Hà Nội: Nhà xuất bản TÔN
GIÁO, 2016
MƯỜI HAI
Sau đàn cơ ngày 19-3 Mậu Tuất (Thứ Tư 07-5-1958), Hội
Thánh đưa bộ phận phò loan vào Phú Yên để chia sẻ đàn cơ giáo pháp với các
tỉnh. Tại Phú Yên, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giá lâm vào Tý thời ngày 28-3 Mậu
Tuất (Thứ Sáu 16-5-1958) tại Văn Phòng Tỉnh Đạo.
Đức Chí Tôn phủ dụ bổn đạo đừng đứng núi nầy trông núi
nọ, tách rời ngoài thánh thể yêu thương, chạy theo trào lưu danh lợi, cầu cạnh
giá trị ảo huyền, mà hãy tin tưởng vào hồng ân tận độ của Thầy trong buổi đời
cùng cuối.
Đức Chí Tôn điểm danh Tỉnh Đạo Phú Yên và các thánh thất
trực thuộc:
Phú
Yên Tỉnh Đạo gắng lo
Sông mê sóng gió lái đò rước đưa
Cuộc đời còn phải gió mưa
Đạo lành bổn phận sớm trưa an toàn.
Minh
Trung đã huy hoàng thánh thể
Thì người tu chớ
để mỉa mai
Danh ta danh của Cao Đài
Làm sao sáng tỏ mới tày Minh
Trung.
Minh
Đức khá gìn lòng chớ phụ
Buổi Tam Kỳ gồm đủ hồng ân
Tu công lập hạnh ân cần
Thắng cơn khảo đảo, lãnh phần thưởng ban.
Minh
An phải bảo an trật tự
An rồi lo giáo tứ bảo dân
Khai cơ
sớm có hồng ân
Pháp quyền man mác chia phần gìn tu.
Tịnh
Quang ở công phu, công quả
Gắng chung lo đắp vá thương lòng
Lòng Thầy ngày được ước mong
Mong sao hòa ái tròn xong tâm thành.
Tịnh
Sơn nhờ phước
lành ân hậu
Gắng qua cơn miệng sấu nanh hùm
Biết rồi quyết chí lên cùng
Kịp kỳ quyền pháp thông công hội này.
Tịnh
Thành phải chung bầy hiệp bạn
Phải thường xuyên lọc gạn thường tình
Phải lo tu học cho minh
Lớn thương
nhỏ kỉnh, công bình
là cha.
Tịnh
An nhớ chỗ hòa Thầy ngự
Con có hòa vẹn chữ nghĩa nhơn
Gậy quơ còi túc ngàn sơn
Đem đàn chiên lại tránh cơn hiểm nghèo.
Thiện
Hòa nhớ mà trau hai chữ
Thiện và hòa đố thử làm coi
Làm xong ngôi thứ hẳn hòi
Hồng ân quyền pháp sáng soi để làm.
Trung Tông Đạo hầu như đi dần đến chỗ thành tựu nguồn ân
tận độ do cơ giáo pháp mở ra cho Hội Thánh Truyền Giáo. Ơn Trên liên tục chỉnh
đốn cơ chế, ban trao sứ mạng thực thi chánh pháp trung hưng, tướng tâm hiệp
một, hành đạo tịnh luyện đi đôi. Mỗi Thiên ân chức sắc Hội Thánh được đặt để
phận sự là công vụ sứ đồ thực thi sứ mạng. Hành đạo theo cơ chế ba phái, bốn cơ
quan. Tịnh luyện theo bốn tầng bậc công phu. Hầu như trải qua sáu năm cả Chỉnh
Cơ Lập Pháp và Khai Cơ Giáo Pháp, Hội Thánh Truyền Giáo đã đạt được nề nếp tương
đối khả quan.
Ngày 22-4 Mậu Tuất (Thứ Hai 09-6-1958) tại Trung Hưng Bửu
Tòa, Đức Trường Canh Thái Bạch dạy:
Thái Hư một khí trọn muôn lành
Bạch Ngọc Thầy thương độ chúng sanh
Trường đạo quả công tu tập gắng
Canh chầy tiếng trống điểm hồi minh.
Bần Đạo chào chư chức sắc, chư đạo hữu nam nữ. Tịnh đàn an vị nghe dạy.
Bần Đạo sung sướng biết bao nhiêu. Cảnh thử thách của kỳ tổng dượt khoa thi
trong thời Lâm (khai cơ) tiến sang thời Thái. Cuộc khảo thí tinh vi để gạn lọc
thánh phàm, phân ngôi định vị, nên toàn đạo sớm biết mà giữ mình.
Nước thiên đường không chứa người phàm tục, cửa thánh đức chỉ rước bậc
thánh tâm. Ngôi Trung Hưng đạo pháp xây dựng một cơ sở thánh hiền, hàng đẳng
Thiên ân nên khép nép thân hình để lòng tu học, chóng được nên người khâm mạng
giáo đồ, xứng trang quyền pháp.
Từ đây trở đi Bần Đạo chấp chưởng quyền hành, nhứt định không vị tình
riêng, giữ công bình để bảo vệ chơn truyền Hội Thánh. Vị nào tròn công xứng
đức, Bần Đạo cầu xin thăng thưởng xứng đáng. Vị nào ương ngạnh biếng nhác, Bần
Đạo hủy bỏ ra ngoài hành chánh. Đạo hữu cố gắng tu hành quyền pháp từ đây minh
bạch, trong ngoài trật tự tôn nghiêm. Vị nào giác ngộ ráng lập công, Bần Đạo
hứa dắt dìu. Vị nào thấy không đủ sức đảm đương thì đưa tờ xin nghỉ.
Chư Thiên ân từ Giáo Hữu cũng như Sĩ Tải trở lên buộc phải phế đời hành
đạo. Vị nào có lý do thì làm sớ tâu xin có thời gian nghỉ phép. Ai cãi lịnh bị
ngưng quyền. Từ Lễ Sanh đến Chánh, Phó Trị Sự phải y theo nội lệ và quyền hành,
tùy phẩm mà giữ giới hành đạo, chịu sự điều khiển của Hội Thánh, dưới quyền
điều khiển của Giáo Hữu sở trách. Nếu tước vị hồng ân quá trọng mà không đủ tư
cách để được tròn xứng thì được quyền huyền chức một thời gian, khi nào đủ điều
kiện sẽ thọ phong, lại ra hành đạo. Chư Thiên phong và Hội Thánh thi hành.
Các hiền Hội Thánh từ đây, nội bộ lo chỉnh đốn quyền pháp lưỡng đài minh
bạch.
- Hiệp Thiên Đài là tòa ngự của
Thầy. Thầy đến đó để trao yêu thương cho toàn con cái. Hội Thánh đến đó để gặp
Thầy tỏ lòng trong trắng lãnh lấy yêu thương. Trời đến đó, người đến đó. Đến đó
không phải đến nơi lầu cao mỗi đền thất, mà là đến luật pháp vậy. Thầy đến cùng
người bằng luật pháp mà trao yêu thương, ban quyền sống cho đời. Người đến đó
để lấy phần phước xứng đáng thì cũng đến bằng luật pháp mới gặp Thầy.
Vì vậy cơ cấu Hiệp Thiên Đài buộc từ đây phải giữ quyền hành pháp luật mà
bảo vệ Hội Thánh, đưa bước nhơn sinh.
- Cửu Trùng Đài là đẳng cấp
thiêng liêng để chư nhơn sanh tiến bước về ngôi thượng phẩm, hành công lập vị ở
mỗi cõi trời. Trời Phật cũng theo đẳng cấp đó đến khai hóa độ người cứu chư
Thiên, chúng Thánh thì phẩm vị hành pháp phải được chặt chẽ sáng tỏ. Từ đây Bần
Đạo sẽ đến sắp xếp.
(…)
Thôi, giờ nầy chư hiền dọn mình đón mừng hiền hữu Thái Sơ Thanh đã đủ một
trăm ngày du Địa Quan về phục lịnh và sau đó gặp gỡ có lời nhủ khuyên.
Truớc giờ hiền hữu Sơ nhập đàn có chư Trấn đến mừng và Thầy ban phong Thiên
vị. Vậy tái cầu đón tiếp. Bần Đạo kiếu.
TÁI CẦU
Quan môn mở rộng đón hồng ân
Thánh đức dồi trau Phật quốc gần
Đế nghiệp Thuấn Nghiêu trên thiện phước
Quân thần bình đẳng trị an dân.
Lão chào chư Thiên ân, chư đạo hữu, đạo muội.
Giờ nầy Lão đến đón mừng hiền đệ Thái Sơ Thanh đã hoàn thành sứ vụ cứu độ
chư linh nơi Địa Phủ.
Vậy toàn đạo cùng Lão ngâm câu:
Quyền pháp linh thiêng siêu pháp giới
Tu công lập hạnh
chứng Kim Bàn.
Đồng ngâm vui sướng thay! Lão chào chư đệ chư muội.
TIẾP ĐIỂN
Quan thọ bồ đề ngộ đạo cao
Âm ty tận
độ phải truyền trao
Bồ đoàn năng tịnh thân vô ngã
Tát thị từ bi đến động đào.
Bần Nữ chào chư Thiên ân, chư đạo hữu, đạo muội. Giờ nầy Bần Nữ lâm đàn đón
chào hiền đệ Thái Sơ Thanh và mừng chư Thiên ân Hội Thánh thành công kỳ tận độ chư linh thoát U Minh
Địa Phủ.
Bần Nữ an lạc như tịnh, ngâm câu:
Quyền pháp Trung Hưng khai ám thất
Cứu nhơn độ thế
chứng Tiên Thần.
Bần Nữ chào chư vị.
TIẾP ĐIỂN
Đông độ ngày thành thoát khổ đau
Phương trời cứu chúng quản gì bao
Tổ thuật khai môn thoát nghiệp đầu.
Bần Đạo chào chư Thiên ân, chư đạo tâm.
Giờ nầy Chí Tôn ngự cơ đón chào hiền đệ Sơ Thanh thành công trên đường tri
ân cứu độ, mừng Hội Thánh quyền pháp đắc linh.
Chư hiền thành tâm cung kỉnh tiếp giá. Bần Đạo chào.
TIẾP ĐIỂN
Cao thanh được hưởng phước cao dày
Đài ngự bên Thầy báu trọng thay
Thượng đạt noi gương người thánh triết
Đế đầu sám hối được ơn Thầy.
THẦY CÁC CON.
Thầy mừng các con.
Giờ nầy Thầy đến cùng các con để ban khen công hạnh của Như Sơ lúc bình
sanh dày công tu học, lao khổ vì Đạo, thương mến nhơn sanh. Nó đã chiến thắng
được ma lực, cảnh huống khổ đau. Nó giẫm trên chông gai, vượt qua chướng ngại
mà vui, nung sôi lòng đạo. Mặc dù ngày trước còn ở thế lung lạc say đắm bảy
tình, nhưng khi giác ngộ giữ trọn giới luật. Thầy khen tặng vào hàng nhị đẳng: Nhất Phẩm Nhị Thừa Hoan Hỷ Chơn Quân.
Vậy các con cùng Thầy một ý đó chớ gì, phải không?
Hôm nay các con kể ra cũng được tròn một phần nhiệm vụ độ hồn. Kỳ truy
phong lọt sót số đạo đồ, hôm nay mới truy cứu được. Nhưng các con phải cố công
một ít nữa là lọc lại những con nào có danh sách trong họ đạo mỗi tỉnh thì làm
ra một bộ tử. Còn cha mẹ, anh chị em, bà con của đạo đồ vì công cán tu học của
đạo đồ, hoặc con đó có lòng tin và hộ trì pháp đạo thì để riêng ngoài bộ thánh
mà gọi là danh sách tri ân. Còn số được truy phong siêu bạt trong ngày mồng 8
tháng 4 năm Đạo 31 ([2]) thì để y linh vị cũ, sau sẽ phân lại, Như Sơ
sẽ phân ngôi thứ.
Thôi Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
TIẾP ĐIỂN
Chào mừng Hội Thánh. Chào chư Thiên ân và mấy em có nơi đàn.
Thái dương soi sáng khắp Tây Đông
Sơ bộ chung xây cảnh đại đồng
Thanh tịnh mà tu nhờ phước huệ
Mừng vui gặp
được mối Trung Tông.
Sung suớng! Hôm nay đón mừng thánh ân tiếp kỳ phước huệ, mà lại vui mừng về
đây gặp được quý Thiên ân, đạo đệ, đạo muội, và đạo hữu mười bảy thánh thất
cũng như mấy em ở Quảng Ngãi có mặt ngày nay.
Đời của anh lúc sống làm đạo, dù ở cảnh ngộ nào mà gặp được đạo hữu là mừng
vui, mà bao nhiêu buồn vui mệt nhọc cũng trút được. Vì vậy thấy làm đạo an
nhàn, thấy mình không cô độc. Sống có nhau, khổ vui cũng có nhau, một gia đình
đầy yêu thương tin cậy. Trên có Trời Phật, dưới có đạo tràng. Ngày tháng
thung dung không bận rộn.
Hôm nay nền đạo Trung Tông Hội Thánh ta công việc nhiều, đạo hữu ta kiệt
quệ về kinh tế và gặp hoàn cảnh khảo đảo, mấy em tuổi còn non trí còn cạn. Đã
đành tam ngu thành hiền, nhưng hiền thánh ở thời nầy một thân cũng khó làm cho
kẻ dại cảm mến. Người ít việc nhiều, phân tán mỗi nơi, thi hành mỗi việc, phân
chia lực lượng như thế khác gì lốm đốm lửa, dồn lại thì sáng, chia ra thì mờ.
Nhưng tin ở Thầy, cậy ở ta, có quyền pháp mà bạo dạn làm những việc lớn lao.
Tội nghiệp mấy em! Nếu anh được cùng sống để chia sớt nỗi ưu tư, mà nặng
nhọc cùng Hội Thánh cùng đạo hữu. Thôi, vẫn biết cơ Trời phải thế. Có vậy mấy
em mới biết tự cường tự chủ, chịu gánh vác việc đạo cho nhơn sanh. Nếu mấy em
còn quý Anh Lớn, thì làm sao thành nhân trong giai đoạn Khai Cơ Giáo Pháp nầy.
Đã nhảy lên một nhảy dài thì một lòng thẳng bước. Đã cho thuyền khỏi bến thì
nhắm tới một lèo.
Hôm nay Hội Thánh quý anh tịch tịnh rồi, thì ráng sức đảm đương quyền pháp,
gắng lòng thắng khỏi cơn khảo đảo mà tu, nương nhau trên dưới hòa thân, khó
nhọc cùng nhau bàn bạc, nên hư khuyên nhắc chung lo. Lấy dạ đạo đức thương yêu
cùng đạo hữu. Khiêm nhượng ân cần ở với các Đầu Họ, các cơ sở truyền đạo giữ
đạo.
Về việc gia đình, vợ con, em cháu nên vui sướng mà tu. Con người ở thế gian
không ai khỏi bị nghiệp báo lôi cuốn trong vòng sanh tử khổ đau, chìm đắm trầm
luân trong khổ hải. Nếu không giác ngộ thì bị mãi trong kiếp tối tăm nầy. Nên
có duyên gặp Thầy gặp Đạo, thì ráng mà tu, lập công bồi đức, để sau về lạc quốc
hưởng hồng ân thanh tịnh vui nhàn. Đừng vì một sự thế hơn thua bằng lời nói,
chỗ đứng nơi ngồi mà mệt lòng gây ra tội lỗi.
Một gia đình sở dĩ có ra là do duyên nghiệp tương quan cấu hợp để vay vay
trả trả cho tròn, chớ có gì là chơn thật. Chơn thật chỉ là một chữ tu. Tu là
chìa khóa mở cửa chơn thật đặng vào. Có tu mới biết nhận mình là giả. Mình giả
mà nói mình đây thật. Bị chôn lấp trong cái giả, mà đôi lúc muốn la lên mình
giả lấn át. Vậy mình không tu thì đó không phải là mình mà đó là ma nghiệp thức
theo mình để báo trả.
Này đạo hữu và bà con ta! Tôi lúc sống lòng tin Thầy tưởng Đạo rất chí thành. Cũng thấy được điều
trái phải, việc đáng việc không đáng. Thế mà nhiều khi thắng không nổi ý tình
của xác thịt. Muốn ăn sung bận đẹp, tiêu xài. Muốn nghỉ hơn là công phu. Muốn
chơi hơn là học hỏi. Ma lòng xui tôi lúc vui lúc buồn. Giận lên bực rực, muốn
la to nói lớn. Khi tôi tỉnh lại mới thấy đó là ma nghiệp.
Tôi trông vào người khác lúc giận tợ như chằn tinh, bộ như thú dữ, mặt mũi
tay chân dễ sợ. Lúc bình thường đẹp đẽ vui tươi, ra người hiền đức đạo mạo lắm.
Thế mà khi họ nóng giận thì người của họ trở thành con vật dữ.
Tôi nghĩ lại, tại sao mình tu để cầu thoát kiếp thú kiếp người, mong được
thành Tiên thành Phật, mà giận dữ làm gì cho nó hóa thành con thú lúc mình là
con người. Vậy tôi cố gắng ăn năn nhẫn nhịn cho cơn giận đừng tái diễn sa vào
kiếp thú. Vậy đạo hữu nhớ lời tôi.
Tôi khi bỏ xác thịt nầy được Thầy truyền dạy đến cung U Minh Bồ Tát để cùng
Người với tôi một trăm ngày du khắp Địa Phủ rao lời giáo pháp tận cứu của kỳ
đại ân xá Chí Tôn.
Ôi! Thương thay cảnh khổ nơi cảnh tội lỗi nầy! Con người sống trong nghiệp
hình, chịu không biết bao nhiêu phần đau khổ. Cảnh nầy là một cảnh hỗn loạn đen
tối. Lòng người mê mờ vọng dục, khởi động rồi tàn sát ám hại vô cùng tội ác.
Sống thiếu ăn thiếu mặc, thiếu không khí ngoài trời, thiếu thở thiếu uống. Lòng
cứ buồn rồi điên lên, rồi tự nhảy sông, nhào mình trong lửa, lòn cổ vào dây,
đưa tay vào kẹp, khôn xiết khôn cùng. Hình phạt này bởi tự người hay tự nghiệp
quả.
Không phải chuyện âm ty là một cảnh đời đen tối. Họ thiếu trí giác nhưng
không phải không biết. Họ biết khổ, biết đau, biết sợ, biết thèm muốn. Những
cảnh nầy là cảnh tiếp theo của đời sống thế gian nầy, sống bằng nghiệp báo mang
hình theo đại thừa đã chỉ.
Tôi đã gặp biết bao đạo hữu phá giới khai trai,([3]) phản Tam Bảo, pháp quyền, hoặc yếu đuối đức
tin nghe lời quyến rũ mà xa Đạo rồi theo tà thuyết danh lợi gây nên tội báo.
Khi tôi đến nơi nào cũng giơ cao xâu châu lên mà miệng cầu hồng ân xá tội.
Ai nhìn trông đến là được cứu. Kẻ được cứu bởi quyền pháp giác ngộ.
Kê cứu số danh đạo hữu trong lúc cầu phong sơ sót, hoặc đạo hữu bỏ Đạo mà
bộ đạo chưa xóa, Giáo Tông thương xin Thầy độ hết. Số đó được trở lên cảnh an
tịnh, chờ ngày chuyển sanh. Người nào ít tội được siêu thăng thiên giới. Còn
thân nhân huyền tổ của người tu hành chính đáng, công hạnh dày, thì đều được
rước lên Tịnh Độ.
Vậy cuộc du Địa Quan đã được thành công theo danh sách cầu siêu. Ngoài ra
còn một nghìn lẻ hai (1.002) vị đạo hữu ở bộ đạo các tỉnh, quận, hoặc tự phế
không phải lịnh Giáo Tông cũng được về nơi an quốc cả.
Công chuyện đi kỳ nầy không kể hết được. Nhiều lắm và vui lắm! Cái lạ lùng
hơn là ta cho là được thì là không được, cho là phải thì là không phải. Bởi vậy
quyền pháp Tam Kỳ Phổ Độ mới thấy mầu nhiệm vô cùng. Chánh pháp ở Thầy là quyền
hành chỉnh pháp vạn giáo. Bông vẫn là bông, đẹp vẫn là đẹp, hương vị đều có,
nhưng hương thơm bởi buổi mai, buổi chiều theo âm dương thăng lên hoặc giáng
xuống. Cười…
Thôi chào mừng Hội Thánh và chư đạo hữu. Có dịp sẽ ghé về.
*
Khai Trung Tông Đạo, lập Hội Thánh Truyền Giáo, ban trao
sứ mạng trung hưng đó là HỒNG ÂN TẬN ĐỘ của Đấng Chí Tôn cho sanh linh trong
buổi đời cùng cuối.
Đức Ngô Tôn Sư, người môn đồ đầu tiên, là Anh Cả trong
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, khi được thọ tu với Đấng Cao Đài đã chuyên tâm “Ngô
thân bất độ hà thân độ” (thân
ta không độ thì độ được thân nào), và khi đã tự độ bằng cách “kín ngoài rồi
lại kín trong”, được đắc quả NGÔI HAI, Đức Ngô đã thực thi hồng nguyện “Chúng
sinh vô biên thệ nguyện độ” tại Trung Tông Đạo, Hội Thánh Truyền Giáo.
Đức Ngô đã “lãnh mệnh đến thế gian ban truyền cả hai tâm
tướng… Về tướng hữu vi là phần truyền giáo, thực nghiệm về tâm vô vi là đắc ngộ
bí truyền”. Tại Hội Thánh Truyền Giáo người được Đức Ngô tuyển chọn
để bắc cầu từ tướng pháp hữu vi sang tâm pháp vô vi là Giáo Sư Thái Sơ Thanh.
Đức Ngô thọ tu mười hai năm, quy thiên vào tuổi năm mươi
tư, Thầy cho du Địa Phủ một trăm ngày, sau đó đắc vị Ngôi Hai về cơ dạy đạo.
Giáo Sư Thái Sơ Thánh thọ tu hai mươi bốn năm, quy thiên
vào tuổi năm mươi tư, đắc quả Hoan Hỷ Chơn Quân lãnh sứ vụ du Địa Phủ một trăm
ngày “rao lời giáo pháp tận cứu của kỳ đại ân xá Chí Tôn”.
Cơ giáo pháp của Trung Tông Đạo, Hội Thánh Truyền Giáo
tiếp tục ngấm sâu vào sự nghiệp Trung Hưng để tiến đến CƠ THÀNH ĐẠO.
PHẠM VĂN LIÊM