Vậy phải gắng cho nhiều.
Nay tình chị em, không gì để gọi chút nghĩa tri ân, nên xin có mấy lời tặng dâng để kỷ niệm.
Xin cảm tạ lòng từ bi dìu dắt của chư đại đức Cao huynh. Chơn thành kính viếng quý chú, quý cô và quê hương họ đạo.
Thôi, chư đạo tâm đón chị Bảo Thọ Thánh Nương. Tệ muội xuất cơ chầu dạy.
TIẾP ĐIỂN
Chào chư Thiên ân đại đức, chư đạo tâm hiền nữ tại đàn.
BẢO bảo khuyên khuyên đã lắm rồi
THỌ trì pháp đạo chớ buông trôi
THÁNH phàm bởi tại nơi mình chọn
NƯƠNG ở hồng ân mới vững ngồi.
Cười... Quý vị biết nói gì đó không? Hôm nay chị em có lòng nghĩ đến tôi, cùng về chung vui trong ngày lễ kỷ niệm. Tôi không có gì đáp lại thạnh tình quý báu kia, chỉ nguyện mãi mãi cho đến bao giờ, cũng hộ phò con đường tu của chị em tận khi được trở về với Mẹ.
Chị em ôi, cơ khảo thí quá tinh vi! Một lần làm cho lòng ta ngẩn ngơ ngao ngán. Sự quá khó khăn. Khó khăn nầy sức người không giải quyết được, thì rồi nhiều lần nữa mới liệu làm sao?
Ôi, nó quá tinh vi tế nhị, ẩn hiện phi thường! Nếu chị em thiếu dạ kỉnh thành, thiếu lòng thanh tịnh, nó có thể đẩy hất chị em ra ngoài quyền pháp. Bởi vậy mà lòng tôi cứ mãi phập phồng từ phút từ giây. Chị em không đủ sức chịu đựng khó khăn, đủ óc sáng suốt phân biệt hư nên thì một kiếp dở dang, ôi thôi mấy đời gặp lại.
Lòng tôi tuy đã dứt mối tư tâm, ra ngoài phải trái, mà lắm lúc cũng thiếu bình tĩnh đứng vững trước cơ đạo ngửa nghiêng, trong khi khảo thí. Chị em còn vui đây vui đó, đặt nhẹ lòng tu, chưa thấy cái khổ tròng đến nay mai, mà cứ vọng ước việc đâu đâu ngoài phần giải thoát. Chị em còn mơ còn luyến, làm sao bước đạo nhẹ nhàng. Nếu tuổi xuân ưng nếm mùi đời, thì đừng đeo lòng làm Tiên làm Phật. Mà hễ tu, thì quyết từ đây đoạn hết ái ân danh lợi cho rồi. Lòng có được trống không vắng lặng thì mới cùng Tạo Hóa đồng thân, mới thấy mầu nhiệm giải thoát. Vậy tôi khuyên chị em phải dọn sạch lòng mình. Lòng mình dọn sạch thì muôn vật đều không, đâu còn sợ được sợ thua, thân không lành mạnh.
Hôm nay tôi lấy tư cách người bạn nói cùng chị em. Nếu chị em chẳng giữ đúng pháp quyền, lơ là công phu tu học thì Phước Huệ Đàn thâu lại, chức Bảo Thọ xin về, đừng nói quyền uy quá lẽ. Hễ tu trên hết là Tôn Sư, ngoài ra là công phu, công quả, không có hai thầy. Nếu muốn đó có đây thì quyền pháp lẽ đâu minh định. Vậy từ nay, mọi việc thanh tịnh, giữ dạ hư sinh, chờ Tôn Sư phán định.
Việc thánh sở cũng chuẩn bị một nơi nào vừa thánh ý vừa nhơn tâm mới tụ được pháp quyền mà an xử. Vì ngày giờ tai biến xảy ra, chư chị em thiếu đức thiếu quyền, phải nương cậy hồng oai che chở. Mọi việc chờ Đông Chí mới quyết định cho tổ chức. Các chị em nương cậy Hội Thánh, nương ở quyền pháp mà tu. Ma có khảo, đạo mới thành. Khảo có lắm, có tôi chia san khó nhọc.
Hôm nay không phải đàn nữ phái, nên về việc an trấn pháp quyền phải chờ một kỳ khác. Tôi chỉ mong chư Lễ Sanh làm hết bổn phận mình, giúp đỡ chị em trong họ đạo một hướng tu hành. Phần yếu trọng cho bản thân là năng cúng sám, công phu, để lòng thanh tịnh.
Về Nữ Đoàn, đâu đó chị em toan liệu cùng lo. Đã đặt mình trong giải thoát chớ có hẹp chật riêng tư, mà phải hòa đồng sức sống, chung tay xây đắp Nữ Đoàn. Trì pháp luyện châu tịnh tọa mỗi ngày một giờ để lòng mình tươi sống. Mọi việc nói chung phải ước giảm kiệm cần. Bớt qua lại phải không, đoạn duyên giản sự để cầu thanh tịnh vô vi. Ăn mặc giữ bình thường, đừng quá khắc khổ hành thân, mà cũng đừng quá lo bề cung phụng. Ráng tu, chỉ có tu là hơn cả. Tu mới cứu được sứ mạng, mới mong có cơ chỉ thành hình, mới thấy một ngày vui đẹp, mới an thân trong lò lửa nguyên tử bùng cháy, mới vững bước đường đời, khỏi sợ ma kéo nghiệp vây, mới chứng thanh tịnh vô vi. Trong tay đủ quyền đủ pháp, ngày thành Tiên Phật chẳng lâu. Nếu lười nhác lơ là, họa đến thân không chỗ tránh.
Thôi xin chào quý liệt vị, chư đạo tâm. Xin hẹn có ngày sẽ bàn thêm nhiều việc.
Mặc dầu Đức Lý Giáo Tông chưa lai đàn, nhưng Đức Mẹ, chư Thiên Đồ Trung Bảo, chư sư hữu quá cố đã lân mẫn vạch đường chỉ lối cho bước đạo đang hồi khó khăn.
Đàn tại Trung Hưng Bửu Tòa ngày 29-9 Canh Tý (17-11-1960), Đức Trần Tổng Lý cho biết một vài sở do để Hội Thánh toan liệu việc an toàn Giáo Hội. Điều cốt yếu là mỗi mỗi hành động phải đồng ý chí thuận hành, thì Ơn Trên cũng chấp chuẩn. Về đối nội, Đức Tổng Lý dạy:
Lúc nầy nên làm cho nhau có một chủ trương rộng rãi, đứng trên một lập trường duy nhất. Cũng như chỉ huy một đoàn quân, tướng, tốt phải theo mệnh lệnh chủ soái. Nhằm vào tiếng trống mà đi, tiếng chiêng mà về. Ngó ngọn cờ mà lui tới, thì vạn nhứt làm gì không thành công. Nếu lập thuyết vững và hàng ngũ chặt chẽ thì đứng trong cảnh nào cũng yên ổn cả. Rồi phần mình, lo phần bạn. Phải liên kết các chi nhánh trong nội bộ, để cùng một sứ mạng hoằng pháp độ sanh. Điều này rất trọng hệ. Dù muốn dù không, hoàn cảnh phải đến đó.
Đối ngoại, không đương đầu một việc gì gây hư tệ, hoặc xung phong chịu nhận môt phần việc chi mà chung quanh mình chưa có ý kiến, thì được lòng nhau, mà danh nghĩa cũng tỏ rạng. Nghĩa là không cùng với ai, nhưng cả thảy đều cùng, thì ta cũng phải cùng, mặc dầu điều ấy xa lẽ thật.
Đặc biệt Đức Lý Giáo Tông đề cập đến việc xây dựng nghĩa địa Xá Lợi Tàng Viên,([5]) Đức Trần Tổng Lý giải thích:
Trong lúc an táng hài cốt xuống đất thì bát quan tình thức còn bám sát xương máu, cho đến lúc cốt hài rã tan thành đất thì bát quan tình thức đó mới lìa khỏi thi hài. Chờ cả một thời gian dài dặc, làm trở ngại cho bản thể hồi sanh, hoặc hoàn thành túc mạng. Nên về nghĩa địa, cần lý giải nhiều các đệ mới cảm thông. Nên lập Xá Lợi Tàng Viên là mục đích tạo cảnh phương tiện tận độ cho bá thân bát thức còn trói cột trong các xiềng xích vật chất.
Theo chỉ dẫn của Đức Trần Tổng Lý, Hội Thánh mở cuộc họp chung trong dịp Xuân Tân Sửu để lo việc Giáo Hội: Thành lập nghĩa trang Hòa Cầm (Hòa Vang, Đà Nẵng) và tổ chức thiên di hài cốt Thượng Chánh Phối Sư Nguyễn Chơn Khai và Tiếp Văn Pháp Quân Cao Hữu Chí về an táng tại đó. Đồng thời cải táng phần mộ của tiền bối Đặng Vịnh từ Trung An về Ngọc Linh Đài (Bình Định). Việc hành chánh đạo, Hội Thánh cử Giáo Sư Thái Phẩm Thanh kiêm nhiệm chức vụ Đầu Tỉnh Đạo Quảng Tín tại Tam Kỳ. Cử Giáo Sư Ngọc Trường Thanh kiêm nhiệm chức vụ Đầu Tỉnh Đạo Phú Yên thay thế Giáo Hữu Đặng Quang Minh bị huyền chức, đồng thời cử Giáo Hữu Ngọc Bình Thanh tái nhậm chức Đầu Tỉnh Đạo Bình Định thay thế cho giáo Hữu Ngọc Xuyên Thanh về phục vụ tại Hội Thánh.


([1]) Quẻ Hỏa Trạch Khuê: Thời chia lìa, rất xấu, nhưng trong họa vẫn nấp cái phúc. Quẻ Trạch Hỏa Cách: Cải cách, cách mạng phải hợp thời, hợp đạo, sáng suốt, chí thành, được lòng tin của nhiều người.
([2]) : Quẻ Sơn Hỏa Bí (trang sức). Có trang sức mới văn minh nhưng nên trọng chất hơn văn (nội dung hơn hình thức). Bác: Quẻ Sơn Địa Bác. Thời âm thịnh dương suy, tiểu nhân hại quân tử; nên tạm im hơi lặng tiếng, đừng thất vọng.
([3]) Hào dương trên cùng của quẻ.
([4]) Trịnh Thị Thanh: Nữ tu dòng Bảo Thọ, là cháu gọi tiền bối Trịnh Trung Tín (Quyền Chánh Phối Sư Ngọc Tín Thanh) bằng chú ruột, sinh năm 1925 tại An Tráng, ngã bệnh một ngày rồi quy thiên năm hai mươi mốt tuổi.
([5]) Xá Lợi Tàng Viên: Vườn tàng trữ xá lợi (nghĩa địa cốt thiêu), thích hợp cho những cốt chôn tập thể, cải táng thiêu.



PHẠM VĂN LIÊM