XIV. PHỤC HỒI SỨ MỆNH
Tiếp tục củng cố quyền pháp Trung Tông
Đạo, phục hồi sứ mệnh trung hưng, Ơn Trên cho tuôn chảy về dòng suối giáo pháp,
mở lối xây móng đắp nền từ cơ sở thánh thất với mô hình Đầu Họ, Ban Cai Quản
gồm Hành Chánh, Phổ Tế, Phước Thiện, Minh Tra, Nữ Phái, các Ban Trị Sự. Ơn Trên
minh thị đường lối quyền pháp, bắt đầu là thánh thất Trung Thành rồi lan dần
đến các thánh thất Trung Đức, Trung Kiên, Trung Khánh, Trung Mỹ…
Đàn tại Tịnh Đường ngày 08-7 Giáp Thìn
(15-8-1964):
THI
NGÔ
khai chánh giáo độ quần sanh
CHIÊU dụ chơn linh về một cội
Mừng cho vạn loại được hòa thanh.
Bần
Đạo chào chư môn đệ.
BÀI
Đêm
thu rảo bước lại đàn
Để lời nhắn nhủ luận bàn Đạo thâm
Nền
chánh pháp mấy năm truyền bá
Chưa bao người lòng dạ chăm lo
Chỉ tranh phẩm vị nhỏ to
Theo phần sắc tướng nào lo tu hành
Cho
quyền tước lợi danh là quý
Mối Đạo mầu khắc kỷ lờn khinh
Chạy đua theo bả thế tình
Nơi lòng đen tối sao minh lẽ Trời
Mải
hụp lặn cõi đời vật chất
Điểm linh quang làm mất nào hay
Mùi đời say đắm đắm say
Ôi thôi mãn kiếp đọa đày trầm luân
Nơi
trần thế vui mừng sung sướng
Không lo tu phải vướng tội tình
Đến ngày sa đắm ngục hình
Bấy giờ mới rõ là mình khờ ngây
Đường
tu học có Thầy có bạn
Sao không lo ngày tháng dồi trau
Đã cùng một Đạo với nhau
Không thương sao lại ghét nhau cho đành
Cho thánh
thể phui phanh nhiều mối
Càng thị phi tội lỗi càng thêm
Nỡ nào đoạn nghĩa anh em
Không thân sao lại nỡ đem oán thù
Dù
chi cũng bạn tu một Đạo
Nỡ lòng nào cơn khảo mà xa
Làm cho mất vẻ thân hòa
Thiên Cung đến nỗi Trời Cha buồn lòng
Tu sao được Hoa Long dự bảng
Tu sao
mà được rạng tuổi tên
Đạo mầu
xây dựng móng nền
Móng nền
xây dựng mới nên thân trò
Dù ở
thế quyền to chức trọng
Không tu
thì chớ mộng gần Ta
Kẻ nào chánh
pháp lánh xa
Thì là
phải chịu quỷ ma giựt giành
Kẻ nào biết luyện phanh hằng bữa
Thì Ngọc
Kinh mở cửa đón mời
Nhẹ
nhàng Cung Ngọc dạo chơi
Thoát
vòng sanh tử đời đời an vui
Tu hành còn ham mùi tục lụy
Không
chịu lo khắc kỷ luyện phanh
Làm sao
tâm thể tịnh thanh
Tịnh thanh mới được an lành Trời ban
Muốn
được đứng vào hàng thuần phác
Đường lợi danh phải tránh cho xa
Chớ ham cái cảnh phồn ba
Để thân bạn với quỷ ma giựt giành
Đời
mạt tận chiến tranh năm cõi
Có mấy ai tránh khỏi nghiệp trần
Mấy ai khỏi bảng Phong Thần
Trả vay vay trả duyên nhân một thời
Tai
vạ đến bầu trời chung chịu
Bởi nghiệp căn chuyền nối từ xưa
Gần đây tội ác chẳng chừa
Ác lai ác báo nào ai nó từ
Đấng
Thượng Đế vô tư hằng sống
Lòng từ bi đức rộng thi ân
Xót thương sanh chúng ở trần
Đạo mầu truyền khắp xa gần cứu nguy
Thương
những kẻ ù lỳ chậm chạp
Tu mà còn đạo pháp chưa thông
Làm sao bờ giác được trông
Làm sao cho được Tiên Bồng bước lên
Ai là
kẻ gan bền chí nhẫn
Thì từ đây tinh tấn bước tu
Một lòng công quả, công phu
Độ tha, độ kỷ chu du tháng ngày
Tu
như kẻ nghiện say mới đúng
Tu
sao cho diệu dụng thâu về
Tu
cho giác tỉnh đừng mê
. . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Hằng
giờ giao cảm Phật Trời
Độ
mình được trọn độ đời được nên
Để
hồn linh làm bạn Thần Tiên
Được
vầy mới gọi pháp quyền
Pháp
quyền được trọn mới yên được người.
Nền trung hưng chánh pháp đã được ban ơn
tái lập. Từ đây chư hiền đồ phải có gắng để tâm xây dựng. Hễ đạo pháp đến đâu
thì kế chước của quỷ ma cũng đến đó mà giựt giành. Nếu ta thờ ơ chểnh mảng thì
sẽ bị chúng nó phỉnh lừa, khiến cho nền đạo pháp phải bị lu mờ, nhơn sinh khó
bề tu học. Vẫn biết việc làm phải trải qua nhiều công lao khó nhọc, nhưng cũng
cần khó nhọc thì công quả mới được trọng phần. Nếu sứ mạng đã giao cho mà không hết lòng để đi đến thành công thì
công đức đã không có, mà tội lại càng nhiều. Cái công đức độ cho người tu hành
nó to lớn biết chừng nào. Cứu được một linh hồn bằng cứu trăm ngàn xác thịt. Vì
xác thịt có sống cũng chỉ sống trăm tuổi là cùng, còn linh hồn thì sống muôn
đời bất diệt.
Mọi việc chiếu theo thánh ý lâu nay mà thi
hành.
Theo
dòng chảy của nguồn ơn tái lập, các Đấng đã dồn điển lực giáo hóa các Thiên ân
phải cố gắng để tâm xây dựng về hạ tầng. Nhiều thánh thất mở các khóa tu hướng
dẫn nhân sinh từng bước vào đường chánh pháp, từ công truyền sang tâm pháp. Quý
Thiên ân Nguyễn Hậu, Hồ Tân Sinh, Huỳnh Minh Tuyến, Ngô Thanh Toàn được lệnh Ơn
Trên mở các đợt tu tịnh xây dựng nề nếp. Nơi nào gặp khó khăn, đức tin lỏng lẻo
thì Tiếp Cơ Quân Liên Hoa đến lập đàn để củng cố thiện duyên trong cơ vận
chuyển.
Song
song với việc truyền pháp và thọ pháp tu, chương trình Phước Thiện được Thiêng
Liêng nhắc nhở để tín chúng giữ gìn cái tâm háo đức lạc thiện, cái chí giải
thoát cho thân, thành công cho chánh pháp. Phước Thiện là mạch sống của nhân
sinh, một phần trong cơ tận độ được Đức Liễu Tâm Chơn Nhơn (Huỳnh Ngọc Trác) hộ
trì phần vô vi. Đức Chí Tôn ân phong tiền bối Nguyễn Hồng Phong (1894-1947),
nguyên Học Viện Trưởng Quyền Hội Thánh, là Định Quang Phổ Diệu, và tiền bối Tuệ
Minh Nguyễn Như Phương (?-1945), chức sắc Phước Thiện tại thánh thất Trung Đức,
là Định Minh Phổ Chiếu. Hai vị cùng với Đức Liễu Tâm Chơn Nhơn hộ trì Phước
Thiện.
Tại
chi hội Phước Thiện, đàn ngày 10-7 Giáp Thìn (17-8-1964), Đức Liễu Tâm Chơn
Nhơn dạy:
Đứng trước tình thế rối ren, nhơn dân đồ
thán, cảnh huống tương tàn tương sát, đồng bào, Tổ Quốc nằm trong trạng thái
phiêu linh. Trong nước không người hiền lương quân tử dẫn đạo cho chủng tộc, xã
hội. Vận nước yếu, dân hèn trông cậy sức mạnh bên ngoài, không tự chủ tự cường
để bị động, gây máu xương bằng nồi da xáo thịt. Đời như thế, cải tạo cuộc đời
cho Nam Bắc thân hòa, cho cả Á Âu lành mạnh. Cuộc đời đỏ đen tranh cạnh đủ mưu
mô, xảo quyệt, đưa cả thế giới loài người vào cảnh hắc ám khổ đau. Nếu pháp
quyền đạo đức không cao, thiếu mặt Thánh Hiền, lấy đâu để tài thành cho Tạo Hóa?
Nên người Thiên ân xứng đáng để từ bi hỷ xả mới hiểu sao, và cảm hóa làm sao?
Vậy đại ý Bản Thánh muốn các em hiện nay
đã qua thời kỳ lý thuyết, đi đến thực hành, phải bỏ công bỏ của mà cứu nhơn
sanh để giải nghiệp giải oan, phá vô minh phiền não, mới nhẹ bước mà sang qua
cửa đạo học vô vi bí giáo chứng pháp
quyền.
Đàn
ngày 15-7 Giáp Thìn (22-8-1964), Đức Chí Tôn dạy:
Từ đây con làm xong bổn phận
Từ
đây con lẩn thẩn sao nên
Sẵn
đà con gắng tiến lên
Sẵn
cơ vận chuyển con nên tu hành
Đứa
còn phải chạy quanh trong tục
Thì
cũng đành thôi mất giờ tu
Đứa
nào bước đến công phu
Chuyên
tâm trì chí cho mau hội này.
Cơ
vận chuyển đặt lại quyền pháp từ quý Thiên ân ở Tịnh Đường đến các họ đạo Trung
Thành, Trung Đức, Trung Khánh, Thái Hòa, Trung Kiên, Từ Quang. Các họ đạo nầy
được ơn xây dựng làm chỗ thông giao bủa gieo hồng ân cho toàn đạo. Đức Giáo
Tông củng cố tinh thần Đầu Họ Đạo Thượng Khải Thanh để hậu thuẫn cho việc lập Cơ Quan Giáo Pháp và hướng dẫn Thừa Sử
Hồ Tân Sinh thực hiện hồ sơ cho bộ máy giáo pháp.
Đàn ngày
15-7 Giáp Thìn (22-8-1964), Đức Giáo Tông dạy:
Hiền Thừa Quân xếp cho một hồ sơ để lưu
giữ nơi Trung Tông. Hồ sơ nầy, ngoài cái áo bọc [chemise], chư
hiền đề sao?
[Thừa
Quân bạch …]
Hồ sơ số 1: Đặt lại vấn đề quyền pháp
trong mấy bản:
1. Cáo lệnh;
2. Trích thánh ý Thượng Chánh Phối Sư (23-6);
3. Vi bằng;
4. Lời cáo bạch.
Cáo lệnh dâng hồ sơ. Hồ sơ nầy lấy chữ ký
đủ các hàng Chánh Phó Trị Sự, Thông Sự ở Trung Thành và các Thiên ân tương quan
trong bộ máy Giáo Pháp rồi sẽ ban hành. Phải đầu tháng 9 nhưng chậm được thì
nhẹ một đôi phần khảo đảo. Vì chờ thái vận ứng vào (đệ tam thập cửu châu niên).
Ngày đặt bộ máy cầu Thầy ban ân ở nơi giáo đường, thì chừng đó có khởi công
cũng không lo ngại lắm.
Việc
tái ban sứ mạng trung hưng, Ơn Trên cho xây dựng quyền pháp ở cơ sở thánh thất.
Đàn tại thánh thất Trung Mỹ ngày 08-8 Giáp Thìn (13-9-1964), Đức Giáo Tông dạy:
Cũng vì quyền pháp của Hội Thánh Trung
Hưng bị suy yếu, mất mát đã nhiều rồi, nên Thầy mới ra lệnh tái lập. Lão đã gởi
gắm nhơn sanh cho người có trách nhiệm, nghĩa là Lão cho phép các thánh thất
được độc lập hành đạo.
Độc lập nghĩa là đứng một mình, không còn
chịu dưới quyền điều khiển của Hội Thánh… Ấy cũng là một phương cách xây dựng
một Hội Thánh lành mạnh.
Nếu thấy sai mà cứ a tùng tức ta giúp cho
cái sai ấy to lớn thêm lên, để rồi đem lại cho nhau một hậu quả tai hại cho
toàn đạo.
Độc lập đây không nghĩa là chia phe rẽ
phái. Độc lập là một yêu sách đòi hỏi chức sắc bề trên phải cải đổi lỗi lầm.
Trong thời gian độc lập, ta muốn cho có một hiệu lực, các hiền cũng như toàn
đạo phải triệt để thi hành chủ trương bất hợp tác. Có thế mới làm cho người
thừa nhận con đường chánh pháp của Thầy.
Với quyền
hạn là Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Lý
Thái Bạch minh định:
Quyền pháp đặt ra có tôn ti trật tự là để
cho nhơn sanh nương bước tự lập vị mình. Trong Hội Thánh có ba quyền:
1. Quyền Thượng Hội từ phẩm Đầu Sư, Chưởng Pháp đến Giáo Tông là ngôi vị
trọn lành. Đức rộng đạo cao, trên thay quyền Trời, dưới thể nguyện nhơn sanh mà
điều hành cơ đạo. Phẩm vị ấy dưới trần gian nầy chưa có người tu chứng mà giữ
lấy quyền pháp đó.
2. Quyền Hội Thánh từ Giáo Hữu, Giáo Sư đến Phối Sư chịu mệnh lệnh của
Thượng Hội mà ban đặt chỉ thị an bài nội bộ dưới trên. Những hàng phẩm nầy phải
là người thượng thừa xuất gia ly tục, không còn dính mắc danh lợi ở thế gian. Vì
vậy Pháp Chánh Truyền đã ấn định không một ai vượt khỏi luật lệ mà giữ lấy chức
vị cao trọng của giáo quyền. Nếu kẻ phạm phải luật hình thì quyền pháp buộc
phải đưa ra. Nên Cơ Quan Giáo Pháp, Lão khuyên chư hiền nếu ai ở trong hàng đẳng
Giáo Hữu trở lên là người phải giải thoát hoàn toàn. Nếu phạm vào Ngũ Giới Cấm,
Tứ Đại Điều Quy, phạm Pháp Chánh Truyền thì không thể vị tình riêng mà để yên
trong Hội Thánh làm trở ngại cho bước tiến của nhân sinh.
3. Hạ
Hội thì từ tín đồ mới vào Đạo. Tất cả phải trọn tin ở quyền pháp đã ấn
định. Phải giữ năm giới, hai mươi bốn điều Thế Luật, được sống trong sự che chở
của Thầy. Ví như nhứt bất sát sanh, tuy giữ sáu ngày chay nhưng không sát hại
sinh linh, tiến lên không sát mà phóng sanh và cứu độ chúng sanh, chỉ cách giải
thoát cho người.
Người đạo hữu an phận trong đơn vị xã đạo,
dưới quyền dìu dẫn của Chánh Phó Trị Sự, Thông Sự.
Chánh Phó Trị Sự, Thông Sự tiến thêm một
bước nữa giữ mười ngày chay trở lên, hy sinh chút quyền lợi gia đình, đem thân
đóng góp với Giáo Hội bằng sự lập công, chịu trách nhiệm một xã đạo dưới quyền
Lễ Sanh.
Đầu Họ là người được sắp dự vào hàng Thiên
phong, phải trường trai, giới hạnh, tỏ ra xứng đáng làm đàn anh trong đám nhơn
sanh; phải có bản lãnh đúng đắn, bản sắc hơn người, để giải thoát thô lậu mà
bước lên hàng chức sắc của Hội Thánh.
Thì từ đây toàn đạo cũng nên ghi nhớ lời
Lão mà xây dựng bản thân, xây dựng hàng ngũ nhơn sanh và nội bộ quyền pháp, thì
quyết rằng ơn che chở, dầu đạo hữu sống trong cảnh ngộ biến đổi, tao loạn như
thế nào, lòng cũng yên như bàn thạch…
Vì vậy từ nay trở đi, một lần nữa Lão
khuyên nên vì đại cuộc mà làm tròn bổn phận. Về hồng ân chảy đến mà đạo hữu có
hưởng được hay không là tại ở lòng đạo hữu. Đạo hữu phải thanh tịnh, đừng vọng
loạn, điên đảo mà khó nhận lấy ơn phước từ Trời.
Như các đạo hữu là những cây kim. Kim phải
để yên chỉ kia mới luồn qua được. Nên lúc nầy cần tập tịnh tu, hoặc quỳ hương
cúng nước, luyện châu tịnh thần để lòng không lo sợ.
Song trong hồi bát loạn, ma quỷ lộng hành,
các hiền cũng không đủ trí tuệ mà nhận xét đâu phải đâu trái, đâu đúng đâu sai.
Cứ dễ hơn là lấy giới hạnh làm thầy, căn cứ đó mà đo mà đánh giá.
Song ma quỷ có nhiều yêu thuật khó lường.
Nhưng mỗi người đã ở yên phận vị, đừng buông đây bỏ đó, thì làm gì chúng lừa
phỉnh được ai. Ngặt có người lòng hay ngờ vực. Phải nói không, không nói phải;
bắt được lại buông, buông rồi lại bắt. Lòng không tỉnh định, nên vọng thức che
án linh năng.
Có một điều, hiện nay đạo hữu phân vân
nhất là cơ bút. Cơ bút chỗ này chỗ kia, ở đây ở đó không duy nhất, không rõ
ràng mà còn chống đối nhau thì làm sao tin được. Đó cũng là duyên phần, mà cũng
ở cơ chọn lựa. Dầu không phải của ma quỷ, cũng có chỗ không đồng hòa duy nhất
là vì trình độ tâm đức hơn kém, xu hướng nhiều nơi không đồng mà có lời dị biệt.
Ví như luồng điện phát ở một chỗ mà sự
hình hiện tùy theo dụng cụ như đèn thì sáng, như quạt thì xoay. Cũng có thể nói
không khí ở thành phố náo nhiệt đông đúc thì khí chất nhơ bẩn đen đục, hít vào
có hại cho phổi cho gan. Nếu ở thôn quê thì tương đối điều hòa, khí lành trong
trẻo. Nếu vượt ra ngoài trần tục thì không khí biết bao thanh sạch tươi lành.
Thì cơ bút cũng vậy, do người đồng tử và do trình độ nhân sinh.
Lão cũng thấy lòng toàn đạo chọn lấy đường
để đi, tìm lấy nơi để tựa, mong sống trong ơn cứu độ của buổi Tam Kỳ, nên nhận
một đạo Cao Đài là mục đích, nên y ỷ phát tâm, tin trên có sự vận chuyển của vô
hình, bằng đủ cách để độ dẫn nhân sanh, nhứt là thường đến với huyền diệu cơ
bút.
Vì lòng người thường hay quên, sự đời
thường ám ảnh, sống trong cảnh đen tối đau khổ, nhứt là cảnh tang thương biến
loạn trong lúc nầy, nếu không có sự nhắc chừng, sự an ủi, sự dạy khuyên của
Thần Lẽ Thật của Đấng Cha vô hình thì làm sao tu được. Vì vậy cần có cơ bút để
dẫn đạo, mà cũng nương cơ bút để quyền pháp Thượng Hội chỉ thị dạy bày. Cũng
nhờ trong khi bước vào cảnh biết được cảnh mà đề phòng, biết được sự chỉ dẫn
của Thiêng Liêng mà tùy cơ ứng biến trong cơn bối rối. Song cũng có nhiều nơi
lạm dụng cơ bút để làm lợi khí cho hành động của mình… Nhưng “nhơn nguyện như
thử như thử, Thiên lý vị nhiên vị nhiên”.([5])
Hiện nay nhơn loại trên hoàn cầu đã trải
qua nhiều thử thách, lòng người lo âu, lòng người e sợ. Họ đương loanh quanh để
tìm một lối đi về ai và đến đâu là phải. Nga chăng? Mỹ chăng? Âu chăng? Á chăng?
Thiên Chúa, Tin Lành hay Phật Đà, Khổng Mạnh? Khó thay!
Xét về lịch sử đã qua, tấn tuồng hiện tại,
làm sao dám quyết đó là phải hay trái. Nói phải trong có trái , nói dở trong có
hay thì phần nào cũng đáng nghi ngờ lo ngại. Con đường còn xa xăm chưa quán
thông, mà ý thức con người trở lại đánh giá bằng cách tương đối thế gian. Vì nó
phát xuất từ một nước nhược tiểu, một dân tộc nhỏ nhoi, không quyền chẳng vị.
Nên chỉ có người chán với danh nhàm với lợi, ngán với thế, sợ với quyền thì
mong vào Cao Đài học đạo mà thôi. Còn đám cậy mong quyền đời thì có ai để ý.
Về quyền pháp thì chư đạo hữu cũng như
toàn bộ Cơ Quan Giáo Pháp tin ở Lão có đủ sức che chở, có đủ cách dìu dắt thì
có ngại gì mà thối thác, ngại gì mà âu lo. Miễn phận vị mỗi người ở cấp bực nào
làm tròn xứng với bổn phận của nó là đủ. Nên nói để Khải hiền đệ cảm thông và
toàn đạo tâm biết mà lo lập công tu học.
Hôm nay Lão cũng chứng kiến sự thành hình
một Cơ Quan Giáo Pháp để dìu dắt nhơn sanh trong hồi tao loạn. Trong khi Hội
Thánh chưa được cảm thông thì các hiền đệ vô tâm đứng trên tinh thần tự giác
giác tha mà đảm đương quyền pháp. Chờ
một ngày sự vận chuyển của Ơn Thầy đâu đó hòa thân, dưới trên liền một, thì
ngày đó ta sẽ chào đời một cách huy hoàng, nói lớn với năm châu bốn biển chỉ có
Cao Đài mới thật sự hòa bình, thật tâm xây nền thịnh vượng chung cho bốn biển.
Cao Đài đến để hàn gắn những sứt mẻ từ xưa đến nay cho nhơn loại bởi phái phe
giai cấp, để duy nhất một mối đạo hoàn cầu. Dầu các tôn giáo phải được còn, thì
trên mặt đất nầy cũng chia nhau mà chung lo cùng một phận sự. Nên Lão cũng nhắc
lại chư hiền cốt là làm sao cho đúng với chánh pháp chơn truyền.
Giai
đoạn Khai Cơ Giáo Pháp bắt đầu từ năm Đinh Dậu (1957). Ơn Trên chuyển linh cơ
dạy Trung Tông Đạo theo từng hoàn cảnh, từng điều kiện, từng con người. Trải
dài hơn sáu năm chìm trong khảo thí chia lìa, chống đối, cơ Giáo Pháp vẫn khế
cơ vi diệu để nhơn sanh được sống trong ơn điển độ dẫn của Thiêng Liêng. Đức Lý
Giáo Tông cho lập Cơ Quan Giáo Pháp hầu mong đưa Hội Thánh đến ngày tròn ân sứ
mạng. Đạo hữu các thánh thất mẫu được dìu dắt theo con đường chỉnh pháp của sứ
mạng trung hưng. Các Đấng đã xuống điển hướng dẫn đường tu. Để thích nghi cho
hàng tín chúng vào pháp tu châu, Thầy cho truyền Hồi Hướng Linh Châu là tầng
bậc tu châu thứ nhất. Đây là bậc tu xây dựng nền móng luyện bảo châu cho hàng
đạo chúng do Đức Nam Cực Tiên Ông ban truyền tại thánh thất Trung Khánh ngày
24-8 Giáp Thìn (29-9-1964).
Sau
khi chỉ truyền cách luyện và trấn thần chuỗi châu năm mươi bốn hạt cho những
đạo hữu giữ chay mười ngày xin thọ, trong phần tiếp cầu, Đức Giáo Tông dạy:
Giờ nầy
Lão đến cùng đạo hữu, đạo muội nơi đây với tấm lòng thiết tha giác ngộ. Lão
cũng hoan hỷ mà dành riêng một phần thưởng trong cơ Giáo Pháp để mừng với sứ
mạng chiều sớm tu học dìu dắt lẫn nhau mà chờ ngày hội ngộ cùng Thầy.
Nói giáo pháp là nói sự truyền đạo, mà giáo
pháp đây là giai đoạn thứ nhì của sứ mạng trung hưng để hoàn thành cơ cấu quyền
pháp và kinh chương, thì Hội Thánh hay Nhà Tịnh cũng không khác, mà dầu ở
Truyền Giáo hay Tây Ninh và các phái kia nữa cũng không phải hai. Dầu nói chung
tất cả các phái trong đạo Cao Đài với Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo cũng không
phải là hai, mà chỉ có một.
Cơ
Giáo Pháp mở ra con đường hồi đầu thị
ngạn, con đường chúng sanh vô biên
thệ nguyện độ. Tân Luật của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ quy định về tịnh thất: “Trong hàng tín đồ ai đã xử trọn nhơn đạo và
giữ trai giới tứ sáu tháng sấp lên thì được xin vào tịnh thất mà nhập định.”
Chuỗi châu năm mươi bốn hạt là con số phục sinh, con số quay về với bến bờ sự
sống. Trong kinh cúng Đức Diêu Trì do Thể Liên Tiên Nữ giáng ban có hai câu: Đừng cho xiêu lạc vất vơ / Xin cho biết bến
biết bờ sanh sanh. Bến bờ sanh sanh là con số năm mươi bốn hạt châu. Số 5
là thiên ngũ sanh thổ, số 4 là địa tứ sanh kim. Số 5, số 4 đều là hai số thiên
sanh địa sanh (sanh sanh chi vi dịch).
Pháp
Hồi Hướng Linh Châu được ban truyền, sau đó Trung Tông Đạo tổ chức đợt tu tại
Cơ Quan Giáo Pháp (ở Tịnh Đường, cũng là thánh thất Trung Thành). Đàn cơ ngày 08-9
Giáp Thìn (13-10-1964), Đức Ngô Minh Chiêu dạy:
Bần Đạo chào chư môn đồ nam nữ có mặt tại
đàn.
Giờ nầy Bần Đạo đến cùng chư hiền đồ với
một niềm hân hoan tràn đầy thiên khí.
Chư hiền đồ ôi! Có thấy chăng giữa lúc
cảnh đời từ Đông chí Tây, từ Nam chí Bắc, chỗ nào cũng đầy dẫy ác khí, đương
lăm le hút loài người vào hỏa lò nguyên tử? Muôn loài đang sống với cảnh phập
phồng lo sợ. Lo sợ không biết cái chết ngày nào nó đến với mình. Đã biết cái
chết rất thảm thê đau khổ ấy mà nào có mấy người giác ngộ để tìm lại con đường
sống đâu. Họ còn vô minh ngã chấp nên không nhận chân được phương môn cứu độ
của Thầy.
Cũng có rất nhiều người đem tất cả tâm
não, trí lực suy gẫm, xét đoán mong mỏi đến ngày Giêsu Christ tái lâm, nhưng
nào họ có biết Giêsu tái lâm ở nơi nào và đã tái lâm chưa. Cơ cứu chuộc của
loài người Lần Ba này ở đâu? Bao nhiêu sự suy nghĩ, mỏi mong, đợi chờ ở đầu óc
của mọi người. Họ có ngờ đâu tại nước Việt Nam nhỏ bé nầy mà Đấng Ngôi Hai xuất
thế.
Xuất thế độ người buổi loạn ly
Nam
bang hạnh ngộ buổi Tam Kỳ
Có
duyên gặp Chúa lo tu học
Đắc
thọ chơn truyền cứu nạn nguy.
(…)
Từ ngày cơ sở Giáo Pháp được thành lập,
người nào thọ lãnh trách nhiệm thì phải làm xong. Ai nấy cũng được sống trong
ơn Giáo Pháp.
Cơ Quan
Giáo Pháp được Ơn Trên hướng dẫn từ việc hành chánh đến việc thọ pháp. Ví dụ: Một
người xin tịnh xin tu phải có đơn. Ban Giáo Pháp phải xét trước khi đưa Tịnh
Đường. Tịnh Đường chỉ nhận đơn, không còn xét nữa. Theo luật của tịnh thất thì
vào nhập tịnh phải trường trai, nhưng ở đây được chế giảm là thập trai. Tuy
nhiên những người ăn chay sáu ngày cũng được khuyến khích cho tập sự. Đức Ngô
dạy: “Về số người ăn chay sáu ngày tuy
không được thọ pháp tu nhưng cũng được khuyến khích. Đó cũng là bước đầu của
con đường học đấy.”
Các
bậc Tướng Châu, Tâm Châu, Tam Bảo Hoàn Châu phải nghiêm túc theo quy thức, phải
nhẹ bớt công việc thế gian, tuy làm ăn như thường nhưng tâm thì tinh tiến trên
đường giải thoát nghĩa là không ham danh chuộng lợi.
Cơ
quan Giáo Pháp từ đây được các Đấng liên tục giáng đàn thúc giục việc truyền
pháp cứu độ nhân gian. Ngày 08-11 Giáp Thìn (11-12-1964) Đức Ngô giáng đàn điểm
danh các vị Liên Hoa, Sinh, Hậu, Huệ Minh, Đức, Cư, Tuyến, Toàn, Yến. Ngài dạy:
Về công việc cứu độ chư linh đã được ơn
Thầy chấp nhận, tùy theo căn nghiệp mà được vãng sanh hay tái sanh.
Đứng trước cảnh đời thảm khốc, bổn phận
cứu độ của các trò lại thêm nặng nề trọng trách hơn nữa. Mọi người có đủ điều
kiện để cứu giúp như đói có gạo ăn, lạnh có mền đắp, đau có thuốc men. Sự giúp
đỡ của họ đã đem lại một thành quả tốt đẹp, mà các trò cũng đương mong ước nếu
mình làm được như họ thì khoái chí biết chừng nào.
Tại sao các trò thiếu sự nhận hiểu để cho
việc làm của mình thiếu phần nhận thức? Cái người ta có thì mình không, cái
mình có thì người cũng khó tìm ra được. Cái của mình là cái gì? Có phải cái đạo
mầu của Thầy đã ban trao cho các trò đó không?
Cái công cứu cho người có ăn có mặc, để
xác thịt được no đủ mạnh lành, có được kết quả cũng chỉ cứu được cái xú bì nang
([6]) tạm
sống ở cõi đời mà thôi, rồi đến ngày định mạng cũng phải chết. Nếu chết mà
không có đạo đức, thì phải chịu cảnh khổ đời đời.
Còn đây các trò, nơi mình đạo pháp có sẵn,
có cho mấy cũng không hết. Các trò sao không đem ra mà bố thí cho người để cứu
độ linh hồn cho họ được đời đời còn sống bất diệt? Cái sự cứu độ nầy công đức
có thể gấp trăm vạn lần so với sự giúp đỡ kia, sao các trò không lo trên bước
lên đường cứu độ chúng sanh mà còn ước mong những gì xa lạ? Trong việc bố thí
thì chỉ có bố thí pháp là công đức vô lượng vô biên…
Đàn
ngày 05-12 Giáp Thìn (07-01-1965), Đức Ngô dạy:
Con
đường tận cứu Kỳ Ba của Thầy, nếu bỏ phương môn tu luyện ra thì cũng không khác
gì các tôn giáo xưa cũ kia.
Bần Đạo rất thương cho đa số được sống
trong nền tâm pháp còn bị đen tối, chưa thấy được con đường cứu rỗi của ta, đã
phải chung nhau đi theo con đường thanh, âm, sắc, tướng. Thật đáng thương!
Chư hiền nơi đây có duyên phước được ơn
Thầy cứu độ, lòng mình được tỏ sáng, nhận thấy được con đường cứu chuộc của
Thầy, thì các hiền phải cố gắng giồi luyện cho mình được thành. Đồng thời lãnh
phần sứ mạng cứu độ cho tất cả quần linh.
Đức
Cao Đài Tiên Ông dạy:
Phải tu cho chứng. Chứng rõ ràng. Lòng
không bận lo phiền não, thân không bệnh tật buộc ràng, trí xét đoán công minh
rõ tà rõ chánh. Nói xuất thần phải thấy thần biến hóa. Nói đắc đạo phải thấy
đạo nhiệm mầu. Đừng tin vu vơ, nói không sách vở. Thầy đến lần nây là chứng
minh… Đây, Thầy còn nhiều chương giáo pháp.
Cũng cho các con biết thêm rằng cái trọng
nhiệm đóng vai Trung Hưng chẳng phải ở phần vận của Thầy mà đủ, mà phải ở những
con hướng đạo đắc đạo. Đắc đạo không phải như sự hiểu lầm của các con từ lâu,
chết rồi được cứu, mà đắc đạo là đắc
được ý Thầy tạo thành vạn vật, đắc được ý người thuận lẽ thành tựu thế gian.
Thầy nói thiệt cùng các con, danh Thầy rất
quan trọng, pháp Thầy rất thiết dụng. Nếu Thầy không làm cho con nên, Thầy chưa
phải là Thầy. Nếu pháp Thầy không giải thoát cho các con ra ngoài vòng sanh tử,
thì danh Thầy cũng hư. Mà danh Thầy hư thì quyền pháp đừng mong cứu độ, sự tái
tạo và bảo tồn cũng đừng trông đợi uổng công.
Vậy các con nhớ rằng Đạo Trời mầu nhiệm,
con còn phải học nhiều. Có thể một kiếp tu thành, hoặc cần trăm ngàn kiếp nữa
mới chứng. Đừng nghĩ rằng sự mầu nhiệm chỉ có bấy nhiêu. Mà nếu chỉ có bao
nhiêu con đạt được, thì con coi nhiêu đó có đủ chống đỡ trời đất không? Khiến
nổi chúng sinh không?
Còn nhiều lắm, một kho tàng ẩn giấu
nhiều lớp nhiều ngăn. Con học, học nữa, học cho nhiều. Không phải nhốt vào chỉ ba năm tám tháng hay chín năm mà các
người đệ tử đã phải làm xong.
Song nói học cho rành lẽ đạo thì dầu cho
hóa thân như cát sông Hằng cũng khó cho thông. Mà học là học cái đạo vô vi phá
được cái vô minh, đoạn được cái lòng mê chấp. Tâm được minh, tánh được tỏ, là
được đắc đạo rồi.
Trời đất tuy to lớn nhưng rút gọn trong
một chữ như. Con đọc Bát Nhã để thấy tánh chơn không. Con đọc Lăng Nghiêm để
thông tâm bình đẳng. Con xem kinh Kim Cang tìm biết tứ diệt tướng.
Vạn pháp do tâm, thì lòng con lâng lâng
nhẹ bổng, thân con cởi mở tự do. Người với con không còn phân biệt. Trời đất
với con chẳng còn xa cách.
Đàn
ngày 20-3 Ất Tỵ (21-4-1965), Đức Giáo Tông thúc giục vào đường tu đơn luyện đạo:
THÁI Tổ, Thái Sơ kết đạo đơn
BẠCH
vân viên tụ xuất nê huờn
TIÊN
thiên chế luyện thành chơn nhứt
ÔNG
luyện trần gian lập thượng nguơn.
THI
Mười bốn năm qua pháp lập rồi
Cớ gì
chư đệ nỡ cho trôi
Trung hưng không lẽ trung hưng nữa
Còn bốn năm sau gấp vãn hồi.
Ngay
tại thánh địa Nam bang mở nhiều đạo tràng thí pháp, cho biết ngày giờ khai hội
kết chung thọ mạng của số hệ cũ, lập lại thánh đức thượng nguơn. Nay Lão cũng
cho chư hiền biết sứ mạng trung hưng mười tám năm hoàn nguyên. Từ ngày ban
chánh pháp năm Nhâm Thìn đến đây Ất Tỵ, tràng linh châu đã sắp giáp vòng, mà
việc làm chưa đâu vào đâu cả.
(…)
Trung
hưng đã lắm lời dạy bảo
Hiệp sức nhau kiến tạo lâu dài
Đừng lòng thương ghét chia hai
Đã sai thì bị nghiệp sai dẫn đường.
Các
hiền đệ nhớ lại lời mình đã tuyên đọc khi đăng đàn hồng thệ, lãnh sứ mạng trung
hưng phải y tâm pháp đối cân công bình, đem đời về đạo, lấy đạo cứu đời, mở một
Công Đồng Giáo Pháp, xong một cơn thử thách vàng đá phân minh, mỗi người nhận
lấy một chương trình.
Về
các hiền đi sâu vào lối vô vi mà huyền đồng cùng lẽ đạo. Đã đành không phân chi
lập phái, song cũng mang một hình thức dị biệt làm cho lòng người phân vân. Nên
cần xác định: Nếu hộ trì Chiếu Minh Đại Đạo thì phải chính danh định phận hẳn
hoi để được sự chuẩn y chấp nhận của Thiên điều hầu sau dễ bề sắp xếp. Mặc dầu
nhánh nhóc chia nhiều cũng đồng một cội. Vì nhánh nầy nhánh kia gần nhau đâm
tược xẻ đan mà gây nên tròng tréo. Vậy chư đệ nào muốn yên thân nhập tịnh thì
lập pháp Chiếu Minh mà tu. Còn đường
lối trung đạo phải theo Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, và đường lối trung hưng mà đi về nơi duy nhất Đại Đạo.
Con đường trung đạo Ơn Trên dẫn lối đã
hiển lộ dần dần bốn tầng bậc công phu đi từ tướng pháp hữu vi Tam Giáo đến tâm pháp
vô vi Tam Thanh. Công cuộc dẫn lối nầy Ơn Trên không đặt vào quyền pháp Hội
Thánh ở Trung Hưng Bửu Tòa mà trực tiếp tận nhân sinh ở các thánh thất mẫu,
theo hướng của Tịnh Đường. Giai đoạn nầy Giáo Sư Thượng Hậu Thanh đã về chấp
chưởng Cơ Quan Hành Chánh.
Để đúng theo tinh thần công truyền và tâm
truyền đồng hành, thế đạo thiên đạo kiêm tu, tướng pháp tâm pháp hiệp một, Giáo
Sư chưởng quản Hành Chánh đã xúc tiến theo chương trình của Hội Thánh mở mang
đường công truyền, thành lập họ đạo Trung Minh, an vị thánh thất tại Bình Thới (Chợ
Lớn), lập khu định cư Quảng Ngãi tại thánh địa Linh Tháp (Tư Nghĩa), thành lập
Trung Tâm Bảo Trợ Thiếu Nhi Hưng Đạo tại Trung Hưng Bửu Tòa.
Giáo Hữu Ngọc Cư Thanh thì kiên định theo
pháp Chiếu Minh không sai một ly tấc cho nên việc gắn kết giữa Trung Hưng Bửu
Tòa và Tịnh Đường chưa thuận hảo. Tiếp Cơ Quân Liên Hoa mặc dầu đã vào tịnh
dưỡng nhưng khi tiếp ơn truyền pháp vẫn còn thủ cơ khiến nhiều vị bên Trung
Hưng Bửu Tòa dị nghị rằng Tịnh Đường là của Chiếu Minh.
Đàn ngày 01-4 Ất Tỵ (01-5-1965) tại Tịnh
Đường, do Huệ Minh Đức thủ cơ:
GIA
ân lần chót độ muôn loài
TÔ điểm đất trời Đại Đạo khai
GIÁO huấn chúng sanh thành Phật Thánh
CHỦ quyền trên dưới một tay Thầy.
Ta
nhơn danh cứu thế đến cùng chúng ngươi. Nơi nầy được ơn Ta. Ngày này được gội
phước đầy dẫy ở Ta.
Cho
phép các ngươi an tọa tại vị.
Nầy
chư hiền đồ! Trước thảm họa của ngày cùng rốt, nhơn loại không trừ một ai mà
thoát được lưới Trời lồng lộng. Cũng vì tội xưa còn lại, ác mới tội thêm, lòng
từ bi mà Thượng Đế không nỡ xem đám con lũ lũ lăn nhào, để phải quăng thân vào
lò lửa dữ.
Thầy
cho Ta đến lần rốt nầy, hoặc nhơn danh Chúa, hoặc nhơn danh Di Lạc Bồ Tát để
dẫn dắt loài người còn đôi chút đức tin ra ngoài vòng vây tự diệt.
Các
ngươi đã nhận nơi Ta đến đây làm gì? Chắc cũng nhận thấy mình có một trọng
trách ở Thầy để cùng hầu việc cho Thầy sau nầy, dựng lại cõi đời thượng nguơn thánh
đức. Cõi đời mà Ta đã cho biết, cũng như các lời cầu nguyện hằng ngày của các
ngươi “Lạy Chúa xin cho chúng con làm đẹp ý Cha trên trời, xin cho dưới đất
cũng như trên trời” thì cõi đời nầy ngày mai các ngươi chưa từng thấy: Rắn hổ ở
chung với chuột một hang, sư tử ăn cỏ cùng linh dương một đồng, chó sói cùng
hươu nai uống chung một suối, thì ngày mai đâu còn kẻ dữ người ác, mà đều được thánh
hóa, ai ai cũng trở nên Thần Phật như trên nước Thiên Đàng.
Muốn
có ngày mai bây giờ các ngươi phải nghe Ta cố gắng làm cho mình trở nên Thánh,
để lên đường hoằng hóa Đạo Trời, ban bố pháp lành, cứu muôn người ra khỏi tử
sanh nạn tiêu diệt.
Các
ngươi sao ngày này ngơ ngác, đương vui đùa trong ảo hóa, quấn mình trong muôn
vạn nghiệp oan? Làm sao phải mau mau buông bỏ sự đời, phủi mùi danh lợi, cởi mở
ái ân triền phược, để thân được rỗi rảnh đương ([7]) lấy sứ vụ nầy. Nếu hoang phế trách
nhiệm, bỏ lời giao ước cùng Ta khi xuống thế, thì đành cắt mọi tuyệt thông
trước Hội Công Đồng, phải nằm trong sự phán xét, thì dầu có thương cũng không
sao cứu kịp. Ráng ăn năn tự tỉnh, phải biết mình có in nhiều dấu ấn nơi mình,
phải quy y hồi hướng, phế bỏ trần tình, cầu tu cầu chứng.
Đọc
lại Thánh Kinh, các ngươi cũng thấy đoạn Xuất Ê-díp-tô Thầy đã chọn Môi-se làm
thông công quyền pháp. Ngày này cũng vậy, dưới bóng mặt trời không có gì lạ.
Ngày xưa ngày nay đều tương tợ trong một chương trình.
Môi-se
đã đem các người Y-sơ-ra-ên ra khỏi sự nô lệ để tìm về đất thánh. Song bao lần
dân chúng đã nguyền rủa Môi-se và phạm đến ơn Cha trên trời. Nó nào biết được
cái gì là hạnh phúc đời đời. Nó nói thà nô lệ cùng người mà có cơm ăn rượu
uống. Đã mấy lần chống đối cùng Môi-se, song quyền pháp mà Cha trên trời đã ban
cho Môi-se làm nhiều pháp lạ. Dân Ê-díp-tô đuổi theo cố bắt lại khi qua biển,
các người đã thấy làm gì? Cây gậy quyền pháp rạch nước đi dưới biển cũng như đi
trên bờ và làm cho đoàn quân đuổi theo đều bị lấp vùi dưới nước. Cây gậy đó là
gì ? Tức thần cơ diệu bút ngày nay. Khi đánh với A-ma-lắc, Môi-se giơ tay lên
thì chiến thắng huy hoàng, để tay xuống thì địch quân đàn áp mạnh mẽ. Tay đưa
lên là ơn điển đã đầy dẫy trên thần cơ, lúc các hiền đón cầu Thiên sứ và quyền
pháp thiêng liêng. Tay đưa xuống là lúc ngưng cơ thì quỷ ma ám ảnh, lòng các
ngươi trở nên chiến bại.
Các
ngươi nghĩ sao? Các ngươi ngày nay còn gián tiếp qua tay đồng tử, cũng như
quyền pháp còn ở Môi-se, ngày mà Thầy đổ thần xối xả trên mình các ngươi tưởng
cũng chẳng còn xa. Các người được trực tiếp cùng Thầy, thấy Thầy hiện đến, nghe
Thầy phán truyền, thấy Thầy mầu nhiệm. Ngày ấy đòi hỏi ở các ngươi một sự trong
sạch và quy giới tinh minh. Cũng như ngày Chúa Cha giáng lâm ở núi Si-nai, các
người (tức dân chúng Y-sơ-ra-en) muốn gần phải thanh khiết và xa đàn bà. Thanh
khiết là gì? Có phải trai tâm thanh tịnh không? Xa đàn bà có phải tuyệt dục
không? Vậy ngày này đòi hỏi các ngươi ở chỗ thanh tịnh tu hành, trường trai
tuyệt dục để khiết tịnh mà đón Thầy một sự trực tiếp vậy.
Lúc
Môi-se lên núi Si-nai đến hầu sự Cha, đón lấy ơn quyền pháp mà an bài dân thành
Y-sơ-ra-ên. Có thể nói lúc nầy người đồng tử của các hiền vào đại định, để rồi
tiếp lấy bản Thánh, bản Thần để đưa các hiền đến nơi cứu cánh là đất hứa vậy.
Song
buồn thay ngày xưa các người Y-sơ-ra-ên làm gì? Tạo ra hình thú mà thờ, truất
bỏ Đức Chúa Trời cao quý. Song cũng vì lòng thương, trong ba ngày Môi-se trở
lại đã làm cho lòng bực bội mà đánh vỡ hai bản quyền luật của Thầy, thế nên mới
có cơ tái lập. Sự phẫn nộ của Trời bởi đâu? Môi-se xin gì các hiền có biết?
Song dầu chi cũng còn bên cạnh là A-rôn, thì cớ sự nầy mà sau phải phân quyền
dựng nên mỗi tộc một trưởng lão. Cũng như ngày nầy các bậc quyền pháp phải đủ
ngày giờ tu học cầu sự thanh tịnh để đón tiếp Đức Chúa Trời, mà đặt ra Ban Hộ
Trì Giáo Pháp.
Quyền
pháp đã phân, sự lập đền tạm tùy sự tính toán khéo léo của các ngươi, để mọi
việc được theo ý Thầy, thì nên coi lại các điều dạy bảo cấm răn ở đoạn Xuất Ê-díp-tô
mà làm quy củ lập chương để tu, để học, để hành, cho sớm trở nên oai nghi quyền
pháp.
Các
hiền đồ hiểu Ta nhắc lại để làm gì không? Có phải chương trình Xuất Ê-díp-tô là
chương trình giáo pháp hôm nay chăng? Nếu sau này quyền pháp được phân thì các
ngươi chớ bắt chước người dân Y-sơ-ra-ên mà bỏ đồ trang sức của mình mà đúc ra
tượng khác mà bỏ mất lối trung hưng chăng? Nghĩa là sau ngày Liên Hoa đi đại
định các ngươi có giữ đường lối trung hưng không? Ta cũng e vì lời tiên tri mà
lòng không yên cho sự lập pháp. Các người nhớ rằng Môi-se chưa dẫn Y-sơ-ra-ên
đến đất hứa thì quyền pháp vẫn còn. Dầu muốn dầu không cũng không thể nào truất
phế được, thì quyền pháp sứ mạng trung hưng nầy cũng không một cớ gì để đưa
Liên Hoa ra ngoài ơn cứu chuộc được. Các ngươi cẩn thận lời nói việc làm để
giữa nhau hầu trọn.
Thôi Ta
nhân danh đến lần nầy sẽ hứa ở bên cạnh các ngươi hầu bảo các ngươi làm các
việc Ta sai và ý Thầy muốn. Vậy các ngươi được ơn Ta.
Thành
tâm tái cầu có Lý Giáo Tông ngự bút. Ta chào. Thăng.
TÁI CẦU
Nhứt
Trấn Oai Nghiêm Lý Giáo Tông
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Bần
Đạo chào chư Thiên ân, chư đạo hữu.
Quyền
pháp khi trao nhớ giữ gìn
Sớm chiều y ỷ một lòng tin
Gắng
công lập đức lo tu hạnh
Để
được hồng ân cõi Thánh lên.
(. . .)
Đây, Lão nhơn danh quyền pháp đến trực
tiếp cùng chư đạo hữu, đạo muội với một sự dặn dò. Quyền pháp nầy không ngang
qua ở Hội Thánh là vì Lão nhơn danh Thầy cần chỉ thị tận cơ sở nhơn sanh, không
mượn trung gian truyền lệnh. Đó là một sự cần cấp, một mối tâm hoài của Lão đối
với toàn đạo, mà đàn vừa qua Lão xin cùng chư Thiên ân phận sự để trực tiếp gặp
đạo hữu sắp đặt một chương trình.
Đạo hữu, đạo muội ôi! Đạo Trời mầu nhiệm,
lòng Trời rộng thương. Toàn đạo ghi sâu vào tâm khảm những điều mà Lão nói đây,
nhất là phận tu hành giữ trọn đức tin, dầu khổ hay dầu phải hy sinh cũng không
đổi lòng thay dạ. Thứ nữa phải nhắm theo mục đích và tôn chỉ của Đạo Trời mà
hành động, mà nói năng tính toán cho khế hợp. Mục đích có hai đường:
Đường tạo thế đại đồng, tình thương không
đứt khoảng, chung lo xây dựng cho nhau, hầu đem chỗ dư bù chỗ thiếu, làm cho
quân bình thịnh vượng, sống trong nếp đạo thái hòa không đứt. Trong lúc còn làm
người phải giữ tròn nhơn đạo báo đáp bốn ơn, ba giềng, năm mối. Lấy đó làm đà
để tiến lên thiên đạo giải thoát.
Cần thấu rõ bực của người tu không thể bỏ
gốc mà tìm ngọn, để ngắt bông hái quả. Nên phải lo lập công, lập đức, giữ đạo,
truyền đạo, đóng góp vào nền tảng đại đồng để đủ đức, để tiêu chướng liễu tâm
mà men đường Tiên Phật, nên không thể không lo nhơn đạo mà được thiên đạo bao
giờ.
Kẻ đã bước vào thiên đạo rồi, thì nên nhớ
chánh danh chánh nghĩa, đừng làm hư danh trái nghĩa mà ô uế cho mối đạo nhiệm
mầu. Giới năm giới cho tinh, quy ba quy cho trọn. Đừng khoác áo nhà tu bên
ngoài, mà lòng tà không bỏ. Đã luyện châu, châu phải đủ vòng. Vòng sáu, vòng mười,
vòng mười lăm, hay vòng trọn tháng, bậc nào giữ đúng bậc ấy để ma chướng khỏi
xâm, họa tai mới tránh, mà chư Thiên hộ pháp mới giúp mình. Không tu được thì
rút lui, đừng để con sâu làm rầu nồi canh.
Lão không bằng lòng cho các đệ về sự chia
rẽ. Tông chỉ là hòa đồng dung kết tất cả. Không nói thân nói sơ, mà xa gần tình
thương là một. Nếu nội bộ mà không liền, anh em nghịch chống nhau, dù tu cách
nào cũng bị trong sự công đồng luận tội. Nên Thầy lập đạo lần nầy là quy hợp
tất cả tôn giáo chung một khối. Lấy bốn biển làm nhà, đâu cũng anh em ruột
thịt. Không nhà nào là không phải nhà của mình, không người nào là không anh em
ruột thịt.
Vì vậy buộc lòng các đệ phải hòa thuận với
nhau để danh đạo khỏi hư, mà hạnh tu cũng xứng đáng. Đã nói chó sói uống chung
một suối nước với hươu nai, ai hiền ai lại dữ? Nếu có bệnh nên có thuốc. Các
hiền là thuốc hay bệnh? Các hiền đã giác hay còn mê? Là mê mới còn rẽ riêng
phân biệt, còn chấp nhứt rầy rà, còn hẹp lượng so đo, còn chê khen hay dở.
Ngoài Đền Thánh và đây là một dòng suối
thông vô tận. Không thể nào ngăn mối nước để cho khúc đầy khúc khô. Vậy hòa
thuận nhau sớm ngày nào tốt ngày ấy. Mà dầu có chỗ nào thấy trái với quyền pháp
cũng đừng vội phê phán mà tình thương bị cạn, lẽ sống khô khan.
Nên nhứt nhứt thờ Thầy, đừng gây rối loạn.
Dầu nhánh nhóc có bông nhiều trái lắm cũng phải do nơi cội. Các hiền thử coi,
sự chia rẽ lớn lao nầy do ai? (...). Nên sự hiệp là việc cần thiết cho sự sống
và lẽ đạo.
Đàn ong vầy tổ là có một sức đông đóng góp
mới thành túi mật. Song khi đi hút nhụy không phải cướp của hoa, mà còn làm cho
hoa kết thành quả ngọt. Nếu không nhờ ong mang phấn đi làm cho hoa đực, hoa cái
gặp nhau thì làm gì có trái? Tuy nhặt chút nhụy cũng trả chút công để nên mình
mà cũng làm nên cho hoa nữa.
Vậy nhớ lại lời Thầy. Thầy lập đạo lần nầy
chính mình Thầy làm chủ mối đạo, không giao chánh giáo cho tay phàm. Dưới thế
nầy không ai được xưng bằng Thầy mà nói dìu dắt nhơn sanh, mà lập thành Hội
Thánh. Các con cái của Thầy chung hiệp nhau thành một sức mạnh, để có một
phương tiện mà sống trong quyền pháp, hầu làm xong bổn phận con người và tiến
lên làm Tiên làm Phật. Vậy giữa các đệ hòa thuận nhau mà giúp đỡ lẫn nhau. Có
đông tay vỗ nên kêu. Có đông người mới thành sức mạnh. Rồi phải ra hoàn cầu thế
giới lập đạo dựng đời, mỗi người chia lo mỗi việc.
(....)
Thôi, bao nhiêu đó. Gắng đọc đoạn Xuất Ê-díp-tô
sẽ có nhiều luật lệ giải quyết quyền pháp trị giáo dân.
Bần Đạo ban ơn lành và chúc lành.
Khu
vườn giáo pháp lại được phát cỏ dọn gai, xới đất, lên vồng khơi luống. Thầy và
các Đấng tiếp tục ươm mầm gieo hạt qua các đợt kiểm tu, kiểm pháp. Trì pháp
luyện châu để tập điều khí dưỡng thần tấn dương thối âm, điều hòa chơn tức, qua
đến bực luyện đạo Tam Bảo Hoàn Châu mở đường thông vận từ Bá Nhựt đến Nhứt Bộ,
Nhị Bộ.
Đức
Chí Tôn dạy:
Vậy từ đây các con gắng làm sao cũng tu
cho được cái hạnh giải thoát. Giải thoát cái thô, mà cũng giải thoát luôn cái
tinh, để cho thân không còn dính mắc, mà Thần cũng không bị án che, thì không
đợi tu nhiều ngày, không cần kể năm đếm tháng. Khó là chỗ buông bỏ trần duyên,
còn phương tu tùy đó mà thâu đạt kỳ diệu pháp môn.
Cốt các con quên được mình để cho mình
đồng hóa cùng Đạo. Mình và Đạo làm một thì càn khôn tuy to rộng nhưng cũng ở cả
trong bàn tay. Mà muốn đồng nhứt cùng Thầy thì luyện lọc cái tâm cho trong
sáng. Nghĩa là chuyển hậu thiên trở lại tiên thiên để chứng đạo.
Cốt là quy căn phục mạng. Căn mạng
là Thầy và Đạo, là trung huỳnh mồ kỷ thổ, vô cực vô vi, hiện ở người là tín.
Đức tín được rồi thì đơn nguơn cũng
kết tụ. Nên giữ tín ở người mà cũng ở mình là cần thiết. Tín ở mình đó là cái
dụng ở đơn, mà đơn là tín. Nên tu thanh tịnh là đắc đạo, mà còn vọng động là
còn vô minh. Còn vô minh là còn luân hồi. Còn luân hồi thì làm sao có đơn?
Đơn là gì? Là hai khí âm dương kết hợp,
tánh mạng đồng viên. Mà tánh mạng đồng viên là nhơn đắc nhứt. Đắc nhứt là Thánh.
Nhứt là tuyệt đối. Không có gì đối đãi gọi là nhứt. Mà nhứt là vô vi, vô cực.
Vậy phương tu tấn hỏa thối phù cốt là dưỡng cái đạo tâm, diệt cái phàm tâm.
Đức
Chí Tôn dạy về tu tánh luyện mạng:
Trong hai phần tu tánh tu mạng, nếu phải
bỏ lấy một thì nên lấy phần tu tánh cũng đắc thành quả vị.
Đàn ngày
08-11 Ất Tỵ (30-11-1965), Đức Chí Tôn ban hành giới luật:
Ngày nay là ngày lập giới luật mà cũng là
ngày các con vui mừng bước lên nấc thang giới luật đặng về thẳng cùng Thầy.
Giới luật của Thầy lập ra cũng không ngoài giới luật đã sẵn có từ lâu và cũng
không ngoài giới luật của Tam Giáo. Ngày nay Thầy dung hòa các giới luật của
các tôn giáo lại làm một, để cho các con nương theo đó mà tu để mong ngày thành
đạo.
Đàn
ngày 01-5 Bính Ngọ (19-6-1966), Đức Thái Bạch Kim Tinh dạy về việc tuân hành
giới luật:
Vì vậy
con người hướng đạo dẫn một số người cùng đi tìm về cõi thật, thì trước đã có
đủ phương pháp để cân nhắc đo lường. Nếu dài có thước, nếu nặng có cân, ít
nhiều có cân, có lường để tính. Không thể lấy mắt đoán chừng, mà có giỏi đoán
thì một trăm lần cũng chưa đúng một. Nên sai một ly đi một dặm, thì mọi việc
đâu đủ làm căn bản cho ngày sau. Nên luật pháp đã quy định, thì cứ theo đó mà
làm. Dầu vạn đợi ([8]) cũng
không sai, mà giữa ta cùng người cũng không hề trái. Nên quy củ chuẩn thằng là
bốn nguyên tắc chính,([9]) dầu
thợ giỏi cũng không sao bỏ mực bỏ thước, mà làm cho khéo được.
Hôm nay nền Đạo Trời chia ra nhiều khối,
mỗi khối lại còn chia nhỏ thêm ra. Có phải chăng trên thiếu đức, không cảm hóa
được dưới, dưới thiếu hạnh, không tôn kính được trên? Dưới trên bất ổn, bất
nhứt, mà quyền pháp phải lu mờ, cũng vì không tôn kính luật pháp.
Hôm nay nền trung hưng tái lập, là ơn
phước để phục sinh quyền pháp mà duy trì đạo thống, hầu thay thế cho các tôn
giáo gánh lấy sứ mạng duy nhất.
Mọi việc sẽ được sắp đặt chỉnh đốn tránh
mọi vấp ngã về sau. Kinh nghiệm việc làm đã qua mà ngăn ngừa bước mới. Cùng
nhau quyết định một chương trình. Việc ổn định nội tình, việc tương quan duy
nhứt và việc quy định bộ máy và an
vị ngôi thờ. Còn những sự nhỏ thì cho qua và cũng đừng nhắc lại để vết thương
được lành, không cho lan rộng. Con thuyền đạo muốn cho vững vàng, hãy đặt lòng
tin nơi người lèo lái. Để cho công bình hơn, thì cơ bút phải được quy định và
phân công. Một con thuyền không lẽ có hai lái. Thì lão quyết đặt lại vấn đề nầy
giao cho toàn đạo quyết định bằng một lá thăm của mình để tương lai khỏi nói
qua nói về mà lòng tin chao đảo.
Ở đàn trước, ngày 08-02 Bính Ngọ (27-02-1966),
Đức Ngô minh định pháp tu của sứ mạng trung hưng:
Tại sao các hiền không thông cảm sứ mạng
nơi nầy? Có phải chỉ tu theo pháp Chiếu Minh mà thôi đâu. Là người của Hội
Thánh Trung Hưng trước ngày vào thọ pháp, Thầy cũng đã đồng ý các hiền tu theo
pháp của Thầy đã trao cho Chiếu Minh. Nhưng về công việc hành đạo thì là người
sứ mạng của Hội Thánh Truyền Giáo. Các hiền quên những điều đó mà bây giờ còn luẩn
quẩn trên đường lối tu học để phải đi sai với lập trường của mình làm thất trí
với nhơn sanh. Bây giờ trò nào tu theo pháp Chiếu Minh thì cũng phải tuyên bố
dứt khoát cho toàn đạo khỏi phải nghi ngờ, còn trò nào theo đường lối Trung
Hưng thì cứ theo nề nếp lâu nay cũng như lời nguyện của mình mà làm cho đúng.
Vì
bởi khi lập Cơ Quan Giáo Pháp để nâng nhắc đường tu Vô Vi Tam Thanh, thế mà
Thầy lại mở ra tầng bậc tu châu Hồi Hướng cho toàn đạo hữu thọ tu theo hữu vi
Tam Giáo. Việc nầy làm cho các vị thọ pháp tu theo chơn truyền ngại rằng đồng
tử đã không còn tinh chuyên hay có thể là đã xảy ra nạn khảo thí cơ bút gây bất
đồng nội bộ. Thực ra sự ngại ngờ nầy đã có từ nhiều đàn vừa qua. Do vậy Thừa Sử
Hồ Tân Sinh bạch: “Xin Đức Giáo Tông minh định các đàn cơ vừa qua ai phải ai
trái?” Đức Giáo Tông dạy (đàn 08-11 Bính Ngọ):
Lão chưa đề cập đến mọi vấn đề phải trái,
vì đó là đức tin. Còn việc trên để duy nhứt một nguồn sống thiêng liêng thì
quyết định một ngòi cơ. Dầu dở dầu hay cũng ổn thỏa cho tinh thần tu học của
toàn đạo. Vì lẽ đó mà để phần nhơn sanh quyết định với số mạng đời mình, không
thể đồng Liên Hoa hay đồng Minh đức quyết định bằng cơ bút được. Dù ở Tòa Thánh
Tây Ninh hay các chi phái khác tuy nhiều đồng nhưng chỉ có một đồng pháp mà
thôi. Còn đây giữa Tá và Tiếp ([10]) coi
như đồng quyền, nên vừa qua các lịnh lập Họ ban hành quyết định đều do đồng
Minh Đức cả, nếu không thì kéo dài tình trạng khảo thí. Vị nào cũng phải hy
sinh một vị để cơ đạo được đi trên đường bằng phẳng. Còn nói lại là do Thiêng
Liêng thì chỗ hiểu đó chưa trọn. Dương không âm không tác dụng nên gọi “Kiền
tri thái thỉ, Khôn tác thành vật”. Không có đồng tử cũng không có Thiêng Liêng
hiện được. Mà hiện được trọn hay không, một phần lớn ở đồng tử. Như điện vào
một bóng đèn, thứ đỏ thứ xanh, thứ trắng thứ vàng, cái sáng cái mờ, cái trong
cái đục, bóng nhiều bao nhiêu thì sáng ít, ít thì lu. Đâu phải tại điện có sắc
có màu, có lu có sáng, nên quan hệ ở đồng. Còn nói bỏ Liên Hoa thì sự đó không
ngại, Ơn Trên sẽ ban cho một nhiệm vụ khác, nếu nhơn sinh tùy duyên nghiệp với
sự tương quan của đồng mà tương ứng phối nhứt, ai được cũng hay. Dù không đẹp
lắm cũng không xấu lắm, miễn yên lặng bình thường hơn làm sóng gió để đẩy
thuyền vượt qua có nhiều nguy hiểm.
Theo thánh
ý, Cơ Quan Giáo Pháp và Trung Tông Thánh Tịnh của Trung Tông Đạo đặt tại thánh
thất Trung Thành do Đầu Họ Thượng Khải Thanh hộ trì. Tại Tịnh Đường, Tý thời
ngày 01-6 Bính Ngọ (17 rạng 18-7-1966), Đức Trần Hưng Đạo dạy:
Giờ nầy Bản Thánh thừa sự vụ Giáo Tông lâm
đàn để ban một quyền pháp thành hình ngôi Trung Tông Thánh Tịnh hầu đem lại một
tinh thần duy nhứt của toàn đạo nơi đây để tiếp nguồn lành hầu tưới xanh cây
đạo, và nhắc lại một vài nguyên tắc của mục đích ban đầu mà giữa Trời và người
dựng cơ sở Đạo Pháp.
Ngày tới đây chư hiền có trách nhiệm về
quyền pháp cũng như toàn thể đạo tâm quyết định tôn trí ngôi Trung Tông Thánh
Tịnh để làm tôn chỉ, mục đích cho mình và cho người về sau. Giáo Tông chấp
thuận lời cầu xin của toàn đạo, ban một quyền pháp để trấn thần an vị thì việc
làm quan trọng này mong toàn đạo duy nhứt một tinh thần để làm khởi điểm cho
công cuộc trung hưng, hoàn thành nhiệm vụ quyền pháp nầy. Giáo Tông ủy nhiệm
cho Giáo Hữu Thượng Khải Thanh hành pháp. Chư hiền cùng toàn đạo chung tinh
thần để việc làm được trọn.
Đức
Trần Hưng Đạo ấn định về chủ lễ, sắp đặt vị trí của mỗi pháp cụ trên Thiên Bàn,
cách thức hành pháp, lễ phẩm… và ấn định lễ khai đàn vào ngày 08-6 Bính Ngọ.
Tại Trung
Tông Thánh Tịnh, Tý thời, ngày 08-6 Bính Ngọ (25-7-1966):
LÝ
tâm mong mỏi đạo trung hưng
BẠCH hắc khuyên nhau hiểu rõ cùng
GIÁO hóa cho đời thông lẽ đạo
TÔNG thành cơ chỉ gội ơn chung.
Bần
Đạo lâm đàn hành pháp cho công cuộc thiết lập ngôi Trung Tông Thánh Tịnh hầu có
một lối thông giữa Trời và người, giữa Thiên ân cùng toàn đạo để tu thân xử đạo
và phần hoàn nguyên của mỗi người, để đón lấy phần xứng đáng mà Thầy đã dành
cho, và cũng lướt qua một vài công vụ để nội bộ hành quyền chấp pháp làm đẹp
lòng Thầy, vừa ý nhơn sanh.
(…)
Đây
đã nói lên được cái lập trường của toàn đạo, chí hướng của Thiên ân, tôn chỉ
cao cả Thánh Thần thì Bần Đạo cũng đáng mừng cái sự nhận hiểu con đường trung đạo,
mà công việc các hiền phải làm, phải tu để thành công cho sứ mạng. Bần Đạo ước
mong ở chỗ thực hiện để tránh cái lối năng thuyết bất năng hành.
Từ
đây các hiền nơi đây nói chung còn phải trải qua nhiều khúc quanh co. Có vậy
mới đáng con người quyền pháp hướng đạo nhơn sanh. Cái khó nầy do các hiền tạo
nên, mà cũng ở một phần lớn trong cơ thử thách. Xưa dân Do Thái từ Ê-díp-tô trở
về đất hứa, khoảng đường chẳng xa mà lúc đi phải mấy mươi năm, thì việc này
cũng tương tợ.
1.
Dung hòa duy nhất tại Trung Việt một Hội Thánh để làm đến thống nhất toàn bộ
các Hội Thánh, để công đức đó mang mang vô tận ví như Thánh như Thần.
2.
Không thể hiệp lại được thì phải có một tổ chức mạnh mẽ: Hàng ngũ trên dưới
nhất tề, quyền pháp minh định; hướng đạo nhứt trí cùng một việc làm, tín kỉnh
nhau như một khối chặt chẽ, như Lưu, Quan, Trương nhà Hán mới làm nên sự nghiệp;
pháp môn tu học phải đắc chứng, không nên nhận sai nói càn mà đưa quần chúng
vào nơi tăm tối sai lạc.
3.
Hai lẽ trên không làm được thì trách nhiệm quyền pháp sứ mạng giao lại cho nhơn
sanh toàn đạo để tự quyết, đừng nên trù trừ mà chẳng được cho thân, lợi cho
đạo.
Về cơ
bút là một lợi khí giao thông. Lúc toàn đạo gặp nhiều khó khăn bởi nạn đời gây
nên, chư hướng đạo khi chưa trực thông cùng chơn lý đạo pháp cần để cầu hỏi
Thiêng Liêng khải thị để hành quyền chấp pháp cho trúng mà dìu dắt đạo hữu lập
công tu học. Song Bần Đạo nhận thấy lợi bất cập hại, mà sau nầy làm trở ngại
đức tin. Ví như sự giáo hóa bình thường còn có kẻ tin người ngờ. Nếu đến một
cái lịnh Thiên Đình, phải cấp tốc theo lịnh để kịp hầu chuyển loạn thành trị,
nếu chậm chạp thì loạn chuyển nên loạn, loạn sẽ tiêu diệt lẫn nhau. Quyền pháp
lúc này quan trọng nên Bần Đạo đề nghị tạm ngưng cơ thời gian sáu tháng.
4.
Việc sắp xếp cơ sở quyền pháp nơi đây là một sự khó làm cho tròn, vì lịnh xuất
đa môn, quyền hành không nhứt thống. Dưới trên lớn nhỏ còn sống trong nếp đời
dân chủ quá trớn nên trên dưới chống nhau.
Nếu một tổ chức không có một Giáo Sư quyền pháp cầm đầu thì sẽ loạn mà loạn
trái mãi.
5. Các
cơ sở xây dựng bị đặt không phải chỗ của nó.
Về
quyền hành nhiệm vụ của cơ Giáo Pháp, hai ngành như một, một như hai. Nghĩa là
phần bảo pháp đường lối luật pháp chưa rành rõi để bảo tồn nền móng chơn truyền.
Phần
hành pháp nguyên tắc hành chánh chưa thạo mà có phần bất công gây sự lờ mờ của
nội bộ. Như lịnh vừa rồi ban pháp trấn thần, Bần Đạo không trực tiếp ban mà
trao qua Thượng Chánh Phối Sư Hành Chánh ra lịnh. Đó là nguyên tắc để các hiền
học mà tu. Nên ở đây Hiệp Thiên Đài nếu có thì phải chỉnh đốn Hiệp Thiên Đài và
bộ phận thông công đừng nên lầm lẫn. Cửu Trùng Đài cũng có một bộ máy lành mạnh
chủ quyền điều khiển. Bộ máy có một Hội Trưởng là Phối Sư hay Giáo Sư mới đủ
đức đủ người. Nếu quyền hành không do bởi một tay chấp chánh thì sẽ loạn. Song
một tay chấp chánh không phải độc tài, mà chấp hành chương trình do hội đồng
nội bộ quyết nghị.
Về
việc ngưng cơ là Bần Đạo mới đề nghị, còn chờ ý chư hiền. Nếu cần mà việc không
giải quyết được như thời thế chuyển biến, thì lúc đó cứ xin lịnh mà cầu rồi ra
quyết nghị lại.
Cơ Quan Giáo Pháp tiến triển khá êm đềm.
Ơn Trên liên tục nối điển quang làm sáng tỏ chánh pháp Cao Đài nơi miền Trung,
vun đắp sự tốt đẹp cho chơn truyền Đại Đạo. Về bên Trung Hưng Bửu Tòa, Giáo Sư
Thượng Hậu Thanh chấp chưởng Cơ Quan Hành Chánh, còn các phần vụ khác cần điều
phối lại.
Về vai trò Chủ Trưởng, vì Phối Sư Ngọc
Quế Thanh không thường xuyên tại Trung Hưng Bửu Tòa nên Hội Thánh sắp xếp Giáo
Sư Ngọc Tín Thanh làm phụ tá. Hội Thánh điều dụng Giáo Sư Thái Phẩm Thanh đang
là Đầu Tỉnh Đạo Quảng Ngãi về vị trí Chưởng Quản Cơ Quan Phước Thiện kiêm nhiệm
Đầu Tỉnh Đạo Quảng Tín. Đồng thời cử Quyền Giáo Hữu Lê Quang Sách đảm nhiệm Đầu
Tỉnh Đạo Quảng Ngãi.
Hội Thánh tiếp tục xúc tiến nhiều đạo sự
quan trọng:
Năm Bính Ngọ (1966): Lập trường huấn nghệ
tại tỉnh đạo Quảng Ngãi, tổ chức phái đoàn Hội Thánh thăm viếng các tôn giáo
bạn và các Hội Thánh Cao Đài.
Năm Đinh Mùi (1967): Hội Thánh cho thành
lập ký nhi viện tại khu Linh Tháp (Quảng Ngãi) do Quyền Giáo Hữu Lê Quang Sách
làm giám đốc. Tại Quảng Ngãi Hội Thánh còn mở trung tiểu học Hưng Đạo do bác sĩ
Tôn Thạnh Giang làm hiệu trưởng. Vào tháng 3 Đinh Mùi (tháng 4-1967) Hội Thánh
lập Tỉnh Đạo Daklak tại Ban Mê Thuột, cử Quyền Giáo Hữu Đỗ Thanh làm Đầu Tỉnh
Đạo.
Năm Mậu Thân (1968): Hội Thánh cử Quyền
Giáo Hữu Nguyễn Đình Hoành đặc trách thành lập khu giáo dân Bình Tuy tại Võ
Đắc.
Ở Sài Gòn, Văn Phòng Đại Diện Ngoại Giao
được nâng lên thành Tòa Đại Diện Ngoại Giao, vẫn đặt tại thánh thất Trung Minh.
Chăm lo việc tu học cho bổn đạo miền
Trung di cư sinh sống ở Lâm Đồng, Đà Lạt, cuối năm 1968 Hội Thánh lập Thiên Bàn
Đơn Dương tại xã Lạc Nghiệp, thị trấn D’ran (sau này là thánh thất Trung Dương).
Song song với việc phát triển dân sinh,
dân trí, dân đức Hội Thánh đầu tư mở nhà in Trung Hưng tại Đà Nẵng, đặt trong
khuôn viên Đền Thánh.
Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài có bốn Giáo
Sư. Giáo Sư Thượng Hậu Thanh gắn bó với Tịnh Đường hành trì tâm pháp vô vi. Đến
lúc xây dựng Cơ Quan Giáo Pháp cho Trung Tông Đạo, với nhiệm vụ Chưởng Quản Cơ
Quan Hành Chánh, Giáo Sư Thượng Hậu Thanh linh hoạt mở mang mặt công truyền
hành đạo, thực hiện mọi chủ trương, mọi công trình của sứ mạng tận độ nhân sinh
về tướng pháp. Còn phần tâm truyền, Giáo Sư vẫn kín cổng cùng Tịnh Đường hành
trì công phu, liên tục tham gia hầu đàn cơ để tiếp ơn giáo hóa.
Giáo Sư Thượng Hậu Thanh rất phấn khích
cảm nhận về cơ thành đạo của Trung Tông đang hiển lộ. Việc Thầy phong quả vị
Thiên Đức Chơn Quân cho Bùi Đặng Đán và Thiên Bảo Chơn Quân cho Ngô Thanh Toàn
đã nung nấu đức tin mãnh liệt trong Giáo Sư về sự thành tựu chánh pháp của
đường trung đạo.
Cuối năm Mậu Thân (đầu năm 1969) tại
Trung Tông Thánh Tịnh, Giáo Sư Thượng Hậu Thanh được Đức Trần Hưng Đạo ban huấn
dụ:
TRẦN,
Lý quân dân đạo nhất thành
HƯNG khai pháp tượng độ quần sanh
ĐẠO Trời nay đã khai thông khắp
Giáng điển đổ thần giải nghiệp thanh.
Bản
Thánh chào các đệ.
Hôm
nay Bản Thánh lâm đàn cũng được ơn Tam Giáo muốn cho hiền Hậu một khẩu khuyết về môn tu học chánh pháp
trung hưng từ bao năm nay bị chư chức sắc đã làm cho quyền pháp không còn hiệu
năng, cũng vì tự thị, tự khôn biết mà che mờ huyền linh sứ mạng.
Ơn
cứu chuộc của Chí Tôn cũng vì bên trong nội bộ của mỗi Hội Thánh chỉ nghĩ cá
nhân mà quên phần đại sự. Đạo Thầy không chỉ các hình thức nhiêu đó, mà còn phải có được con người thánh minh khai
thác kho tàng huyền diệu còn nằm nguyên trong cảnh giới lý trí con người. Nếu
Đạo Thầy chưa có bậc chơn trí đắc chứng huyền cơ, thì không bao giờ giải quyết
mọi đen tối cho cảnh giới trần hoàn và gom tụ các nguyên căn bên ngoài cửa đạo.
Các Thiên ân không quyết tâm đi vào
cảnh giới nội tâm, thì không được
cái gì là ơn ích cho cơ tận độ cả.
Sứ
mạng trung hưng mà Thầy đã giao phó nơi tay chư Thiên ân cầm giữ, mà nay nơi
mỗi người chẳng thấy được một ai còn
nắm trọn cả. Vì lẽ đó mà Thần Lẽ Thật và sứ mạng trung hưng bị phân tán khắp
nơi. Còn một ít nằm gọn trong danh từ hình bóng hữu vi. Mặc dù bị mờ lấp ở sau
con người, song biết quay về tự tâm thì sẽ nhận lại căn nguyên động lực ban
đầu. Nền đạo bất cứ Hội Thánh nào mà được một vài bậc chơn tu giác ngộ siêu
phàm chứng Thánh cũng đủ nhích lại cán cân, thì có lo gì thiên hạ không quy tụ,
đạo hữu không nhất tề.
Phần
lớn chư đạo hữu quan niệm môn tu quá sức tưởng tượng. Phải nhắm mắt làm thinh,
suốt ngày ngồi yên trong mật thất mới gọi là tu. Đó là tu ở hình thức theo
khuôn sáo cũ.
Tu
cũng không phải học cho nhiều, biết cho lắm, mà cốt thấy cho được tự tánh, chủ
cho được tâm cơ. Từ bỏ cho được ngã chấp, giữ cho được bình thường tâm. Không
đắm nhiễm chạy theo ngoại vật mà quên lãng chủ nhân ông của chính mình. Hoặc
lầm tưởng cầu cái Đạo qua tay người khác ban cho, không ngờ Đạo thật ở nơi
lòng. Lòng Đạo đã sẵn từ vô lượng kiếp lai. Khi có thân tứ đại nầy thì Đạo cũng
lồng trong xác thịt chớ nào ai cho, hay rèn đúc nơi lò nào.
Nói
vậy không phải phủ nhận phương môn trì tu. Phương pháp truyền đạo của Giáo Tổ
nào cũng chỉ là thứ phương thức làm công cụ đả phá, khai quật mọi chướng ngại
phiền não vô minh đem tự tánh chủ nhân ra ngoài ngục đời phàm tục để nó biểu
hiện không còn cái gì ngăn ngại. Khi nó đã được xuất hiện tự do, thì tất cả
thị, thính, ngôn, động là chơn lý, chơn thật cả. Nên nền Chánh pháp của Đạo
Thầy muốn sao chư Thiên ân cầm giềng mối Đạo, ý thức môn tu hành, làm chủ được
tình thức dục vọng, thì có thể làm chủ thiên hạ. Việc đó quá rõ ràng. Nếu không
thấy cái huyền cơ, không thông lẽ biến hóa, không nắm được thời, không loại trừ
ngã chấp, thì không thể nói là hướng đạo.
Hướng
đạo là người chứng ngộ tự tâm, huyền đồng cùng Thượng Đế. Nếu con người tài trí
lỗi lạc, thông tuệ hơn người, mà không tương hệ với Thượng Đế, cũng là giặc của chánh pháp. Đó là nẻo đưa
chúng sanh vào chỗ tranh giành, gây ra phiền não chướng ngại. Nếu lý trí tuyệt
trần mà không vun bồi cội đức, thì lý trí là mầm loạn, đâu ích gì cho ai. Sở dĩ
chúng sanh không thoát được nghiệp, không tỏ được Đạo là do tài trí. Tài trí
càng phát triển thì càng che mờ giác tánh, làm trở ngại, nhiều kiếp luân hồi.
Tóm
lại Hội Thánh nào, tôn giáo nào cũng quý con người tài năng lanh lẹ. Tài năng
để phục vụ cho chánh pháp, tài bồi cho cuộc sanh thành của Tạo Hóa, thì đâu bỏ
được tài năng. Song con người có chút tài thì ngạo mạn tự kiêu, không cho giác
tánh liễu ngộ. Nên kẻ tài trí cần phải biết tự tỉnh, thấy cho được cái gì sanh
ra tài trí. Nếu chỉ biết cái bóng hình nhánh nhóc mà quên cái gốc bên trong,
thì đâu còn gọi là tài trí nữa.
Công
việc cử tác của Hội Thánh đâu phải sai. Nhưng chỉ ôm lấy cái vỏ kình càng mà
không thấy cái luật biến thông là công dụng về đạo pháp. Sau khi Chí Tôn và Ngô
Đại Tiên đã áp dụng môn tu học, hành đạo đi đôi, để chứng tỏ chánh pháp trung
hưng là trung đạo, nội thánh ngoại vương. Nghĩa là tự giác giác tha, chánh kỷ
để hóa nhân bằng con người nhơn sanh thừa mạng. Con người thừa mạng Chí Tôn mà
còn phàm thì làm sao thánh hóa muôn người? Cần có cơ sở, cần có môn thế đạo,
môn giải thoát. Nhưng cần thiết hơn hết là làm sao cho con người cùng trong một
thánh thể, ai nấy cũng được nối mối thông công liên hệ với Thầy bằng môn tu
châu tịnh định. Tất cả
ngọn đuốc tâm linh đều được thắp
sáng soi đường cho thiên hạ. Nên cần nhất là sự nối liền giữa Thầy và nhơn sanh
trong Giáo Hội. Đó là dòng suối tâm linh, dầu chưa nhập thánh siêu phàm cũng
làm được con người chân thật.
Có con người tu châu rồi sẽ có con người giải
thoát. Cầu sao cho mọi người cùng trong một thánh thể, sở dĩ họ giải thoát là
nhờ tu châu mà bừng tỏ tâm hồn khát khao chân lý. Con người Giáo Hội đã được tu
châu thì dòng điển quang sẽ soi sáng đả phá vô minh. Tự họ sẽ thành con người
thiện dân Thánh Thần, con người quy luật.
Làm
nên cho Giáo Hội, chỉ cần con người biết tu tỉnh tâm linh, tô bồi gốc Đạo. Gốc là Thầy. Có Thầy thì việc gì cũng
ổn định, việc gì cũng thành công. Nên phải lấy chữ tu làm mục đích. Nhưng cũng
đừng chấp tu phải lìa đời xa bạn, mà càng sống trong thanh sắc. Phía trong
thanh sắc là Thánh. Cứ an nhiên tự tại. Bất cứ cảnh nào cũng được ứng thông
nhật dụng thường hành.
Đạo
pháp là thế gian pháp. Phiền não là bồ đề.
Trần tục là thánh đền của bậc giác ngộ. Nên các bậc đạo sư minh triết không
cần xuất tục, mà tục là chỗ đạo tràng của thiền định. Cái khó của người tu sống
trong đám đời mê muội đầy tham sân nghịch ngợm, mà lòng tu không chấp mắc,
không phân biệt, không lấy bỏ, không ta người. Có được vậy là nhờ bao nhiêu ma
lực nhất thiên nhiên bán đời bán đạo. Thích là con đường giải thoát, nhứt trần
bất nhiễm, vượt cả Thánh Thần.
Trong
lúc hiền đệ cần bồi dưỡng cho nội tâm sung mãn thì tùy nghi phương tiện thuận
lợi mà an dưỡng tâm linh. Song được phần mình mà mất phần nhơn sanh, kẻ được no
cũng nhớ đến người đương đói khát. Đó là Thượng Đế, là lẽ thật là sự sống và
tình thương. Người Thiên ân cần chỗ an tâm, cần có thì giờ để chiếu phá vô minh
còn lẫn sót, thì sự hành quyền, sử vị mới linh động sáng suốt. Song Hội Thánh
không người thì hiền đệ cân nhắc cho đúng mức, thì đẹp lòng Trời thuận ý người,
nên việc cho ngày mai. Hội Thánh hiện nay kẻ cầm lèo lái nếu biết quay vào nội
tâm, tẩy tâm thối tàng ư mật, thì sứ
mạng Trung Hưng ở ngay trước mặt.
Đàn giao thừa ngày 01-01 Kỷ Dậu (17-02-1969)
tại đàn Chợ Lớn. Phò loan: Quảng, Châu. Độc giả: Phụ. Điển ký: Huệ.
THI
CAO
ban phúc đạo tiết xuân sang
ĐÀI thượng gia ơn khắp cả đàn
GIÁO lý độ đời nêu bảng Thánh
CHỦ tâm thoát kiếp đoạt khoa tràng
NGUYÊN nguyên mặc hộ trần ai khổ
ĐÁN vọng âm phò nghiệp thế gian
GIÁ ngự chiêu chương chan rưới điển
LÂM truyền các trẻ gội thanh quang.
Đức Chí Tôn ban danh hiệu Huyền Quan Đàn
cho Trung Tông Thánh Tịnh:
Huyền
công dụng điển đề thơ
Trung phần Đà Nẵng điện thờ nghiêm trang
HUYỀN QUAN ĐÀN Thầy ban danh hiệu
Lịnh Thầy truyền chiếu diệu hôm nay
Danh xa Minh Chiếu Cao Đài
Giống lành gieo tốt hậu lai nối truyền.
Tịnh Đường, đàn Tý thời ngày 02-01 Kỷ Dậu
(18-02-1969), Liên Hoa thủ cơ:
NGỌC
Kinh Thầy ngự hội quần Tiên
HOÀNG Phụ thương con mở thánh truyền
THƯỢNG hạ một lòng thanh tịnh giới
ĐẾ ngôi cựu vị được hoàn nguyên
GIÁNG thăng pháp đạo thông thiên địa
HUYỀN tẫn nhiệm mầu kết hống diên
QUAN khiếu mười phương cơ tiếp độ
ĐÀN trung vi hiến nhứt môn thiền.
Thầy
mừng các con.
Hôm
nay ngày tân xuân năm Kỷ Dậu, Thầy lâm cơ bố điển, ban rưới hồng ân cho các con
nam nữ nơi nầy cùng tất cả hoàn cầu và đặc biệt cho Việt Nam Thánh Địa.
Thầy
miễn lễ. Các con an tọa nghe dạy.
Trải
bao ngày tháng thăng trầm, cuộc dinh hư biến dịch của cơ Tạo nhiệm mầu các con
cũng không thoát ngoài công lệ mà cơ đạo cũng nằm trong khuôn khổ của thời
gian. Thầy cũng đành để cho các con phải trả xong nợ tiền kiếp, tạo lập cho
mình một địa vị xứng đáng để được quyền pháp trọn trao, luật công bình Thầy
không sửa được.
Nhưng
các con đã đến nơi trường đời nhờ hoàn cảnh đào luyện. Nếu các con có chí, chầy
sớm cũng trở thành bực vĩ nhân hiền đức, đủ tư cách đảm nhiệm sứ mạng của Thầy
dự định phó thác vào những con, để thay Thầy nơi cõi thế nầy đem mối Đạo mà
quảng truyền cho bốn biển, hầu tiếp độ nhân loại đương có đủ thiện căn.
Hạt
giống trọn lành ở trong thân tâm con người nhơn khí xuân dương tái phục. Sự
sống đâu đó được nhô lên. Chỉ còn chờ sự tiếp tay của người có sứ mạng ở nơi
Thầy vun tưới, đắp xây cho nó, thì tự khắc được nẩy nở sum sê, hoa thơm trái
ngọt, đạo đức kết thành. Đâu đâu lại chẳng có cây lành. Một hóa trăm hóa ngàn.
Cơ đạo hiển nhiên đầy trời đẹp xinh tươi tốt.
Hôm
nay Thầy thấy các con nơi nầy chí tu đã vững, lòng đạo đủ đương lấy gánh nặng
quyền pháp, tự độ độ tha, thành kỷ thành nhân, hầu đem nhau lại hiệp một cùng
Thầy. Thầy ban cho nơi nầy một hiệu đàn gọi là Huyền Quan. Các con hướng vào đó
mà tu, noi theo đó mà hành.
Trời
đất không ngoài cái đó. Thành Tiên Phật bởi đó. Sự sống ở đó. Lẽ thật trong đó.
Tình thương phát xuất do đó. Kiền khôn thế giới đứng vững nhờ đó. Các con đắc
đạo là đắc cái đó. Mọi người, mọi giống chung chạ mà không tiêu diệt lẫn nhau
cũng bởi đó.
Giữa
xã hội, nó là cái cửa đạo nghĩa. Sự sinh tồn nó là mối nhân luân. Dầu kẻ ngu
hay hạng người đại trí cũng một khiếu Huyền Quan. Hoặc ẩn hoặc hiện, hoặc ít
hoặc nhiều, muôn vàn khía cạnh xuất hiện, trông như khác nhau nhưng mọi cái sở
dĩ không ngoài khiếu đó. Nhưng đạt cho được toàn diện, chứng đến rốt ráo chỉ có
Phật mà thôi. Nên muôn sự muôn việc dầu hiện dầu chưa hiện, hoặc đã qua hoặc
sắp đến, không có huyền khiếu đó thì không có càn khôn thế giới nầy. Mà có cũng
do đó gây ra biết bao sự oái ăm trái nghịch, vui khổ ảo huyền.
Nhơn
loại lên xuống sáu đường ba cõi cũng vì chưa hoạch đắc chỗ trung nhứt khu nữu
của căn đề. Mà chỉ nó phát lộ ở khía cạnh hậu thiên rồi cứ chấp cứng ở một vài
chi tiết, như lý trí tình cảm, rồi cho đó là trực nhập chơn tâm. Nên kẻ kia
hoặc duy lý, duy tình, duy tâm, duy nghiệm, duy vật, hay duy kỷ, mà đem cái
toàn diện của nó chặt ra nhiều khúc. Mỗi người giành lấy một phần, rồi tranh cãi
nhau mà xô thế giới vào trường luận biện đấu tranh.
Thầy
ước sao mỗi con phải can đảm chiến thắng với hoàn cảnh, vượt lên trên hình thức
hẹp chật, đứng ra ngoài thị phi ẩm thực thường tình, để lòng trống không thanh
thoát, hầu trầm lặng trong biển chơn như, để chứng nhập Huyền Quan, hầu huyền
đồng cùng trời đất, để thị hiện con người thánh đức dung thông, cho thế giới
cho tương lai một con đường trung chính, một niềm tin trọn vẹn tận đến mục đích
cứu cánh cho loài người.
Các
con hiện nay còn cậy sức mạnh của máu xương, tài ba bằng trường đời đào luyện,
khôn ngoan ở kinh nghiệm tập tục, hoặc lời lẽ Thánh Hiền lưu tích ở sử kinh,
chưa phải tự mình phục sinh nguồn đầu bản lai chí thiện.
Hôm
nay Thầy ban cho con một hiệu đàn, là ban cho một bửu pháp, một quyền năng, một
sự sống theo đà xuân nầy mà tiến mãi cho đến hạ thì trưởng thành, qua thu thì
thâu gặt, đến đông thì tàng trữ, rồi tuần hoàn cứ đó mà thánh hóa thêm lên.
Huyền
Quan chẳng những một phương tiện đạo đức của người triết nhân, mà bao hàm một
sức mạnh thiêng liêng. Các con nương đó làm gậy đỡ chân trên đường ghồ ghề hiểm
trở, để tìm những con chiên lạc đem lại một chuồng, và cũng nương đó chống đỡ
cơn phong ba, thẳng về với Thầy.
Đây
Thầy nhắc sơ con người sứ mạng mà các con đã trải qua. Rồi đây cần đi đến đích
thì cốt là các con hòa thuận xây đắp cho nhau một tình thân. Ai nấy cũng xứng
đáng là người môn đệ yêu thương của Thầy. Có vậy mới đủ tư cách con người giải
thoát để tìm về tự do.
Các con
là một ngôi sao bị mây che chưa lộ vẻ đẹp, chưa cộng sức sáng cho bầu trời được
quang huy. Mà mây đó là lòng vị kỷ hẹp hòi. Các con không nên khu biệt cái thân
con người tu sĩ ở một phạm vi nhỏ bé nầy, mà chỉ biết mình. Còn bao nhiêu sự
tương quan, nếu không nhờ lẫn nhau thì không sao thành tựu.
Đồng tử Liên Hoa đã xin nghỉ thủ cơ tại
Trung Tông Đạo Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài và được đạo trưởng Huệ Lương Trần
Văn Quế - Chủ Trưởng Hội Thánh
Truyền Giáo, cũng là Vĩnh Tịnh Sư Hội Thánh Minh Lý (Tam Tông Miếu) - giới thiệu vào Tam Tông Miếu làm đồng tử theo
yêu cầu của ngài Minh Thiện. Tuy nhiên, nhiều đàn cơ dạy pháp tại Trung Tông
Đạo vẫn phải nhờ đồng tử Liên Hoa về thủ cơ.
Sau kỳ đàn ban hiệu Huyền Quan cho Trung
Tông Thánh Tịnh, đồng tử Liên Hoa thường xuyên về Tịnh Đường theo nhu cầu của
các đàn kiểm tu, kiểm pháp. Các đàn cơ nầy được các Đấng về chấn chỉnh nghi
thức thờ phượng, nhắc nhở việc trao giồi đạo đức, lập hạnh công phu, điểm danh
các tịnh viên, dạy về nhiệm vụ người Thiên ân, minh định về bốn tầng bậc công
phu luyện châu.
Đàn ngày 14-3 Tân Hợi (08-4-1971):
Huyền
quan mở cửa tổng trì môn
Ai kẻ tri cơ được vĩnh tồn
Pháp đạo gắng tìm không thấy đạo
Tự nhiên sẽ gặp máy càn khôn.
TRẦN
HƯNG ĐẠO VƯƠNG
Bản
Thánh chào toàn thể chư Thiên ân và đạo tâm nam nữ.
Hôm
nay vì lòng thành của toàn đạo hiện diện nơi đây, Bản Thánh ghé về chào mừng
chư thiện tâm đặt lòng cầu tu độ thân hành đạo. Bản Thánh ước sao mỗi người
nhận chân cho được chánh pháp buổi Tam Kỳ mà Thầy đã nấy đặt nơi Trung Tông quyền
pháp của Hội Thánh Truyền Giáo, được trung hưng kết tinh một nền chánh pháp,
không nghiêng lệch một bên nào, dầu nói đó là chơn hay cao cả.
Vậy
hôm nay Thầy sẽ ban cho các hiền một phương châm tổng hợp để thưởng lòng chí
thành cầu tu.
Chư
hiền nam nữ nghiêm chỉnh thân tâm, tiếp giá Chí Tôn. Bản Thánh xuất cơ.
TIẾP ĐIỂN
THẦY
CÁC CON
Thầy
mừng các con.
THI
NGỌC
lành vô giá sẽ về ai
HOÀNG Phụ chờ con đủ đức tài
THƯỢNG đạt nên người đương sứ mạng
ĐẾ quyền chớ khá để chia hai.
Thầy
miễn lễ. Cho phép các con an tọa nghe Thầy dạy.
Các
con từ lâu đặt hết lòng vì Thầy lo tu lo đạo, song Thầy xét lại, phần đông còn
thiên chấp làm kẹt mắc trong chỗ tà kiến khiến cho càng lúc càng cách xa Thầy.
Nhưng các con nào thấy được việc mình lo mình tính đó là sai. Nếu Thầy không
sớm chỉ dạy cho các con, thì việc hành đạo, tu trì nhiều năm hóa ra đứng sau
người mới đến. Từ ngày Thầy ban quyền pháp cho các con nơi Hội Thánh Truyền
Giáo, Thầy đặt tin tưởng ở mỗi con, lòng thành và nhiều ngộ đắc.
Thầy
muốn các con làm y những điều mà Thầy đã dạy. Dầu gặp khó khăn cũng nhẫn nhục
mà đợi lịnh Thầy. Mặc dầu đường lối trung hưng có nhiều khúc quanh co chật hẹp,
song cũng là một sự thử lòng. Năm Nhâm Thìn Thầy ban cho các con một nền chánh
pháp, mà từ lâu các Hội Thánh đã chen chưn ra mắt cũng chưa hề nhận được các bí
tích Khai Đạo Thông, Khai Pháp
Thông, Khai Sinh Cơ Thông, Khai Nguyên Giáo Pháp. Bao nhiêu đó đủ cho các con
tự rỗi và rỗi độ chúng sinh, kẻ quá vãng, người hiện tiền.
Song
còn ban cho các con nhiều pháp môn trực ngộ nhập thánh siêu phàm. Như Hồi Hướng
Linh Châu là một pháp môn đệ nhất, con đường tắt về Thầy. Dầu hạng đại ngu hay
người trí cũng đều tu được pháp môn ấy. Các con cho thường. Các con cầu pháp
cao hơn, mà không ngờ pháp đó nguyên gốc dựng nên trời đất sanh linh. Rồi trời
đất sanh linh cũng nương đó mà về hiệp nhứt cùng Thầy.
Nếu
các con tự tham khảo và lãnh hội được thì chuỗi châu 54 hạt là cả một cơ mầu
tối thượng. Từ Hà Đồ 55 biến thành 45. 45 là số Lạc Thơ, hầu chúng sanh ra
ngoài Hậu Thiên mà thố loạn, nghịch khắc chia cách đối thù. Mười điểm tại cung
Lạc Thơ đã phóng ngoại, mà ngũ nguơn biến thành ngũ dục vô minh che phủ lạc đạo
quanh trong sáu nẻo luân hồi.
Thầy
dùng Linh Châu cho con phản hoàn đủ số 54 cộng 1 trở lại Hà Đồ, thì âm dương
tương hội, nội ngoại nhứt tề. Một pháp môn cộng đồng bình đẳng, tâm nhứt tâm
hồi hướng cùng Thầy. Sự thông công phương tiện không gì khó khăn.
Song
cũng ban cho các con một pháp môn nội ngoại đồng tu, phước huệ song toàn là
pháp Tướng Châu để chỉ rõ môn tu, môn học và môn hành. Cho người có vị có quyền
trong Giáo Hội, bằng diệu lý đẳng thừa cả Thích, Đạo, Nho, ngoại giới thiên
nhiên, nội giới tâm linh làm một. Là các pháp trừ, cộng, nhân, chia thành một
con số sinh cơ nhứt tức, không chấp ngã chấp pháp, chỉ, quán đồng tu.
Nếu
bước nầy không điều khí an thần thì mong gì vào cửa Tâm Châu. Đã vào Tâm Châu
là một nấc thang trên chót. Thầy cũng hứa sẽ cho các con một vài phương tiện để
tùy căn cơ mà độ tận các con hằng đẳng sai biệt nơi cõi phàm trần.
Như
pháp hoàn đơn trên và trên đầu thang, nếu chơn không còn dựa ở thang mà vượt
ngoài không gian vô tận.
Nhưng
các con cũng cầu vọng cái xa xăm trống rỗng mà tự mình chưa chủ lấy tâm mình.
Thử hỏi, Phật có nhị không để trừ tam tâm tứ tướng? Nhị không là vô ngã vô
pháp, không ngoại giới, không thân mình. Các con đi đến đó được không?
Lão
thì có tam vô: vô danh, vô kỷ, vô công. Khổng thì tứ vô: vô ý, vô tất, vô cố,
vô ngã để cầu thành đạo quả vô sanh. Các con sao quá chấp pháp nọ pháp kia, đây
hơn đó kém mà bị kẹt mãi trong vọng thức không nhận chân câu pháp vô định tướng.
Pháp không cố định một hình tướng mà hiệp cơ vi diệu. Khế hiệp với căn cơ và
hoàn cảnh thì linh diệu thành công. Đâu phải khư khư chấp nhứt, cứng khừ, khô
khan, chết ngột không còn biến hóa.
Thuyền
để qua sông, nhưng qua được bờ kia là nhờ cái tâm lái theo hướng định. Nên từ
lâu các Tổ ra đời không dám hé một lời quả quyết, vừa khẳng định, vừa phủ định.
Nếu khẳng định thì làm cho đệ tử kẹt vào pháp, mà pháp chuyển không sao chuyển
được pháp.
Ngô
Minh Chiêu thành đạo sao các con không thành? Vì các con chấp mà Chiêu không
chấp. Các con chẳng những chấp pháp mà lại chấp cả Chiêu mới lạ cho kìa! Chiêu
đến đây để tượng trưng quyền pháp. Mục tiêu vì thiên hạ trên trần gian, phát
tâm cứu độ để rồi ai cũng trở thành Ngôi Hai, ai cũng trở thành Thượng Đế. Nào
phải người đến đây để cho thiên hạ lạy thờ ca ngợi, ngắm nghía chơn tướng của người.
Các
con phải học Chiêu, đức độ rộng lớn, hạnh chỉ ôn hòa, tâm tư rỗng rang cởi mở,
ăn nói lợi quốc ích dân, việc làm khuôn viên mực thước, một dạ tu hành. Chớ
đừng ỷ lại chánh pháp đó chắc mười phân là được, mà được không do ở một tâm.
Thầy đã nói Thầy là các con, các con là Thầy, thì các con cũng thành được
Thượng Đế, hà tất Ngôi Hai, Ngôi Ba. Ngôi Ba là hóa thân. Ngôi Hai là báo
thân. Ngôi Một là pháp thân. Tam
thân đồng nhất thể của Thầy.
Thầy
đến lần nầy trao ngay chánh pháp cho các con, mà chánh pháp đó từ lâu, bị gián
đoạn, từ Thích Ca truyền cho Ca Diếp đến hai mươi tám Tổ. Tổ chót là Đạt Ma
truyền qua Trung Quốc đến Huệ Năng thì chánh pháp nhãn tạng bị lu mờ, nên tu
nhiều mà không chứng quả.
Lần ba
nầy Thầy trao truyền cho Chiêu. Chánh pháp nhãn tạng này chẳng những như xưa mà
phổ cập mười phương. Dù kẻ tu nội tỉnh cầu tâm hay ngoại tu cầu pháp, cũng được
siêu độ. Nên con nào tu pháp môn nào mà có Thiên Nhãn thì cũng được kết quả. Vì
sao? Vì pháp môn chỉ tu khí dưỡng tinh mà không có thần làm sao hoàn nguyên
đăng thượng. Cũng như gà ăn no thì đẻ trứng, song không trống khó nở con. Cây
cỏ cũng thế, cô âm bất sanh, cô dương bất thành.
Mà chánh
pháp nhãn tạng là sao?
Tạng
là kho chứa. Nhãn là con mắt, là xu cơ ([11]) của
tâm. Nếu luyện thần nhãn mà luyện song quang thì làm sao âm dương trở về cội
gốc là Thái Cực. Nên phải mở mắt giữa mới thấy được Huyền Quan. Nói ‘Nhãn thị chủ tâm’, thế là tâm chủ tể của hai mắt. ‘Lưỡng quang chủ tể. Quang thị
thần. Thần thị Thiên. Thiên giả ngã dã.’
Đó là một yếu quyết khai thông khi các con được truyền để hiệp một với Đại Đạo
.
Hôm nay nhằm ngày lễ kỷ niệm Ngô Cao Tiên là
người Thầy chọn trước, mà cũng là người tượng trưng quyền pháp cho nền đạo của
Thầy, cũng người đã làm đúng lời Thầy đã dạy, mà cũng là người tin cậy trực
tiếp cùng các con. Thầy mừng các con biết quý Hiền tôn Đạo mà trông cậy vào người.
Điều đó có thể nối nhau thành
dây quyền pháp.
Song
các con là người đi thẳng với hệ thống Chiếu Minh lo tu kỷ độ thân thì cũng
chẳng nói làm gì. Bằng theo hệ thống Trung Tông, thì phải đi trên đường phước
huệ, tự độ, độ tha, cả cứu mình và lo cho Đạo. Nghĩa là đồng thời hành đạo,
đồng thời tu luyện. Bản thân thung dung đừng gấp gãy. Lúc nào cũng tu, thời nào
cũng luyện. Gặp phải cũng làm, gặp duyên lành cứ kết. Một việc thiện chớ bỏ
qua, một cơ hội may chớ trễ. Đó là hệ thống kiêm cai quyền pháp, làm Bồ Tát vị
chúng sanh. Còn con nào muốn thành một mình làm La Hán cũng không khó. Song
chẳng khi nào được có báo thân, mà không có báo thân thì chỉ hưởng nhàn, nào
giúp nên đạo cho vạn pháp được.
Thầy
cũng chuẩn y lời nguyện các con. (…) Nhưng sau đừng trách Thầy không vẽ đường
chỉ hướng. Ngô Minh Chiêu không phải chỉ là Giáo Chủ của Chiếu Minh mà thôi. Mà
chỗ nào, nơi nào có thờ Thánh Nhãn là có Ngô Minh Chiêu ứng hóa thân, truyền
pháp bằng đủ phương tiện độ người.
Các
con nên nhớ rằng Thầy không giao chánh giáo cho tay phàm mà Thầy phải lập Hội
Thánh để chọn người ly trần xuất tục, hòa mình cùng đạo, mà thừa lịnh Thầy để
phổ hóa chúng sinh. Hiệp Thiên Đài là nơi Thầy đến lập pháp cho các con mãi
mãi, không phải một lần. Thuyền đạo biến hóa vô lượng thù thắng, đâu phải một
vài bí tích như các con hiểu.
Thầy
ban ơn lành cho mỗi con. Thầy có dịp sẽ dạy thêm. Thầy khen các con nơi nầy đã
có lòng tu học, có chí cầu thánh đắc chơn. Ráng lên Thầy sẽ mượn tay các con
điểm tô nền Đạo. Thầy thăng.
Từ năm Kỷ Dậu (1969) Hội Thánh Truyền
Giáo cầu truy phong cho chức sắc và đạo tâm có công đã quá vãng đồng thời tổ
chức lễ rước sắc phong về các thánh thất rất long trọng. Hội Thánh mở khóa hạnh
đường cho hai mươi hai tân lễ sanh trong bốn mươi lăm ngày, kết quả rất khả
quan.
Một duyên lành đến cho Hội Thánh là tại
Tam Kỳ xin được khu đất khá rộng ngay mặt quốc lộ 1. Giáo Sư Thái Phẩm Thanh lo
đảm trách việc xây dựng Thánh Đường Quảng Tín. Tại Bình Định dòng tộc Ngô Tùng
Châu đã hỷ hiến cho giáo hội Cao Đài mười một mẫu ruộng để làm phước thiện. Đây
là do lời Đức Ngô Tùng Châu dạy tại Kim Quang Minh Đài ngày 22-6 Canh Tuất (24-7-1970):
VIỆT
bang nào phải có ba kỳ
NAM, Bắc, Trung phần do Pháp ly
CÔNG nghĩa, hy sinh vì Tổ Quốc
THẦN trung tuẫn tiết lúc lâm nguy
NGÔ thân bất độ hà thân độ
TÙNG Đạo tùng Thiên chánh pháp quy
CHÂU thỉ phục hoàn đời mạt kiếp
GIÁNG phân lý sự rõ tường tri.
Lão
Thần chào chư Thiên mạng Hội Thánh Tiên Thiên. Mừng chư chức sắc các cấp Hội
Thánh Truyền Giáo. Mừng các cháu trong tộc Ngô của Lão.
Giờ
nầy Lão vâng Thiên sắc giáng đàn, để đôi lời đàm đạo cùng chư Thiên mạng trong
việc hành đạo, sau để đôi lời với các cháu.
Những
dĩ vãng chứng minh huyền linh của Đạo Trời, vì thế từ ngày khai đạo, các bậc
công thần, văn võ các triều vua cùng quy phục dưới chân Thầy để lo bồi công lập
đức, lãnh thánh sắc giúp phần hữu hình trên đường hành đạo. Vì vậy ý Lão không
muốn cho thân tộc của Lão hưởng phần tế tự. Vì câu:
- Lưu
hữu dư bất tận chi CÔNG, dĩ hoàn Tạo Hóa.
- Lưu
hữu dư bất tận chi LỘC, dĩ hoàn triều đình.
- Lưu
hữu dư bất tận chi TÀI, dĩ hoàn bá tánh.
- Lưu
hữu dư bất tận chi PHÚC, dĩ hoàn tử tôn.
Vì
yếu lý của bốn câu “Lưu” ấy mà Lão không muốn cho một cháu nào thụ hưởng phần
vật chất của triều đình ban cấp tế tự lăng miếu của Lão.
Bởi
câu “Thế sự vạn ban đô thị giả; nhân gian đạo đức quả vi chơn”, Lão muốn để
phúc đức cho con cháu mà thôi. Vậy cháu Ngô Tùng Du, là phần hiện tại trong
trưởng tộc, cháu nghe lời Lão Tổ, nhắn với các cháu nam nữ, lão ấu ráng hồi đầu
hướng thiện, quy y vào Đại Đạo, để hưởng được ân xá Kỳ Ba.
Tỉnh Đạo Bình Định đã thay mặt Hội Thánh Truyền
Giáo Cao Đài xây dựng lăng miếu Ngô Tùng Châu ở Phù Cát và hằng năm tổ chức lễ
giỗ tại Tỉnh Đạo vào ngày 25-5 âm lịch rất trọng thể. Do sự kiện nầy mà Đền Ba
Vua Tây Sơn ở Bình Khê hằng năm cũng mời Tỉnh Đạo Bình Định lo phần tế lễ vào
ngày mồng 5-01 âm lịch.
Cùng năm Kỷ Dậu, quý Thiên ân thọ pháp
đàn Chợ Lớn tuần tự dâng lễ chín năm. Để nêu cao tinh thần trung đạo, Ơn Trên
đã vận chuyển tiền bối Minh Quảng ([12]) từ đàn Chợ Lớn ra Trung, xin lệnh Ơn Trên chế giảm một số
niêm thức ngoại dung tạo nên sự hài hòa cho Trung Tông Thánh Tịnh.
Tại Trung Hưng Bửu Tòa, Hội Thánh tổ chức
ban trao thiên phục cho các Đầu Họ Đạo. Lễ phục của chức sắc Hội Thánh Truyền
Giáo Cao Đài đều là bạch y, bạch cân; chỉ riêng Lễ Sanh Đầu Họ Đạo được Đức Lý
Giáo Tông ban trao phẩm phục theo phái để hành quyền độ sanh độ tử.
Qua năm Tân Hợi (1971), Hội Thánh Truyền
Giáo Cao Đài lập Thành Đạo Cam Ranh cử Giáo Sư Nguyễn Khoa Trường (Chưởng Quản
Cơ Quan Phổ Tế Hội Thánh) kiêm nhiệm chức vụ Đầu Thành Đạo.([13])
Thánh thất Trung Minh ở Sài Gòn hoàn tất xây
dựng hai đài, Hội Thánh bổ nhiệm Lễ Sanh Lê Thành Tiến làm Đầu Họ Đạo, tổ chức
lễ khánh thành ngày 01-6 Tân Hợi (22-7-1971).
Trận bão Hester khủng khiếp năm 1971 lại
thêm chiến tranh ác liệt năm 1972 làm dân chúng và bổn đạo miền Trung khốn đốn.
Ba Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh, Hội Thánh Cao Đài Trung Ương Trung Việt (Tam
Quan), và Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài (Đà Nẵng) cùng hợp tác lập ban cứu trợ
do Sĩ Tải Đặng Ngọc Dương (Truyền Giáo) làm trưởng ban.
Phối Sư Chủ Trưởng Huệ Lương (Trần Văn
Quế) hướng dẫn phái đoàn gồm đại diện chín Hội Thánh đi Tòa Thánh Tây Ninh để
thương thảo việc lập Hội Đồng Vận Động Thống Nhất Giáo Hội Cao Đài ngày 17-10
Nhâm Tý (22-11-1972).
Về chương trình sinh cơ lập nghiệp cho
bổn đạo, Giáo Sư Ngọc Tín Thanh lập phái đoàn vào Phước Tuy tìm đất lập khu
kinh tế mới, nhờ phối hợp với đạo trưởng Trần Quốc Luyện nên kết quả mỹ mãn.
Ngày 18-01 Quý Sửu (20-02-1973), Hội
Thánh đưa ba ngàn tín đồ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định vào khẩn hoang lập
nghiệp tại xã Suối Nghệ, huyện Đức Thạnh, tỉnh Phước Tuy (nay là xã Nghĩa
Thành, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu). Hội Thánh cử đạo trưởng Bạch Hổ (Trần Quang Châu) chỉ đạo thành lập ba thánh
thất Trung Nam, Trung Nghĩa, Trung Tín và thánh đường Tỉnh Đạo.
Công trình kinh tế mới của Hội Thánh
Truyền Giáo Cao Đài ở đây rất quy mô, mở đường sá, có khu dân cư, chợ búa, trạm
y tế, trường học, nhà sinh hoạt Thanh Niên Hưng Đạo Đoàn, một khu nghĩa trang
rộng bảy mẫu tây. Khu canh tác bạt ngàn, tùy sức bổn đạo phân lô khai thác. Hội
Thánh liên tục cử chức sắc vào thăm viếng, ổn định tổ chức nhân sự, tạo điều
kiện thuận lợi cho sinh hoạt tu học cũng như phương tiện sinh cơ lập nghiệp. Ở
miền Nam ,
nhiều phái đoàn các Hội Thánh bạn đến thăm và ủy lạo trong tinh thần tương liên
đồng đạo.
Giáo Sư Ngọc Trường Thanh ở Phú Yên đang
là Đầu Thành Đạo Cam Ranh phối hợp với Sĩ Tải Đặng Ngọc Dương vận động xin khẩn
hoang lập khu định cư Trung Hiệp tại Suối Hòa (Cam Ranh). Nơi đây tiếp nhận
ngót hai ngàn đạo hữu ở Bình Định, Phú Yên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Tín và
thành lập thánh thất Trung Hiệp. Hội Thánh bổ nhiệm Quyền Giáo Hữu Nguyễn Phái
làm Đầu Họ Đạo.
Tại Trung Tông Thánh Tịnh, đàn Tý thời
ngày 01-7 Quý Sửu (30-7-1973), Đức Cao Đài dạy:
THI
CAO
quyền đâu phải cậy danh suông
ĐÀI thánh thông công đạo tận nguồn
THƯỢNG đẳng pháp môn Nho, Thích, Lão
ĐẾ triều tận độ mở Thiên môn.
Thầy
hôm nay vì lòng từ bi không lẽ để cho các con ngày tháng nổi trôi theo dòng
trào lưu mà chưa quyết được bến bờ để sớm chiều yên thân mở rộng cửa từ cho
nhơn sanh noi theo hướng để cùng chung vui trong sứ mạng. Thầy cho phép các con
an tọa.
BÀI
Đạo
là cái, cái không phải cái
Đạo là không nào phải ngoan không
Đạo là muôn lối cộng thông
Bao hàm tất cả hẳn không danh từ.
Nếu
suốt lẽ thiệt hư, hư thiệt
Nào chấp nê trái mất chơn truyền
Nguyên đầu hỗn nhứt tiên thiên
Phân Nghi lập Tượng pháp quyền khởi đoan.
Cơ
mầu nhiệm linh quang biến hóa
Mà có nên tất cả sắc không
Kiền khôn một chủ nhân ông
Thiên sai vạn biệt ngoài trong cũng Thầy.
Tuy
mắt phàm đó đây khác biệt
Mà kỳ trung vốn thiệt không hai
Đừng lầm nghĩ quấy chấp sai
Cổ kim chỉ một Cao Đài hiện thân.
Vạn
giáo thể vạn dân mà có
Đủ muôn màu đen đỏ vàng xanh
Thuốc hay trúng chứng bệnh lành
Tùy duyên hóa độ sở hành khế cơ.
Thấy
được tâm nào ngờ chi nữa
Thần ra vào không cửa pháp môn
Pháp môn chế phách luyện hồn
Bệnh đời đủ loại, pháp môn đủ đường.
Mượn
pháp môn định phương dẫn lối
Vì pháp môn gây lối tranh giành
Phải chăng họa ấy lộng hành
Mà Thầy phải đến điều đình quy nguyên.
Dung
nhiếp cả công truyền, tâm pháp
Dung hòa cho ứng hợp cơ linh
Nếu ai còn chỉ thấy mình
Đời còn tranh cạnh bất bình khổ đau.
Con
cùng Thầy chung nhau cải tạo
Cho cảnh đời toàn hảo tồn sinh
Chúng nhơn cộng hưởng thanh bình
An vui tiến bước Thiên Đình lại quê.
Chưa
tỏ ngộ vì mê còn chấp
Chấp càng nhiều tâm lấp càng sâu
Biết phương phản tỉnh nội cầu
Cùng Thầy ở chỗ nguyên đầu nhứt như.
Người
giải thoát vô tư vô niệm
Tuy căn cơ đốn tiệm hành công
Vạn duyên giữ sạch nơi lòng
Để tâm ngoại sự bao đồng ích chi.
Tu mà
còn thị phi ái ố
Mở rộng đường rước khổ chiêu oan
Vào đâu là cửa Thiên Đàng
Vin đâu mới thiệt Niết Bàn của con.
Nếu
một niệm mà còn mê chấp
Thì vô minh che lấp chơn như
Ngày nào tâm trẻ hư hư
Lo gì lập đảnh an lư không thành.
Còn
chấp ngã, chấp danh, chấp pháp
Mãi trong vòng đối đáp lại qua
Đạo Thầy tổng hợp dung hòa
Quy nguyên phục nhứt một nhà cộng thông.
Khắp
nam bắc tây đông trời đất
Dù duy tâm, duy vật trăm đường
Quý là ngàn sắc muôn hương
Tinh hoa rải rác mười phương thiếu gì.
Bậc
thánh trí biết quy tụ lại
Người ngu mê chấp mãi một bề
Mộng đời chưa chín nồi kê
Nhục vinh được mất chán chề chăng con.
Ngoài
tai mắt không còn ưa ghét
Trong não cân đoán xét cũng không
Rỗng rang mở một đường thông
Thích, Gia, Nho, Lão huyền đồng tương dung.
Pháp
tu luyện bảo trung thủ nhứt
Mà đạt trong tận thức siêu phàm
Nếu còn say đắm muốn ham
Nói Tiên nói Phật thêm làm vướng tâm.
Vô vi
tuyệt thanh âm sắc tướng
Đạo phải đâu hình tượng ngôn từ
Nếu mà ngộ kiến minh sư
Ứng thông không thiếu không dư mới mầu.
Xưa
lập pháp năm châu tế độ
Tùy cơ duyên tùy chỗ bịnh sanh
Thế nhơn gặp thuốc tất lành
Khư khư tin chỉ Thầy mình là hay.
Quên
dưới trần, nhiều tay y thủ
Quên trong đời có đủ các khoa
Dĩ nhiên trong chính có tà
Trong tà có chính chọn ra phần nào.
Thế
thường biết khen cao chê thấp
Mà mấy ai tự lập lấy thân
Dầu ai là Thánh là Thần
Mà mình bỏ mất thiên chân ích gì.
Lỡ buông ra mau quy trở lại
Biết dung hòa tự tại an vui
Cớ sao có mắt mà đui
Thấy mình mà chẳng thấy người chung quanh.
Lòng
vị kỷ chia ranh mất bạn
Kiếm si mê cắt đoạn tình thương
Giữ tâm cũng phải lắm đường
Quy căn phục mạng Tây Phương phản hồi.
Quyết
không để chia đôi tâm vật
Quyết không cho lẽ thật lấp vùi
Khổ là trống ngược kèn xuôi
Mà Thầy vì trẻ ngậm ngùi từ lâu.
Nạn
riêng rẽ đám đầu môn pháp
Thiếu tinh minh lạm trái quyền hành
Phương tu pháp đạo chưa rành
Trung hưng cốt để tài thành phục nguyên.
Pháp trung
hưng vô thiên vô ỷ
Thời trung hưng bất nhị bất phân
Chỉnh tu hình thức Thiên ân
Chỉnh tâm lệch lạc quy chân phản tiền.
Sứ
mạng muốn trao quyền cho trẻ
Bởi mỗi con bác bẻ lời thề
Lời Thầy Hội Thánh bỏ bê
Bửu Chương Pháp Đạo không về tận tay.
Mới
có cuộc đổi thay biến chuyển
May ơn Thầy bốn biển hồi sinh
Năm châu tâm hướng hòa bình
Mỗi ngày thế giới thâm tình giao thân.
Lòng
nới rộng xích gần nhau lại
Dẹp tư riêng phe phái đối thù
Trong đời cũng lắm lối tu
Gặp nhau ở chỗ công phu dung hòa.
Cao Đài Giáo lại là chỗ đó
Đó là tâm có có không không
Có không trời đất hội thông
Hội thông cho được chủ ông muôn loài.
Chủ được tâm không ngoài hư tịnh
Không chủ tâm bá bịnh trùng sanh
Chủ tâm ngụy tật tiêu lành
Buông tâm nô lệ hư danh mất quyền.
Thầy
hôm nay cho các con một đường hướng, để định đoạt danh phận của đời mình. Thầy
không phủ định mà cũng không khẳng định đó là đúng hay sai. Nhưng khi Thầy trao
quyền tự lập cho mỗi con. Thì quyền pháp ấy ở vị trí nào lo an toàn cho cơ sở
đó chờ Thầy đem nhau lại.
Đây
tới ngày Long Hoa cũng không còn bao nhiêu năm nữa, con phải làm gì để được dự
vào ghế Thiên ân, làm xong và đúng sứ mạng của mình?
Các con là hướng đạo. Con sai thì tất cả đều sai. Con đúng thì
mọi người mới được ơn. (…) Chẳng những các chi phái ở trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ, mà cả vạn giáo trên toàn cầu, đều có một trách nhiệm riêng. Trách nhiệm ấy
là một trong tất cả. Chờ Thầy để kết tinh. Không nơi nào và đứa nào được nói
mình là đúng mà kẻ khác là sai. Nhưng các con từ lâu cũng có công và giàu tâm
tu học, đáng nên chung lại, mà lập lấy sự nghiệp cao quý nầy. Tùy căn cơ và
trình độ thành một hệ thống tâm linh, hà tất phải bôn Nam tẩu Bắc, mà kết cuộc
là tay không như giấc mộng huỳnh lương. Nếu các con biết thương nhơn sanh và quý
trọng quyền pháp của Thầy, nên bình tĩnh họp nhau mà vạch một con đường, giúp
tất cả đạt trình độ, lớp nào cũng cộng sự sống với nhau thì Thầy hứa không để
các con cô lập.
Thầy
ban ơn mỗi con. Thầy thăng.
Hội Thánh mời họp cả Trung Hưng Bửu Tòa và
Tịnh Đường, có Phối Sư Huệ Lương, đạo trưởng Thanh Long, đạo trưởng Bạch Hổ, và
đạo trưởng Trần Quốc Luyện về dự. Với tinh thần kiện toàn bộ máy Hội Thánh
Truyền Giáo Cao Đài xứng tầm là Hội Thánh công vụ sứ đồ, theo nghị định số
001/47/HT/NĐ ngày 12-02 Nhâm Tý (26-3-1972), chức sắc lưỡng đài quyết định lập
đàn vào ngày 15-7 Quý Sửu (13-8-1973) để dâng sớ cầu thăng Phối Sư Chủ Trưởng lên
Chánh Phối Sư để đủ uy lực nắm quyền Nội Chánh phần hữu hình.
Tại Trung Hưng Bửu Tòa, đàn Tý thời, ngày
15-7 Quý Sửu (13-8-1973):
THI
HƯNG truyền chánh pháp cậy Thiên ân
ĐẠO đức rèn tu độ khách trần
ĐẠI chí vượt qua muôn trở ngại
VƯƠNG công hầu bá cũng vì dân.
Bản
Thánh chào mừng chư chức sắc lưỡng đài, đạo tâm nam nữ. Đẳng đẳng thanh tịnh an
tọa.
Hôm
nay nhân ngày Trung Nguơn Địa Quan xá tội, Bản Thánh vui mừng được tâm tình
cùng lưỡng phái Thiên ân.
(…)
Hôm
nay Hội Thánh thiết cơ đàn để cầu thỉnh thánh ân quyền pháp, buộc người hướng
đạo phải luôn luôn tôn trọng để tự khép mình mà làm gương cho kẻ dưới. Một oai
nghi, một cử chỉ, nhất tịnh, nhất động phải đặt mình trong khuôn khổ đạo đức,
hầu làm sáng danh Thầy, sáng danh Hội Thánh. Không nên vì một cớ nào, rủi bị sơ
hở làm cái cớ cho kẻ khác vấp phạm.
Quyền
đạo khác hơn quyền đời. Người hướng đạo lo cho nhân dân, cho tín chúng, phải
chịu nhiều hy sinh để lợi đời lợi đạo. Người Thiên ân càng ôn hòa nhường nhịn
trước mọi thử thách mà chẳng động tâm. Được vậy không cần giới thiệu mà mọi
người kính yêu. Mọi người men chân bén gót cùng mình mà về với đạo. Hội Thánh
trải qua bao nhiêu năm khảo đảo bên ngoài lẫn bên trong làm cho quyền pháp bị
lu mờ, tình đạo mỗi ngày suy sụp.
Hội
Thánh là đầu não cho các guồng máy nhỏ lớn ở rải rác xa gần. Nếu động cơ chính
bị ngưng thì cơ cấu các nơi đều đình trệ. Người Thiên ân có sứ mạng nơi mình
phải là người có quyền pháp, không còn thấy một cá nhân của mình. Vì vậy mà lúc
nào cũng nghĩ đến mình đến đạo. Lấy đạo làm tâm, thì tâm được thích nghi thỏa
hợp cùng mọi người. Dầu cảnh ngộ thiên biến thiên sai cũng có thể khế ứng, ủy
khúc tùy hình để hóa dân vi thiện.
Quyền
là lẽ sống mà Thầy đã ban cho, thì quyền ấy ai ai cũng có. Có sự sống là có
Thầy. Thầy là lẽ thật và tình thương, nên giữa nhau phải được yêu kính hòa
thân. Hòa là nơi làm tòa ngự của Thầy thì thua kém người đời lắm nhỉ?
Đạo
có thành, Hội Thánh có uy danh, hàng ngũ cơ cấu đạo quyền được an lành mạnh mẽ.
Cũng bởi hòa mà công nghiệp rực rỡ bền lâu.
Vậy
tóm lại, các hiền là người vì đại cuộc, lại không quên mình mà thành tựu cho sứ
mạng được sao?
Hôm
nay vì những sự thiết cần, vì luật pháp không cho phép vượt qua, nên thỉnh lịnh
chuẩn phê, đó là một việc mà còn biết bao nhiêu việc, dầu Thầy có từ bi, nhung
lưu tệ sau nầy thì trách nhiệm kia ai nhận?
Hôm
nay Thầy không đến cũng như Lý Giáo Tông, nên cho Bản Thánh đến đây để thỏa
nguyện chư Thiên ân. Quyền lập họ là quyền của Giáo Tông, mà phong thánh và ban
sắc là quyền của Thầy, thì bảo lãnh phải được hai quyền mới đủ.
Các
hiền! Về vấn đề nào cần cấp hơn nên giải quyết trước. Còn những quyền mà nội bộ
chưa thỏa thuận thì cần xét lại và cầu ân Thầy xin phong cho những vị ấy. Bằng
vội vàng sau nầy có chỗ bất nhứt thì phạm đến hồng ân. Các hiền nghĩ sao?
[Giáo sư Ngọc Tín Thanh bạch …]
Theo thánh
ý thì Thầy và Giáo Tông muốn cho Hội Thánh Truyền Giáo đứng trên cương vị trung
hưng, lấy quyền pháp làm then chốt cho công cuộc đem đạo vào đời. Danh và thực,
chất và văn phải được tương xứng, đó là hạnh lớn của người Thiên ân. Chức vị từ
hàng Lễ Sanh trở lên các cấp trong Hội Thánh thấy vậy cũng vừa. Đem so với các
Hội Thánh ở mỗi phái thì phẩm vị có phần vượt đẳng ra ngoài luật lệ, đối vị nơi
Thiên Đình trời vực khác xa. Nếu hưởng cái danh vị bây giờ thì mất phần hưởng
về sau. Bản Thánh tưởng các hiền nên thực hành quyền hạn địa vị của mình đúng
với Pháp Chánh Truyền. Tuy thiệt thòi ở thời loạn ly đen tối, song cũng tự hào
mình là một ngôi sao ở giữa đêm dài. Hơi nào lấy chơn đo giả, bỏ thực cầu danh.
Còn
về Huệ Lương, Hội Thánh muốn tiến phong người lên Ngọc Chánh Phối Sư, Thầy cũng
thể lòng Hội Thánh và nhơn sanh. Nhưng mong đợi một ngày hồng ân mà Ngọc Chánh
Phối Sư y hành theo Pháp Chánh Truyền, hầu làm gương cho khắp cả mọi nơi và làm
tỏ quyền pháp Trung Hưng cho Hội Thánh và nhơn sanh nhờ. Nếu không gì trở ngại
thì vào tiết Nguơn Tiêu năm Giáp Dần chư chức sắc các cấp, các ngành về Hội
Thánh cử lễ bái mạng thọ phong và toàn đạo suy tôn chào mừng ngày Hội Thánh có
đủ quyền đời trong cửa đạo.
Chánh Phối Sư là người thay Đầu Sư về
quyền hành chánh trị đạo, tức là người cầm đầu Hội Thánh hành pháp. Hội Thánh
Truyền Giáo Cao Đài là Hội Thánh cấp hành pháp với cơ chế ba phái bốn cơ quan
gọi là Tòa Nội Chánh do Đức Thượng Chánh Phối Sư Trần Hưng Đạo làm Tổng Lý Vô
Vi.
Nay theo ý nguyện của các Thiên ân dâng
sớ xin phong Chánh Phối Sư cho Phối Sư Chủ Trưởng Ngọc Quế Thanh, Đức Tổng Lý
Trần Hưng Đạo đã thỉnh lịnh chuẩn phê và thay mặt Thầy cũng như Đức Giáo Tông
ban lệnh bái mạng tiến phong cho Chủ Trưởng Hội Thánh vào vị trí Chánh Phối Sư
để cầm quyền lảnh đạo toàn diện về mặt hữu hình.
Theo thánh ý thì lễ bái mạng vào ngày
Nguyên Tiêu (rằm tháng Giêng), nhưng Hội Thánh đã tổ chức vào dịp lễ Vía Đức Chí
Tôn (09-01 Giáp Dần, 31-01-1974). Đức Trần Tổng Lý giáng đàn ban ân mừng lễ: “Bản Thánh thừa lệnh Thầy và Tam Giáo đến
ban quyền chủ hành pháp sự cho Ngọc Chánh Phối Sư và ban ân chung chức sắc cùng
toàn thể đạo tâm nam nữ trong lãnh vực Hội Thánh.”
Một tuần trước đó, đàn ngày 02-01 Giáp
Dần (24-01-1974) tại Trung Tông Thánh Tịnh, Đức Chí Tôn dạy:
Các
con nghe đây! Cơ sở giáo pháp lấy Trung Tông làm nền móng cho sự giải thoát. Các con cần phối hợp nhau cải
tổ cho một tổ chức điều hành, nhắm hướng xây dựng một nền tâm pháp tổng hợp mọi
tân cựu vô vi. Lấy chữ trung làm trung tâm quyền pháp, phối đồng giữa công
truyền và tâm truyền, người xuất gia, người tại gia tu học, giữa pháp môn Tam
Giáo và Tam Thanh. Giữa Tịnh Đường, tịnh thất, nhà tu có một tổ chức ban điều
hành lãnh đạo.
Các
con cần coi họp lại, định một chế ước tạm thời cho các thành phần tu học tại
gia, xuất gia, hoặc lập công và hộ trì, cũng như đường lối sinh hoạt. Cốt sao
hòa thân nhau và giữ lấy thanh tịnh, giữ danh dự của Trung Tông, nhà tu, tịnh
thất. Tịnh thất cho phép được sinh hoạt theo họ đạo, có tiểu ban dưới quyền Ban
Tịnh Đường.
Mặc dù xã hội bấy giờ biến động quá dồn
dập, Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài vẫn nhất tâm với sứ mạng cho đúng thánh ý.
Hội Thánh đặt kế hoạch kiện toàn dòng tu Bảo Thọ, mở khóa tu học mười ngày cho
nữ tu, tổ chức đại hội kỷ niệm mười năm thành lập Hưng Đạo Đoàn. Phái đoàn Hội
Thánh do Chủ Trưởng Ngọc Quế Thanh hướng dẫn đến thăm các khu khẩn hoang ở Suối
Nghệ, Cam Ranh. Hội Thánh cho xây dựng trường học ở Trung Hiệp, thiết lập Trung
Tâm Sinh Hoạt Thanh Niên Hưng Đạo Đoàn ở Mỹ Khê (Đà Nẵng), tiếp tục phát triển
khẩn hoang lập ấp tại Láng Dài (nay thuộc huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu), từ Bưng Kè (nay thuộc xã Hòa Hiệp, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu) đến Dầu Giây (nay thuộc huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai).
Đàn cơ xuân Ất Mão (1975), Đức Trần Hưng
Đạo dạy:
Về
đường tu nơi đây, nên mượn nhiều phương tiện mà đưa người đến mục đích. Đừng
chấp nhứt hẹp hòi. Mở rộng phạm vi dung chứa tất cả. Cũng đừng chấp mình là
phải, người là sai. Trong cái phải bao giờ cũng có cái trái, trong cái sai có
cái trúng, mà căn cơ cũng đủ hạng người. (…)
Kẻ tu
cũng đừng thiên vô vi là trúng, mà hữu hình là sai. Con đường phước huệ, nếu kẻ
tu phước để gieo duyên cùng sanh chúng, để tập mở rộng lòng vị tha, lập công
bồi quả mà đoạn lần trái oan, đó là dọn sẵn con đường đại thừa cho kiếp lai
sinh. Còn kẻ tu huệ, cũng không nên chấp mình là thấy rõ đạo mà cứ ngồi lỳ, ai
chết sống vô can, mà phải giữ tâm vô sai biệt, để lòng bình đẳng, hầu nhận lấy
quả vô sanh.
Các
hiền nếu mong thành một sứ giả của Cao Đài, phải tỏ đạo sáng tâm, bao dung mọi
tầng lớp, mọi tín ngưỡng, mọi dị đồng.
Ngày
tái tạo hòa bình thánh đức, Thầy đã sắp sẵn các vai trò những sứ giả của Thầy ở
khắp mọi nơi mọi chỗ. Họ đương hoạt động trong mọi tôn giáo, mọi dân tộc, mọi
xứ mọi nơi. Chúng ta sẽ cùng với mọi sứ giả kia làm một. Còn về con đường bí
pháp nơi đây, cần được đồng tâm nhứt trí. Dầu ngày kia có bề thế lớn lao cũng
đừng vì đó mà kiêu. Cơ thử thách sẽ bất thần đưa đến. (…)
Còn
Huyền Quan [Đàn] từ đây trở đi, hồng ân đã ban cho một phần thông công về tâm
pháp. Nói chung, Thầy ban cho nơi nầy một cặp đồng loan là ban chung cho toàn
đạo. Các hiền và đạo tâm cứ vững lòng tin nơi đó, thì mọi việc dù tư hay công
cũng được an toàn. Các hiền thanh tịnh lo tu thì thân tâm ấy là thân của đạo.
Đã là của đạo thì một sợi lông chẳng hề mất đi đâu mà phòng ngại. Dầu ai nói
qua nói về, nhưng nên nhớ lời Thầy đã dạy: Mọi sự chi chi đều có bàn tay của
Thầy trong đó.
Còn
việc Bùi Hà Thanh có truyền đạo vượt ngoài khuôn khổ Chiếu Minh, các hiền cũng
không nên lấy đó làm lạ. Chi chi cũng có Thầy mà ta lại có bổn phận tương quan.
Kẻ gieo người lo bón tưới, cho giống sao được sum sê.
Còn
những anh em đồng đạo, không phước nào lớn bằng sự quay về, không vui mừng nào
hơn là tìm lại được món đồ đã mất.
Sau tháng 4-1975, mọi mặt công truyền phổ
độ hầu như đều ngưng lại. Chính quyền quản lý các cơ sở văn hóa, xã hội của Hội
Thánh. Không ít thánh sở đóng cửa, tín chúng xiêu lạc. Tuy vậy, tại Trung Tông
Thánh Tịnh các tịnh sĩ vẫn ngày đêm ôn dưỡng, hành trì tâm pháp. Giáo Sư Ngọc
Trường Thanh (Chưởng Quản Cơ Quan Phổ Tế) thọ pháp với Chưởng Giáo Bùi Hà Thanh
(Chiếu Minh Giáo Tòa, Vĩnh Long).
Sau nghị quyết 297-CP ngày 17-11-1977 của
Hội Đồng Chính Phủ về một số chính sách đối với tôn giáo, Hội Thánh Truyền Giáo
Cao Đài được tiếp tục duy trì nề nếp sinh hoạt thuần túy tôn giáo.
Do ảnh hưởng sự kiện ngày 20-9-1978 tại
Tòa Thánh Tây Ninh, một số họ đạo ở các tỉnh bị giải thể Ban Cai Quản và Ban
Trị Sự; chính quyền cho lập Ban Hành Giáo. Các việc quan hôn, tang tế ở các họ đạo
còn được duy trì. Các nhà tịnh vẫn ổn định, tứ thời công phu tịnh luyện.
Trung Hưng Bửu Tòa hầu như thưa vắng cả
nhân sự lẫn đạo sự. Ngược lại ở Tịnh Đường các tịnh viên tu tập khá đầy đủ. Ơn Trên
đã ban ơn cho tập cặp phò loan Minh Cư và Minh Tuyến để rồi rất đắc dụng cho
những kỳ đàn liên tục. Kể từ năm Ất Mão (1975) các thánh giáo dều dạy tu tịnh.
Tại Huyền Quan Đàn, ngày 13-3 Mậu Ngọ
(19-4-1978), Đức Lý Thái Bạch dạy:
Con
đường duy nhất, tâm tướng không hai, vô vi hữu hình là một, nên mới có thánh
thất, tịnh thất để đưa toàn đạo từ tiệm giáo đến đốn giáo, từ phổ độ đến tuyển
độ.
Tại Huyền Quan Đàn, ngày 01-6 Kỷ Mùi
(24-7-1979), Đạo Đức Kim Tiên dạy:
Bước
đạo nơi đây đương thời phục khởi. Bước tu của mấy em qua khỏi thời Thái, bước
sang thời Đại Tráng. Với tư cách là huynh trưởng thay mặt Thầy đến đây có mấy
lời chỉ dạy. Đã biết bước tu của mấy em đến thời Đại Tráng thì biết rằng còn
bao lâu nữa đến hào cửu ngũ là “Long phi tại thiên”, đương hành sứ mạng.
Các
em hôm nay đã vượt qua bao sự khảo thí, giũa mài, công phu tu đã chắc thực, điển
linh đã ngưng tụ nơi thần thể của mỗi em, nên Thầy ban ơn cho đợt tu trăm ngày,
để kiểm điểm, bổ khuyết những điều lệch lạc mấy năm, mà sửa xét dọn mình cho
sớm hiện được được thân Bồ Tát. Bản Huynh có bổn phận trông coi, ghi chép công
hạnh mỗi em, ghi vào Thiên thơ mà ban ơn liễu ngộ.
Các
em đã biết đường sứ mạng nơi đây lớn lao hệ trọng là dường nào, nên nó đòi hỏi
các em phải tu chứng đạo quả trường sanh, liễu ngộ chơn như tự tánh, thì mới
đồng nhất cùng Thầy mà khai đường tận độ. Đó là sự đòi hỏi của cơ đạo và sự
mong mỏi của Thầy.
Hôm
nay Bản Huynh đến đây nhắc lại và ban ơn cho mấy em.
Gánh
đạo trung hưng bước vững vàng
Đây là ơn phước của Trời ban
Lập chí công phu cầu liễu ngộ
Thành Tiên chứng quả vạn bình an.
Ngày 14-10 Canh Thân (21-11-1980) tại Cơ
Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, Ngọc Chánh Phối Sư Huệ Lương (Trần
Văn Quế), Chủ Trưởng Hội Thánh, quy thiên, hưởng thọ tám mươi tuổi.
Ngày 09-12 Tân Dậu (03-01-1982), đạo trưởng
Thanh Long (Lương Vĩnh Thuật), Tổng Đại Diện Ngoại Giao Hội Thánh quy thiên,
hưởng thọ sáu mươi bốn tuổi.
Tại Minh Lý Thánh Hội (Tam Tông Miếu) ngày
07-6 Tân Dậu (08-7-1981), Chủ Trưởng Huệ Lương về cơ với quả vị Quảng Đức Chơn
Tiên. Ngài Huệ Lương vừa là Chủ Trưởng Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài vừa là
Tổng Lý Minh Đạo Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, vừa là Vĩnh
Tịnh Sư Minh Lý Thánh Hội. Do đó khi giáng cơ Quảng Đức Chơn Tiên nhắn nhủ cả ba
nơi ấy:
Mối Đạo Trời tuần tự hóa hoằng
Trung Hưng, Minh Lý, Cơ Quan
Tuy ba mà một chu toàn đồng thân.
Sau ngày quy thiên một tháng, đạo trưởng
Thanh Long về cơ tại Trung Hưng Bửu Tòa với quả vị Bảo Pháp Chơn Quân:
Quên
sao được Tam Kỳ Đại Đạo
Hiệp Ngũ Chi, Tam Giáo một nhà
Kết tinh tổng hợp dung hòa
Thuần chơn vô ngã bao la đại đồng
Nhìn
tâm vật sắc không chẳng khác
Mới là người thấu đạt cơ vi
Hơn thua phải trái mà chi
Công truyền, tâm pháp đồng thì phải tu
Lấy
công quả đền bù nợ trước
Dụng công phu chế ước lòng tà
Để rồi tự giác giác tha
Song hành phước huệ mới là viên thông
(…)
Giờ
ta thử truy nguyên nguồn cội
Năm Canh Thân mở hội Tam Kỳ
Cao Đài tâm pháp vô vi
Đức Ngô gặp đạo tu trì đầu tiên
Sang
Bính Dần công truyền mở rộng
Danh
Cao Đài chấn động gần xa
Pháp
quyền sứ mạng ban ra
Hình
thành thánh thể Thánh Tòa Tây Ninh
Tu tâm
pháp nâng mình nên Thánh
Cảm
hóa người vạn hạnh nơi thân
Công
truyền cứu thế độ nhân
Hiện
bày sắc tướng uy thần quyền năng
(…)
Pháp
Trung Hưng đã đem về một
Dính
chùm nhau như hột ác xoa
Dầu
mà muốn gỡ không ra
Khác
nào sữa nước tan hòa lẫn nhau.
Hai vị đạo trưởng lãnh đạo Hội Thánh đắc
quả và về cơ dạy đạo đã củng cố đức tin bổn đạo Trung Tông. Mọi người phấn chấn
tinh thần, dõng mãnh tâm tu theo đường hướng công truyền và tâm pháp kiêm tu,
thế đạo và thiên đạo đồng hành. Mọi người tâm tâm niệm niệm lời Thầy dạy: “Pháp môn nầy các con đương tu, đương học và
đương hành là một pháp môn để tất cả con và nhân loại trên trái đất nầy hiệp
một cùng Thầy. Pháp môn về tâm pháp là pháp môn có một không hai.”
Không chỉ là hai vị đạo trưởng Huệ Lương
và Thanh Long, mà còn nhiều trường hợp đắc quả khác đã làm chứng cho chánh pháp
cứu độ Kỳ Ba. Chẳng hạn: Truyền Trạng Ngô Thanh Toàn đắc quả Thiên Bảo Chơn Quân và Giáo Hữu Bùi Đăng
Đáng đắc quả Thiên Đức Chơn Quân (Đinh
Mùi, 1967), Trần Minh Quang đắc quả Giác
Chơn Đạo Nhơn (Giáp Dần, 1974), Nguyễn Minh Tài đắc quả Thiên Phước Chơn Quân (Bính Thìn, 1976), Ngô Minh Trĩ (thân phụ Ngô Thanh Toàn)
đắc quả Phổ Minh Đạo Nhơn và Trần Thị
Minh Liên đắc quả Từ Ý Tiên Cô (Canh
Thân, 1980), Trần Thị Minh Tiềm đắc quả Từ
Quan Tiên Cô (Tân Dậu, 1981).
Thêm các trường hợp khác như: Trần Minh
Kiên (đắc quả Thiên Ý Chơn Quân),
Nguyễn Phú Minh Huyến (Giác Bảo Chơn Quân),
Văn Quy Minh Miên (Thiên Quan Chơn Quân),
Đoàn Minh Chân (Chơn Giác Chơn Quân),
Nguyễn Thượng Minh Khải tức Minh Phòng (Oai
Đức Chơn Quân), Võ Hương Yến (Từ Bửu
Tiên Nương)…
Tất cả tịnh viên thọ tu Tam Bảo Hoàn Châu
đều có thánh danh với chữ Minh. Từ năm Tân Dậu (1981), những tịnh viên đắc quả
vị và được về cơ như: Minh Mua (quả vị Pháp
Bửu Chơn Quân), Minh Cửu (Pháp Bửu
Đạo Nhơn), Minh Lễ (Lạc Đức Chơn Quân),
Minh Mân (Chơn Đức Đạo Nhơn), Minh
Đãi (Chơn Minh Đạo Nhơn), Minh Hội (Hội Đức Chơn Quân), Minh Trân (Pháp Hòa Chơn Quân), Minh Khánh (Chơn Ý Đạo Nhơn), Minh Đà (Lạc Không Đạo
Nhơn), Minh Truyền (Huyền Quan Đạo
Nhơn), Minh Vọng (Phổ Quang Chơn Nhơn),
Minh Nghiễm (An Tánh Chơn Quân), Minh
Anh (Ngọc Diệu Đạo Nhơn), Minh Cẩn (Hương Huyền Đạo Nhơn), Minh Tuế (Thanh Hương Đạo Nhơn), Minh Liên (Diệu Thành Đạo Sĩ), Minh Quang (Huyền
Môn Chơn Nhơn), Minh Minh (Thanh Vân
Đạo Sĩ), Hương Đơn (Từ Bích Tiên
Nương), Minh Thừa (Phổ Diệu Chơn Nhơn),
Minh Sau (Ân Quang Đạo Sĩ), Minh Lư (An Đức Đạo Nhơn), Minh Bổ (Ngọc Bảo Tiên Nương).
Hội Thánh lập một đàn cơ ngày 09-01 Giáp
Tý (10-02-1984) tại Trung Hưng Bửu Tòa, có mặt: Liên Hoa (đồng tử), Giáo Sư
Thái Phẩm Thanh (pháp đàn), Giáo Sư Thượng Hậu Thanh (hầu đàn), Truyền Trạng
Nguyễn Thanh Giang (độc giả), Giáo Hữu Trần Cư (điển ký).
BẠCH
HẠC ĐỒNG TỬ
Chào
chư Thiên ân, chư đạo tâm. Chí thành chí kỉnh, thanh tịnh tiếp giá Chí Tôn.
NGỌC
còn trong đá biết không con
HOÀNG lịnh trao cho khéo giữ tròn
THƯỢNG hạ thỉ chung tâm có một
ĐẾ trào mới thấy cảnh vàng son.
Thầy
mừng các con.
Thiên
Đình sứ mạng đã ban trao
Mấy ải trẻ qua được ải nào
Quyền pháp trung hưng con đã nhậm
Chơn truyền trung đạo được Thầy trao
Hình
thành Hội Thánh vang danh tiếng
Hồng thệ Thiên ân khảo lộn nhào
Tranh chấp giữa nhau không kiến giải
Thuần chân vô ngã bỏ nơi nào
Con
thuyền mất lái lững lờ trôi
Thầy đến thì con có lại rồi
Hội Thánh, nhơn sanh lòng có một
Công truyền, tâm pháp đũa thành đôi
Quyết
tu chứng quả xương minh Đạo
Vì Đạo quên thân cứu độ đời
Phải trái không còn yên sóng gió
Hồng ân nối lại được mừng vui.
BÀI
Từ
Mậu Dần [1938] đến năm Ất Vị
[1955]
Đạo hưng hòa thánh ý nhơn tâm
Bồ đề phước địa sanh mầm
Xiển dương chánh pháp ân thâm quả lành
Xa
gần một tấc thành chung thỉ
Dưới trên đều nhất trí tu hành
Không quyền, không vị, không danh
Không nhơn, không ngã, không tranh, không
lùi
An
hay nguy cũng vui với Đạo
Mất hay còn vẹn thảo trọn ngay
Tin Thầy lòng chẳng đổi thay
Quyết tu gian khổ đâu nài tấm thân
Việc
Giáo Hội ân cần công quả
Được thánh ngôn quý giá hơn vàng
Xem kinh lòng đặng rỗng rang
Khi nghe thuyết giảng hân hoan cả người
Gặp
nghịch cảnh quyền đời cáng đáng
Bị tù đày càng rạng thanh danh
Trung Châu cấm Đạo lưu hành
Chùa niêm thất bế giống lành cứ gieo
Đời
đen tối càng khêu đuốc tuệ
Đạo cứu đời dám trễ được đâu
Khó khăn cũng phải đương đầu
Tiên phong mở lối bắc cầu tiến nhanh
Trên
đã có đàn anh hướng đạo
Trên nữa Thầy chỉ giáo thực thi
Chung quanh đạo hữu hộ trì
Đoàn quân sứ mạng ra đi oai hùng
Đó thuở
Đạo miền Trung lúc mới
Không mảy hào vụ lợi riêng tư
Đến khi chức sắc vào tù
Ở nhà đạo hữu tiến tu gấp mười
Lo
tiếp tế những nơi lao ngục
Chung giúp nhau những lúc cơ hàn
Xa gần thắt mối tương quan
Bắt dây liên lạc hỏi han đạo tình
Từ
Quảng Đà, Nghĩa Bình, Phú Khánh
Khắp các vùng hẻo lánh nhân gian
Ghé thăm thánh thất, Thiên Bàn
Trao tin kể chuyện vấn an thăm dò
Đọc thánh
lịnh Thầy cho biết trước
Họa sắp qua ân phước gần kề
Ít lâu chức sắc trở về
Dọn lòng tu học nhất tề cầu xin
Khéo
xây dựng đức tin mãnh liệt
Khéo giục lòng tha thiết đạo tâm
Khuyên nhau chờ đợi vài năm
Huy hoàng trở lại, tối tăm không còn
Thật
như lòng nước non đổi mới
Đạo có cơ thắng lợi lại về
Vui mừng khôn tả cho xuê
Bửu Tòa xây dựng bốn bề hân hoan
Trùng
tu lại huy hoàng tất cả
Góp đều tay công quả chóng nên
Thánh đường, thánh thất, thánh đền
Phú, Bình, Nam, Nghĩa tiến lên rập ràng
Đó là lúc giàu sang của Đạo
Cơ trung
hưng Truyền Giáo đại hành
Pháp
quyền vị thứ định rành
Bảo dân
giáo tứ tịnh hành Thiên nhơn.
Quả hy hữu đại ơn ít có
Lúc Đạo
Trời sáng tỏ biết bao
Tinh
thần sống đạo dồi dào
Cớ chi
nên nỗi tiêu hao mỏi mòn
Thầy muốn hỏi các con nghĩ thử
Oan gia nào sinh sự, sự sinh
Bỗng nhiên sóng gió bất bình
Các con tự hỏi lấy mình thì ra
Đáng
sợ nhất quần ma hùa trợ
La rùm beng đổ vỡ đại đồng
Hóa nên lưỡng diện thành công
Nhơn sanh, chánh pháp bị vòng đau thương
Ai
cũng tự có phương diệu dược
Thuốc tuy hay không được thầy hay
Hóa nên căn bệnh kéo dài
Phối, phương dùng tễ hôm nay có Thầy
Không
ai giỏi, ai hay, ai trúng
Chỉ nhất tâm tận dụng pháp quyền
Trí tài hợp với cơ Thiên
Thuần chơn vô ngã hoàn nguyên Đạo Trời
Đời
biết bao hạng người tài trí
Còn chiếm trên thế vị hùng cường
Tung hoành định bá đồ vương
Có thừa sức mạnh phô trương thị quyền
Tài
sức làm cho yên hay loạn
Trí mưu thêm ra bạn hay thù
Trí tài kết quả đến đâu
Hay làm nghiêng đổ trộn bao cuộc đời
Ai
cũng biết chín người mười ý
Được mấy người chịu nghĩ mình sai
Ỷ còn nô lệ mắt tai
Mắt tai nô lệ bên ngoài vô minh
Chỉ
có Thầy trọn lành độc nhất
Siêu thoát ngoài pháp luật mà thôi
Muốn cho sứ mạng phục hồi
Chuẩn thằng quy củ nhớ lời đừng xê
Hội
Thánh mới đề huề mạnh mẽ
Mà nhơn sanh vui vẻ hành trì
Lo gì không hiện quyền uy
Bên ngoài mới phải nể vì kính tôn
Đó
mới gọi tài khôn trí sáng
Thì có đâu dục loạn tranh quyền
Chung nhau một khối tâm điền
Mới rằng hiệp nhứt quy nguyên đại đồng
Tin nghe
Thầy thì không mất quả
Bỏ ý Thầy thì đọa trầm luân
Khuyên nhau tâm chánh ý thuần
Rẽ chia chước quỷ hợp quần phép Tiên
Vì sứ
mạng tư riêng đừng chấp
Vì tiền đồ tìm gốc hướng chung
Trung Hưng giữ lấy điểm trung
Chỗ hành pháp luật, chỗ dùng thiện nhơn
Khi
thông công tiếp ơn giáo hóa
Còn nghĩ suy chơn giả đem so
Lưỡng đài lấy luật mà đo
Không sai quyền pháp sẽ cho ban hành
Đủ ba
đài mới thành quyền pháp
Thiếu ba đài mời họp vạn linh
Vạn linh
y pháp luật hình
Nghị
xong ủy nhiệm chương trinh năm năm
Bất thường gấp chuẩn xăm quyết định
Quyền
lưỡng đài trù tính luận ưng
Ban hành
các cấp y tuân
Điều nào
trở ngại trình dưng thỉnh cầu
TỨ BỬU PHÁP nhiệm mầu phép lạ
Tối uy
linh bất khả tư nghì
Chú phù
ấn quyết tuân y
Lệnh
truyền Thần Tướng mau đi chớ chầy
Nhập môn rồi con Thầy, Thầy độ
Tẩy uế
oan nghiệp khổ tận trừ
Khai đàn mở lối Ngọc
Hư
Trấn
thần định tỉnh tâm tư tịch tà
An vị rồi có Cha làm chủ
Thoát
tôi đòi khỏi lũ quỷ ma
Giải oan rửa sạch oan gia
Hồng ân đại xá Kỳ Ba của Thầy
Từ vô
thỉ đến nay tạo ác
Thầy lãnh thay giải thoát cho con
Sinh sinh vay trả vẫn còn
Đem con tắm thánh là con đạo dòng
Phép trị bệnh trừ xong chướng nghiệp
Sớm mạnh lành cho kịp đời tu
Quyền năng sẵn có ấn phù
Thiên ân đạo hữu hộ cầu Chí Tôn
Chẩn
tế bạt cô hồn thoát hóa
Khuyên âm nhân cải quá hồi đầu
Rồi ban cho một phép mầu
Nghe kinh nương điển làm cầu tiến lên
Tiếp quy kêu đích tên người chết
Mà dặn dò chớ lệch đường mê
Hôm nay đạo hữu trở về
Bỏ buông ân oán đừng hề bận tâm
Thừa
mệnh lệnh Thiên ân quyền pháp
Nương quyền năng trấn áp ma tà
Đạo cao đức trọng ở ta
Thần khâm quỷ phục đúng là Thiên ân
Lo
tịnh luyện cho Thần nhập pháp
Lo hoàn châu kịp đáp nhu cầu
Trấn phương giới hạnh làm đầu
Độ sanh độ tử phải đâu dung thường
Việc
Hội Thánh chủ trương ủy thác
Lo
chu toàn công tác công phu
Nhắc
khuyên hướng dẫn người tu
Cấm
ngăn tranh luận nghịch thù câu mâu
Nhắc đạo hữu tu châu, trì giới
Để
đón ơn Thiên khải nhiệm mầu
Đại thừa
Tam Bảo Hoàn Châu
Hạ
trung Tâm, Tướng, Linh Châu nương Thầy
Có được vậy sống đầy ân điển
Còn
làm cho linh hiển Đạo Trời
Đoạn
dây sinh tử luân hồi
Mới
là sứ mạng ra đời quy nguyên
Không tu chứng pháp quyền giác ngộ
Thì mong
gì cứu độ được ai
Lăng
xăng xuôi ngược bên ngoài
Cậy phần
vật chất an bài Đạo Cha
Sao không chịu thấy xa nghĩ rộng
Tu cho
thành Phật sống cao Tiên
Ngoài trong có đủ Thánh Hiền
Vạn dân thế giới đương nhiên kính thờ
Đó
không phải chuyện mơ lý tưởng
Mà quyền năng tối thượng của Thầy
Đại đồng bốn biển sau nầy
Thượng nguơn thánh đức ơn Thầy lần ba
Trước
chưa thông sau đà thấu đáo
Thầy không giao chánh giáo tay phàm
Xa Thầy chia Bắc rẽ Nam
Có Thầy mọi việc mới làm trọn nên
Có mà
chẳng chịu tin cũng vậy
Trái ý mình phải mấy cũng nghi
Thiên đài tòa ngự mất đi
Chỗ nào Thầy đến chủ trì nay mai
Thôi
câu chuyện còn dài sẽ biết
Có thương nhau mới thiệt thương Thầy
Thật lòng hòa hiệp về đây
Chiết trung lý tưởng được vầy mới thông
Còn
những việc ban phong tạm đợi
Để
chờ cơ thuận lợi trong ngoài
Nhớ câu hiệp nhứt dung hòa
Thỏa vui mới gọi thánh tòa Thiên nhơn
Con
phải sợ cạn ơn thiếu phước
Mà pháp quyền không được chở che
Gia đình Hội Thánh mấy phe
Biết theo ai phải, biết nghe ai nhằm
Đường
đạo bị tối tăm che án
Nay trời đà gần sáng rồi con
Rẽ riêng chắc cũng không còn
Có Thầy chủ tọa các con yên lòng
Thương
những đứa đôi tròng mắt lệch
Không thấy đường lính quýnh lạc xa
Lỡ rồi qua được cho qua
Từ đây sắp tới thuận hòa nghe con.
Huyền Quan Đàn, ngày 07-02 Giáp Tý (09-3-1984),
Thầy dạy:
CAO
đức ân lành bủa khắp nơi
ĐÀI linh ứng hóa độ trần vơi
THƯỢNG căn tỉnh ngộ lo tu đức
ĐẾ mạng hồng ân trẻ phải thời.
THẦY
CÁC CON
Thầy
mừng chung các con nam nữ. Các con dâng bồ đào mừng Thầy và chư Tiên Phật giáng
trần ban ơn xuân quyền pháp phục sinh chánh giáo.
Trong
tiết Nguyên Tiêu, ngày đại đán, Thầy cảm lòng thành của các con nên giáng trần
ban ơn phục sinh sứ mạng. Các con dâng lòng thành kính chầu đón xuân quang hiệp
với thiên vận mà bảo Thái trì Thái,([14]) thừa hành pháp đạo xiển minh chánh pháp.
Vậy các con nghe Thầy điểm hóa.
BÀI
Xuân
Giáp Tý xuân đầy thanh phước
Xuân hồng ân thánh đức ngập tràn
Vui xuân con trẻ hướng nhàn
Trọn tâm giải thoát bước sang cảnh Bồng
Xuân
nay trẻ ân hồng tắm mát
Nhuận thánh tâm chí đạt đạo mầu
Luyện thành ba báu minh châu
Thanh cao thú lịch một bầu càn khôn
Xuân
đạo pháp phách hồn tươi tỉnh
Xuân đạo tâm chí kỉnh chí thành
Phước lành quả báu trường sanh
Đàn trung vui đẹp rạng danh độ người
Con
hớn hở tươi cười với đạo
Đạo đến ngày chánh giáo xiển minh
Các con trên dưới thuận tình
Lập công lập đức vẹn gìn ngôi linh
Mừng
con trẻ trọn gìn tu kỷ
Xuân thanh nhàn hoan hỷ đầy vơi
Xuân thiên thú lịch ơn Trời
Trời cao ban bố nơi nơi phước lành
Xuân
Giáp Tý Thầy dành đức tốt
Ban cho con trọn một chữ thành
Xuân đầy hạo khí trường sanh
Các con chung gội ơn lành Thầy ban.
Các
con! Trước hoàn cảnh khó khăn nhiều con như ngọn đèn trước gió, vì vậy Thầy mới
gia thêm chư Thần hộ mạng các con để các con được trọn lòng tin tưởng tinh tấn
tu hành. Vậy các con xoè hai bàn tay đưa ra hứng lấy thần lực của Thầy tiếp cấp
các con.
Các
con từ đây lo luyện tu cho đúng đắn, giới hạnh phải nghiêm minh để đón cơ thành
đạo.
Thầy
ban bồ đào linh điển, bố phước cho mỗi con. Thầy phản giá.
PHẠM VĂN LIÊM