XII. GIÁO DƯỠNG SỨ ĐỒ
Trong
thời gian dài, Trung Tông Đạo Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài lâm vào thời Khuê: “Nhị nữ đồng cư. Kỳ chí bất đồng hành.” ([1])
Các Thiên phong chức sắc mỗi bên riêng lo theo hướng của mình: Bên tịnh luyện
chí quyết một đường “tiềm long” nương theo điển huệ của các Đấng liên tục dạy
tu, chỉnh tu; bên Hội Thánh hầu như bế cơ vì bất khả dụng bộ phận thông công.
Vào năm
Quý Mão (1963) Hội Thánh hướng mạnh vào chương trình dân sinh, dân trí. Hội
Thánh cử Quyền Giáo Hữu Nguyễn Đình Hoành đặc trách thành lập khu giáo dân Bình
Tuy tại Võ Đắt (nay là xã Đức Tài, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận); cử Truyền
Trạng Nguyễn Thanh Giang làm Giám Đốc cô nhi viện Ngọc Trác tại Trung Tâm Văn Hóa
Xã Hội Cao Đài Tam Kỳ; cho trùng tu hoặc tái thiết một số thánh thất bị chiến
tranh tàn phá; tổ chức lễ ban trao Thiên phục cho các Đầu Họ Đạo; tổ chức nhiều
buổi thuyết minh giáo lý bên ngoài tôn giáo Cao Đài.
Đạo trưởng
Thanh Long đã trình bày đề tài “Tại sao đạo Cao Đài xuất hiện trên mảnh đất
Việt Nam” tại các hội trường ngoài đời. Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục (Khoa Trưởng
Đại Học Văn Khoa Sài Gòn) tham gia diễn thuyết về Tam Giáo đồng nguyên...
Tinh
thần đem đạo vào đời được ba vị Huệ Lương Trần Văn Quế, Thanh Long Lương Vĩnh
Thuật, Trần Luyện cùng với Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục đã làm nổi bật Hội Thánh
Truyền Giáo Cao Đài trong hoàn cảnh xã hội đang biến loạn và nhà đạo đang phân
ly. Hội Thánh muốn củng cố thực lực hàng ngũ Thiên phong để mong tiếp tục sự
nghiệp trung hưng với tinh thần hiệp thông chi phái.
Hội Thánh
quyết định vào Nam lập đàn, cầu xin Đức Lý Giáo Tông ban lệnh dạy. Đàn cơ tại
thánh tịnh Ngọc Minh Đài (Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên) ngày 04-3 Quý Mão (28-3-1963).([2])
Đức Thành Hoàng Bổn Cảnh báo đàn:
THÀNH thị thôn quê đượm vẻ buồn
HOÀNG đồ chinh chiến diễn bày luôn
BỔN nguyên cũng bởi vì tham vọng
CẢNH vật vơi đầy lệ nhỏ tuôn.
Bổn
Thần chào chư Thiên mạng. Khá thành tâm nghinh tiếp Lý Giáo Tông. Bổn Thần xin
kiếu.
TIẾP ĐIỂN
LÝ
đào mấy độ rẽ Đông Tây
THÁI quá nên ra đến nỗi nầy
BẠCH Ngọc đòi phen tâu Thượng Phụ
GIÁNG trần sửa trị lại trần ai.
Chư
hiền đệ, Bạch Ngọc Kinh tiếp sớ các hiền đệ. Bần Đạo thừa lệnh Chí Tôn đến trước
để giãi bày đôi thắc mắc về cơ đạo trung hưng. Vậy Bần Đạo miễn lễ. Chư hiền an tọa.
Thử
kiểm điểm lại: Từ ngày ở Gò Kén đến lập Hội Thánh Tây Ninh, các hướng đạo tách
nhau ra đi (…), đều phải trải qua bao cơn khảo đảo, hoặc bằng cách nầy hoặc
bằng cách khác, mà kết cuộc chỉ đưa cơ đạo đến một tình trạng suy đồi, một mối
chia rẽ trầm trọng! Ngày nay cơ đạo trung hưng lại cũng bắt đầu bước vào con
đường suy đồi ấy.
Tại
miền Nam, các phái đạo lại còn bày thêm lắm trò quái dị, bất chấp luật pháp,
bất chấp kinh điển, mạnh ai nấy sửa đổi, mạnh ai nấy vẽ vời. Chức sắc Thiên
phong rẻ hơn ế chợ. Càng làm càng nói, càng xa đạo pháp chơn truyền. Thật là
đại loạn!
Đời
loạn toan đem Đạo cứu đời
Ngờ đâu Đạo cũng thế mà thôi
Nên hư bởi tại con người cả
Nhưng chẳng sao qua được lẽ Trời.
Hướng
đạo đâu nào hướng đạo đâu
Phải thông lẽ nhiệm, thấu cơ mầu
Phải mau quét sạch bao tà vọng
Để kịp công truyền ngũ đại châu.
Đuổi
theo mục đích trên, các hướng đạo Trung Việt đã tử đạo để viết nên trang sử đạo
bi hùng cảm khái. Ngày nay Trung Hưng Bửu Tòa đã vươn mình đứng lên giữa trung
tâm nước Việt, một ngôi thánh đường, một ý nghĩa đặc biệt. Thánh ý định xây
dựng từ năm Mậu Dần (1938), nhưng vì nhân sự nên phải trễ lại đúng mười tám năm,
đến năm Bính Thân (1956) mới thành tựu và Hội Thánh Truyền Giáo cũng hình hiện
ra đời, để đảm đương sứ mệnh càng trọng đại thì khảo đảo càng nặng nề. Thánh đức
chuyển về phương nào thì quỷ ma cũng hướng về phương ấy mà quấy phá. Bởi vậy xe
đạo trung hưng hiện đang gặp phải một khúc đường quanh gồ ghề đầy cát bụi. Thật
là đáng buồn, mà cũng là lẽ đương nhiên.
Hôm
nay, Bần Đạo khuyện chung chư hiền đệ. Kẻ ở Hội Thánh cũng như người ra đi, các
hiền đệ là những người đã hy sinh đời mình để phụng sự đại nghĩa. Vượt qua bao
nghịch cảnh, các hiền đệ đã thắng được ngoại ma, ngày nay không lý nào các hiền
đệ để cho nội ma chinh phục. Các hiền đệ hãy nhìn vào tương lai, tiền đồ nền
Đạo, đại sự nghiệp cứu độ tàn linh của Thầy. Hãy dẹp bỏ cái ta đi! Đừng quan
trọng hóa cái ta nữa. Hãy nghĩ rằng có ta hay không có ta, lẽ đời cùng thông bĩ
thái vẫn cứ diễn hành. Cây trên rừng cứ mọc. Cỏ ngoài nội cứ xanh. Nước trường
giang cứ chảy. Hãy dẹp bỏ cái ta đi!
Nên
cũng ta mà hỏng cũng ta
Chính ta là Phật cũng là ma
Thử xem vất cái ta đi quách
Thế sự lo chi chẳng thuận hòa.
TIẾP ĐIỂN
NGỌC
bệ đòi phen nhỏ lệ sầu
HOÀNG Cung Thầy ngự suốt đêm thâu
THƯỢNG
lưu lắm kẻ chưa hòa hiệp
ĐẾ Đạo
làm sao khắp ngũ châu?
THẦY CÁC CON
Thầy miễn lễ các con. Các con ôi! Thầy rất
đau đớn mỗi lần nhìn thấy trong hàng ngũ các con nếu có điều chi nghịch lẫn
nhau, chia rẽ nhau.
Thầy trách các con. Tuổi đạo đã cao, kinh
nghiệm đã dày, kiến thức đã rộng, sao các con không nhìn thấy cõi đời đương tao
loạn, bước đạo đương gập ghềnh, quanh các con và cả trong nội bộ các con quỷ ma
đương tìm phương dấy động. Các con đang đứng trước cảnh trạng bạn ít nghịch
nhiều. Lẽ đáng các con phải sớm biết quây quần nhau lại để chăn giữ đàn chiên
cho Thầy và để xương minh chánh pháp mới phải. Trái lại, các con vì chút vọng
tâm tự ái, thiên kiến cá nhân, gây nên nội bộ bất hòa, lần đến chia rẽ, làm cho
bổn đạo hoang mang, cơ đạo đình trệ, thì dù các con có thành tâm thiện ý vì
Đạo, vì Thầy chăng nữa, cũng đành vấp phạm phải điều mà Thầy hằng không muốn.
Hôm nay, một lần nữa, lẽ đáng Thầy nói cho
các con rõ khoa tâm pháp bí truyền với con đường tu tánh luyện mạng, tu đơn là
thế nào, nhưng thấy cần là nên nói với các con về tân pháp.
Ngày nay, buổi hạ nguyên mạt kiếp, cơ tiêu
diệt cận kề, cộng nghiệp chúng sanh cũng đến ngày tổng kết. Năm châu thế giới,
nào chiến tranh khói lửa, nào ân ái oán cừu, diễn bao thảm trạng chém giết sát
hại lẫn nhau, kết tập thành một luồng tư tưởng ác tập khắp cả ba cõi dục giới,
sắc giới và không giới. Khắp cõi ta bà cũng đầy nghẹt các đẳng hồn linh cùng
đứng tranh nhau lập công để chờ ngày phán đoán.
Vì vậy, pháp tịnh tu bí truyền khó mấy ai đạt
được, nên Thầy quyết mở rộng Thiên môn vận chuyển chư Phật, Tiên, Thánh và
chính mình Thầy đến tận thế gian mở cơ đại xá ban hành tân pháp mở rộng đường
tu, kịp thời độ tận tàn linh, lấy đức tin làm mối thông công, lấy công quả hạnh
đức làm nấc thang tiến hóa.
Trong hàng tín giáo giữ được hai điều đó là
gần Thầy vậy. Các con thấu hiểu chăng? Bao nhiêu môn đồ tử đạo trước kia, đa số
chỉ mới giữ được lòng tin thờ chánh pháp, thế mà Thầy cũng tùy theo phẩm hạnh
mà cho siêu rỗi.
Tuy nhiên, để cơ tận độ được vẹn toàn, công
việc giải phóng con người thêm thiện mỹ, tân pháp có ghi nhận khoản tịnh đường,
mật thất dành để sau nầy cho những con nào công đức vẹn toàn có duyên phần vào
cửa ấy, và cũng để giải quyết con người lúc tuổi già có nơi an nghỉ.
Dù vậy, bất luận một pháp môn nào Thầy trao
đến cho các con cũng phải đúng lúc, đúng thì, hợp tình, hợp cảnh và các con
phải đủ người, đủ sức. Nếu không hiểu thấu điều ấy, các con tự ý vọng động,
vọng hành là cơ hội cho quỷ ma xen vào, gây nên khảo đảo. Tình trạng cơ đạo trung
hưng ngày nay là thế.
Thầy không muốn nói thêm nữa. Thầy muốn tất
cả các con là con cái yêu thương của Thầy. Không thương nhau được thì cũng đừng
nên thù nghịch lẫn nhau. Hỡi các con hướng đạo! Dù sao Thầy cũng khuyên các con
nên tự trách mình chưa đủ đức để cảm người, chưa đủ tài để phục người, chưa đủ
uy để chấp hành pháp đạo. Trước mọi nghịch cảnh, các con nên lấy đức từ bi, hỷ
xả, nhẫn nhục mà tiến thủ. Nếu không hơn được, thì các con cố bảo tồn lấy đường
lối trung hưng mấy mươi năm qua Thầy hằng dạy bảo. Còn mọi sự chi chi Thầy sẽ
sắp đặt.
Các con ôi! Đời chưa yên, Đạo đâu thành được.
Các con cố gắng năm nầy và sắp tới phải hoàn thành các cơ sở phước thiện, phổ tế.
Ngày nào Hội Thánh đủ sức bảo trợ
các chức sắc phế đời hành đạo và thực hành cơ giáo hóa phổ cập đến các tầng lớp
nhân sinh, ngày ấy Thầy sẽ dạy các con thêm những điều cần thiết cho hoàn thành
sứ mạng trung hưng.
Cố gắng lên con cố gắng lên
Lời Thầy
căn dặn nhớ đừng quên
Năm năm khảo thí không lay chuyển
Sự nghiệp trung hưng mới vững bền.
THI BÀI
Bền
dạ sắt biết bao thử thách
Vững lòng son tìm cách dung hòa
Nỡ nào nấu thịt nồi da
Không thương thì chớ dễ mà ghét nhau
Thầy
vì con dãi dầu bao quản
Con vì Thầy dày dạn phong sương
Trung hưng cờ đạo phất trương
Ba mươi năm quyết một đường không lui
Con
đã từng nếm mùi cay đắng
Con chẳng nài gánh nặng đường xa
Dãi dầu bách chiết thiên ma
Trơ gan tuế nguyệt phong ba chẳng sờn
Thầy
thương con lắm cơn gian khổ
Có hy sinh mới có ngày nay
Trách ai sớm khéo vẽ bày
Làm cho cơ đạo Đông Tây rẽ đường
Hỡi
con ôi! Tình thương trên hết
Hỡi các con! Đoàn kết là cần
Dù
cho ai Thánh ai Thần
Mà cơ
chia rẽ cũng gần quỷ ma
Thầy cũng muốn nói qua sự thế
Để
cho con biết lẽ nhiệm mầu
Nhưng
đời còn lắm khổ đau
Thì
con còn lắm ưu sầu chưa yên
Thấy các con khắp miền Trung Việt
Chịu
tai ương đã biết bao lần
Ở
trần đành với phong trần
Vào
tu cũng chẳng an phần mà tu
Con gắng lên công phu đạo hạnh
Cơ
phân phàm lọc thánh là đây
Đường
tu vững bước hội nầy
Ngày
sau con sẽ gặp Thầy Ngọc Kinh
Các chức sắc dọn mình trong sạch
Để
Thầy giao trọng trách sau nầy
Trung
hưng cơ Đạo đắp xây
Trong
hòa chi phái, ngoài gây cảm tình
Mở rộng đường quang minh chính đại
Dọn
sẵn đường chi phái quy nguyên
Chờ
ngày sóng lặng gió yên
Bí
truyền Thầy sẽ tận truyền cho con.
Tiếp sớ các con, Thầy dạy chung, khá hiểu.
Và Thầy cũng nhắc lại các con, sự thành lập Trung Hưng Thánh Tòa và Hội Thánh
Trung Hưng, Thánh ý định từ trước, nhưng đến năm Bính Thân (1956) mới hoàn
thành và Thầy chỉ dùng tên Trung Hưng Bửu Tòa và Hội Thánh Truyền Giáo để đảm
đương cơ Đạo trung hưng. Các con thấy đức khiêm tốn và tinh thần dung hòa chi
phái là cần đến mức nào.
Qua
hai bài thánh giáo của Đức Lý Giáo Tông và Đức Chí Tôn, các Thiên phong chức
sắc Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài thấy rõ thêm về con đường hành đạo tịnh luyện
đi đôi của sứ mệnh trung hưng mà Thầy đã nấy trao cho Trung Tông Đạo.
Trung hưng cơ đạo đắp xây
Trong
hòa chi phái, ngoài gây cảm tình
Mở
rộng đường quang minh chính đại
Dọn
sẵn đường chi phái quy nguyên
Chờ
cho sóng lặng gió yên
Bí
truyền Thầy sẽ tận truyền cho con.
Các
vị ở Tịnh Đường cảm nhận được rằng thời gian qua, Đức Chí Tôn thâu hồi sứ mạng
chỉ như là một cảnh sách cho công vụ sứ đồ chăm lo sứ mạng trung hưng. Chính
thời gian chia lìa đôi ngã lại rất hữu ích cho việc củng cố phát triển ở mỗi
bên để được vững chắc hơn khi chung cùng lại xây đắp dọn đường quang minh chính
đại.
Bên Tịnh
Đường vẫn thuận tiện về việc tiếp nhận ân điển Thiêng Liêng. Kỷ niệm ngày Đức
Tôn Sư thành đạo, các vị lập đàn tại Tịnh Đường vào ngày 13-3 Quý Mẹo (06-4-1963):
THI
ĐẠI xá hội lần ba
GIÁC
ngộ thoát mê hà
CHƠN
thành chờ chiếu triệu
TIÊN
Phật ở lòng ta.
Bản Giác chào chư liệt vị nam nữ tại đàn.
Ngày lành triều bái Tôn Sư đón kỳ đại xá,
chúng ta cùng vui mừng tiếp lấy hồng ân để mở rộng lòng từ ban bố khắp gần xa
gội ơn Thánh đức. Ngày giờ nhập diệt của Tôn Sư mở hoát chín
từng mây, Tiên Phật chào mừng ngôi Tiên Thiên được hiệp một cùng khối bao la vô
cực.
Vậy chư hiền thành tâm mà đón mừng Bát
Tiên. Châm tửu bồ đào hưởng cơ tận độ.
TIẾP
ĐIỂN
LAM tuyền ngày tháng ẩn ngồi tu
THỂ
dược phanh đơn mấy độ tu
HÒA
hiệp âm dương thân xuất ngoại
MỪNG
chung tu sĩ cá nên cù.
Hôm nay, ngày lễ kỷ niệm Ngô Đại Tiên.
Nhắc đến công trình của Người tái lập nền chánh pháp cứu độ quần lê trên bao
nhiêu năm hoài bão pháp lành, công phu chứng ngộ mở một kỷ nguyên xán lạn cho
đời.
Vì lẽ trên, trời đất đang ghi công. Lão
cũng nhờ ngày xưa có chút công trình giúp Người trên bước đạo, mà hôm nay đến
đây để tỏ lòng và tỏ ý cho chư hiền sĩ cảm thông noi bước Người mà quay về với
Đấng Đại Từ Chí Tôn Tạo Hóa. Lão nhượng cơ cho Tào Quốc Đại Tiên.
TIẾP
ĐIỂN
TÀO khê đường yếu khuyết
QUỐC
độ lập gần xong
CỰU
căn nên khá biết
MỪNG
gắng sửa trau lòng.
Lý đạo thâm vi gắng sức bền
Công
phu tu học có ngày nên
Chi
vui bằng thấy mình nên đạo
Đạo
đức đủ đầy nước Thánh lên.
Lão có mấy lời để gọi ban ơn. Gắng công,
Bát Tiên sẽ phò trì cho đến ngày thành đạo.
Chào chư tu sĩ.
LÝ đạo gắng công tầm
THIẾT
lập ở nơi tâm
QUẢ
tiên ngày hái lấy
MỪNG
đại phước tịnh tâm.
Chào chư hiền sĩ.
Thanh
thanh làm khách siêu phàm
Mười phương bạn Thánh luận đàm Thiên cơ.
(…)
LỮ đạo
suốt càn khôn
TỔ tổ cứu muôn hồn
ĐẠI nhân lòng đại độ
TIÊN cảnh lại chơn bôn.
Chào
chư hiền sĩ.
HỚN
hở về đây
CHUNG
vui ngày này
LY bồ
đào đưa đến miệng
MỪNG
được nên Tiên bạn đó đây.
HÀ khê vận khí nấu kim đơn
TIÊN
dược được thành cứu chúng nhơn
CÔ
quyết giúp người lòng sẵn nguyện
GIÁNG
thăng để độ trở về chơn.
Chào chư hiền sĩ.
Còn vài vị gởi lời chào mừng các hiền sĩ. Vì
có lịnh Đức Lý Đại Tiên đến một sự cần nên
Bản Tiên xin nhượng bút.
TIẾP
ĐIỂN
Chào chư hiền đệ.
Lão lấy làm vui mừng. Chư đệ dốc lòng giải
thoát tu hành, quyết một hội được thành công mà trở về ngôi xưa vị cũ. Cũng
nhơn ngày nầy Lão để lời ban khen toàn đạo thấy được ơn cứu chuộc ở sự vô vi
Đại Đạo, ở người chứng quả trọn lành. Người lại ứng thân dẫn lối đưa cửu nhị ức
nguyên nhân về hiệp một cùng Thầy. Người đã hoàn thành. Ngày này là ngày kỷ
niệm cho ngày nhập diệt. Chư đệ đã nối cùng Người tức đã gắng công, đừng ngã
lòng trước bao nhiêu đe dọa. Sự thử thách là phương thuốc rất cần cho người
giải thoát. Nhờ thắng được mà quét sạch tứ giả tướng mê lầm. Nhờ sự mài dũa
nhiều ngày mà chứng nên đại giác.
THI
LÝ ưng để vậy thử ra sao
THÁI
quá sợ e cuộc xáo nhào
BẠCH
hắc để lời cho chúng hiểu
GIÁNG
truyền Thánh lịnh báo cho nhau.
Lão không nỡ lòng để cho nơi nầy có những
thử thách gay go, nên Lão ra lệnh cho chư hiền đệ và Thượng Khải Thanh được
biết ngày 14 và 15 phải thiết đàn nơi cơ sở Phước Thiện. Mời hết nam nữ chức
sắc, chức việc đến để hầu lịnh, đặng Thiêng Liêng có lời dạy bảo, ban cho một
đức tin làm pháp hộ thân mà xông pha trên con đường gió bụi, vào tên ra đạn, mà
bảo vệ được mình, sống có chủ đích, chủ trương để khỏi bị hoàn cảnh phỉnh phờ,
ma đời ám ảnh.
Vậy tối 14 dành riêng cho nam chức sắc,
chức việc. Tối 15 đặc biệt cho nữ chức sắc, chức việc tại họ đạo Trung Thành.
Chư đệ y tuân để ngăn phòng trở ngại. (Thủ cơ do Huệ Minh Đức.)
Về Phước Huệ Đàn, hiện nay không thành nhà
tu, không phải nơi quần Tiên giáng thăng truyền trao giáo pháp, nên Lão tạm
thâu hồi, đặt nó vào đây cho các hiền đệ, hiền nữ có nơi tu học.
Về nhà tu nữ, trong lúc nầy cần được phục
sinh mọi mặt, song cốt là làm cho nội bộ mạnh lành, nội tình duy nhứt, nội lệ
tuân y, nội công gắng luyện, nội trợ ân cần. Đừng vì mức sống thiếu hụt mà đem
thân vất vả, sống trong mệt nhọc hằng ngày. Nhứt là giới hạnh người tu, làm sao
cũng cố gò bó mình theo đúng khuôn viên đạo pháp hầu hòa nhứt cùng Trời, làm
bạn chiều sớm với Thần Tiên. Đừng giẫm lại những khoảng vừa qua mà trên dưới
ngổn ngang, trong ngoài khó thở.
(…)
Về nam đạo hữu có nguyện tu trì, men đường
giải thoát, điều đó là một kỳ vọng chính đáng.
(…)
Về quyền pháp thì Thượng Khải Thanh cũng
gắng sức đương đầu gắng công đương việc.
(…)
Về công trình xây dựng một cơ sở nơi nầy,
Lão cũng không quên trong ngày hồng ân mà không nhắc đến lòng chung lo của đạo
hữu. Lập công xây đắp nền tảng Thiên đạo là một công quả xứng đáng thanh cao. Công
ấy nên khen ở chỗ tấm lòng đã nứt nở nhiều đóa hoa kín đáo xinh đẹp.
(…)
Về phần các đệ chủ sự nhà tu, nên ân cần
nhớ lời Thánh huấn. Lúc khó khăn đừng gây những cớ chi cho khó càng thêm khó.
Khó đến rồi lòng thanh tịnh bị giảm sút, mối loạn chớm sanh. Khuyên cùng nhau
ẩn núp mà tu hành để đủ cánh đủ vây, khi muốn xuống nước lên trời cũng không ai
cản. Vì rồng đã thiêng thì biến hóa ai lường, lúc chưa thành hình thì ẩn núp,
chớ chường ra mà người nói rắn, ai cũng toan lo trừ nọc độc.
Đáng lẽ giờ nầy Ngô Đại Tiên đến để rót ơn
vào lòng các đệ, song Lão có lệnh cần thiết mà phải đến phân bày, thì dịp hồng
ân nầy Lão đến để thay Người chấm những công trình hoặc hồi hướng, hoặc quy y,
hoặc đức tin, hay công quả vẽ tô ngày kỷ niệm trở nên long trọng lẫn trong cả
ngoài. Vì vậy toàn đạo gắng thêm năm tới và những năm về sau được tiến triển
trên công trình bắc nhịp cầu qua cảnh giác. Đừng vì một cớ gì mà dứt đoạn với
Thiêng Liêng.
[Sinh
bạch …]
(...) Các đệ có tin hôm nay và những đàn
cơ về trước là trọn của phần Thiêng Liêng không. Nếu trọn tin thì còn hỏi gì
giả chơn cho nhọc. Khi ban đầu chánh pháp vừa được tuyên dương, thì nội bộ giữa
nhau cũng vì tranh chấp hai đường mà một đàn cơ trục xuất Đức Ngô Cao Tiên ra ngoài
quyền pháp, thì cũng một đàn cơ ở một nơi khác Thầy lại mật khẩu mối chơn
truyền ủy giao chánh pháp. Thì xưa kia Ngũ Tổ trao y bát chơn truyền cho Huệ
Năng cũng ở nơi thầm vắng không người, đâu phải sợ đồ chúng của Thần Tú mà
chẳng chương nhiên. Song Ngũ Tổ vì đề phòng cho Lục Tổ nên lấy nhu mà thắng
cương thì trường hợp nầy, hoàn cảnh các đệ khác chi Đức Ngô Đại Tiên lúc nọ.
Thôi, Lão chào các đệ.
Đêm
hôm sau ,14-3 Quý Mẹo (07-4-1963), đàn cơ thiết lập ở khu Phước Thiện (Cẩm Lệ,
Hòa Vang). Đức Hưng Đạo Vương giáng dạy:
TRẦN ai ai đã biết tâm ai
HƯNG
vượng ở nơi kẻ đức tài
ĐẠO
pháp trau dồi lòng tịnh định
VƯƠNG
minh đại nghiệp bởi công dày.
Bản Thánh chào chư Thiên sắc, chư phận sự.
Hôm nay Bản Thánh vâng lệnh Đức Giáo Tông
đến đây để lời dạy bảo cho chư chức sắc, chức việc nơi nầy để được hiểu thấy
trên công việc đạo.
Chư hiền có biết chăng? Đạo của Thầy mở ra
cho đến nay trải qua đã ba tám năm. Trong ba tám năm đều có sự khảo thí, lúc
nhẹ hồi nặng, tùy theo trình độ tu tiến của chức sắc và đạo hữu. Phàm đạo hay
đời, ở vào một tổ chức nào cũng có thiện ác xen vào, giả chơn lẫn lộn. Muốn
được vàng thau biện bạch thì phải có những cuộc khảo duyệt, để lừa lọc biện
phân. Cũng như trong một trường học, tất cả thí sinh ai cũng tự cho mình là hay
là giỏi, nếu không có cuộc thi, thì làm sao biết được người hay kẻ dở.
Nền đạo của Thầy từ ngày mới sơ khai, Thầy
dùng tất cả huyền diệu gây cho chúng sinh có đủ đức tin, để quay đầu về với
đạo. Trong thời gian chỉ có mấy mươi năm, mà số người tín đạo đã lần đến trên ba
triệu tín đồ. Nếu không có sự khảo dượt thì làm sao thấy được lòng tin Thầy giữ
Đạo của mỗi người.
Cơ đạo ra đến miền Trung nầy vì trình độ
của chức sắc và nhơn sinh, sự tu hành và đức tin có tiến bộ, nên Thầy ra những
bài thi có phần mắc hơn lên. Bài thi cho đạo hữu, rồi đến bài thi cho chức
việc, rồi đến bài thi cho chức sắc Thiên phong. Đây nhằm vào kỳ thi đại học để
khảo chọn những người có đại căn đại đức để Thầy giao cho sự nghiệp, hoàn thành
nền chánh đạo Kỳ Ba.
(…)
khuyên chớ khá ngại nghi dụ dự
Của
đến tay chặt giữ chớ lơi
Có
chi quý báu trong trời
Tình
thương sự sống ở nơi đạo mầu
Đời chỉ có ngọc châu là trọng
Nhưng
cũng là hình bóng thế gian
Chết
rồi tiếc có được mang
Chỉ
mang theo có Đạo vàng mà thôi.
Tiếp
theo, Đức Trần dạy về xây dựng thánh thất Trung Thành làm kiểu mẫu. Đức Thánh Trần
dạy về các xã đạo Túy Loan, Liêm Lạc, Khái Tây, Khái Đông, An Hải, Thuận Nam,
Từ Hòa, Bình Hải, Cẩm Lệ…
Trong
tinh thần xây dựng thánh thất mẫu Trung Thành, ngày 15-3 Quý Mẹo (08-4-1963)
Thần Nữ Thị Ngại giáng cơ tại cơ sở Phước Thiện Cẩm Lệ, cổ xúy nữ phái hưởng
ứng việc xây dựng thánh thất kiểu mẫu bằng cách xúc tiến nền sơ bộ đại đồng.
Cùng
đàn ấy, Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
Hôm nay nền chánh pháp đã được tái lập nơi
nầy. Thầy đã chọn một số lương sanh để giao cho một sứ mạng nắm giữ nền chánh pháp,
để thực hiện cơ cứu độ của Thầy. Chư hiền hữu nơi đây được vinh hạnh đóng góp
trên công việc bảo vệ. Mọi việc đều nương theo các bậc đàn anh dẫn dắt, có gì
đâu mà lo mà sợ. Bần Đạo chỉ mong sao chư hiền hết lòng hết dạ, chí kỉnh chí
thành lo tròn phận sự của mình.
Đàn
ngày 08-4 Quý Mẹo (01-5-1963) tại Tịnh Đường, Đức Từ Hàng Bồ Tát dạy:
Hôm nay Hội Thánh đã xây dựng gần thành
thì hốt nhiên giữa nội tình có điều bất nhứt, hóa cho nên nội bộ chia đôi. Bao
nhiêu pháp cụ đã trao để thành hình một nền Trung Tông Truyền Giáo, song nhơn
trí bạc thiển nên thứ chọn thứ chê. Muốn cho công cuộc chung được kết quả trong
tương lai, Bần Đạo khuyên chư hiền gắng mà gia sức, bền công để tiến lên mà đón
kỳ Thánh đức.
Một tòa nhà to lớn qua một trận bão tố
xiêu ngã tan tành. Lẽ cố nhiên người trong nhà dầu lớn dầu nhỏ đều có trách
nhiệm chia nhau dồn lấy đá, nhặt lấy cây che đỡ lấy khung lều tạm núp qua ngày,
tránh cơn mưa nắng. Để lo chuẩn bị dựng lại tòa nhà thì nơi đây các hiền đã để
tâm nghĩ đến, lấy sức đương lo, phận sự của mỗi người ai cũng phải đóng góp rất
nhiều. Chẳng những làm hết khả năng mà còn tăng gia cố gắng mới kịp thời gian
kỷ lục, mới đủ mọi phần. Phải trông đó ngó đây để thực hiện chương trình theo
thiết kế của kỹ sư kiến trúc, hầu tránh khỏi tình trạng hư hỏng như trước đây.
Vì thượng tầng cơ sở quá sức lớn lao mà hạ tầng nền tảng không đủ đầy chịu đựng.
Bây giờ người cùng trong một ngôi nhà bị
đổ, kẻ nói vầy, người nói khác, tại thế đó, thế kia. Bây giờ quyết có hai
đường, bên muốn thế nầy, bên ưng thế nọ. Hai lực lượng giằng co. Song phần Bần
Đạo góp lời, muốn được trọn cả hai phần, phần nào bỏ đi là phần chư hiền nên
lấy. Thứ bị loại ra, thứ các hiền cần được giữ gìn. Rồi kết quả đôi bên bảo vật
của Trời không vật nào bị rơi bị thiếu.
Cụ thể ra, bên chuộng hình thức, bỏ tinh
thần. Phần bỏ kia các hiền gắng công giữ lấy. Nghĩa là phần kia, thứ gì các
hiền không giữ là phần bị mất. Đã mất rồi thì giáo pháp không thăng bằng, thần
hình đôi nẻo. Những phần bị bỏ rơi là phần tối yếu cho nền tảng giáo pháp ngày
nay. Như giới quy là một phương tiện đứng đầu để hình thành quyền pháp. Công
phu tu tập là phương châm tiến đạt của người cầu Đạo vô vi, lẽ nào thiếu được.
Vậy muốn thành công là nhận lấy phần chê.
Muốn nên việc phải gắng nhiều nhẫn nại. Bần Đạo không bảo các hiền đối lập để
gây sự giữa nhau mà chỉ khuyên nên nhặt những phần bị loại, những thứ không làm
để giữ. Còn những môn đồ mà Thầy đã giao đừng nên thiếu sót.
Bây giờ các hiền nhắm vào tới đích của cơ giáo
pháp mà gắng tiến để đạt công đầu một mối Đạo vô vi để thưởng cho người vô ngã.
Đạo vô vi thể dụng đồng viên mà các hiền được ơn phước mới thông cơ mầu nhiệm.
Đàn xuân đã dẫn chứng hai nguồn triết học
đạo đức của Ấn Độ và Trung Hoa được gặp nhau tại nước Việt Nam này với một tinh
thần sẵn có dung hòa. Một đất nước chứa chan tình giao cảm để các hiền lấy đó
vạch một con đường giáo pháp mà tu học giải thoát lấy mình, xây đắp lấy nền xã
hội nhơn sinh.
Hôm nay Bần Đạo nói tiếp con đường Trung
Đạo mà từ lâu người Ấn Độ đã tìm ra đã tu chứng, đã giải thoát cho thân mà còn
giải thoát cho người. Một nền đạo đức cao siêu đã cứu không biết bao nhiêu con
người, xây đắp cho bao nhiêu dân tộc. Nguồn chân lý bao la xuất phát thì thời
Phệ Đà của non sông đất Ấn, phát huy và cụ thể được từ ngày Phật Tổ Thích Già
làm cho dịu bớt nỗi khổ của đời, cứu người thoát ngoài vòng vây sanh tử. Một
nền Phật pháp sâu dày trong bốn biển, hương vị giải thoát nhẹ nhàng, xây đắp
cho mười phương một lâu đài chơn thiện mỹ.
Phật pháp sau thời Như Lai tịch tịnh giáo
lý chia đôi.
Một đường sang Tích Lan đến Mã Lai, Miến
Điện, Xiêm La, qua Cao Miên rồi trụ vào non sông đất Việt. Phái nầy gọi dòng
Phật pháp tiểu thừa, về phía Nam Tông. Chư tăng lữ chuyên tu phạm hạnh, chủ lấy
giới luật, gọi là tông truyền hành trì Luật Tạng, người gọi là nguyên thủy tăng
già.
Về phía Bắc Tông truyền sang Tây Tạng,
Trung Hoa rồi sang Việt Nam cũng trụ tại đây. Dòng Bắc Tông gọi mình là đại thừa
Phật pháp, chuyên thủ Luận Tạng. Nền đạo pháp mênh mông chia thành mười mấy tông
chủ trị. Tông nào cũng chủ một phương, lý luận không cùng. Việc cứu cánh đâu
cũng hướng vào lợi ích nhơn sinh, nói không cùng tận.
Bây giờ ta nên biết một điều là hai dòng
giáo pháp của Phật Đà đã chảy đi phương Bắc, phương Nam lại gặp nhau nơi nước
Việt, thì sứ mạng Tam Kỳ có bổn phận điều hòa tiếp thu, làm cho Tam Tạng giáo
lý của nhà Phật được hình thành để làm sáng tỏ Đông Tây Đạo Trời là một.
Con đường trung đạo đã hiển hiện. Nơi đây
là chỗ kết tinh của các nguồn giáo pháp, là con đường gặp gỡ những thành phần
sứ mạng, rao giảng quyền pháp cho nhơn gian.
Vậy, về nguyên thủy tiểu thừa hay các giáo
phái đại thừa, xét ra mỗi bên chấp thủ lấy một phần trong ba tạng, nặng phần
đại, nhẹ phần tiểu, lo phần tích (tức) bỏ phần tiêu.
Nếu nói tiểu thừa là hẹp song cũng còn
được cốt cách ban đầu, cũng giữ được Luật nhà sư phạm hạnh. Nhờ khép mình trong
giới tỳ kheo mà giới luật là nền móng của nhà Phật. Con đường giải thoát của
người tu thì giữ giới cũng là một yếu tố trên hết.
Trong pháp môn, tam yếu là Giới, Định,
Huệ. Bên chấp Giới, bên thủ lấy Huệ. Huệ để đoạn mê lầm, ngăn tật ác. Thấy bản
thể thì Giới Huệ cũng đều cần yếu. Song Giới không Định không sạch, Huệ không Định
không tỏ. Nhờ Định mà thông thấu ba đời, có đủ thần thông chứng ngôi Thập Địa.
Vì vậy mà muốn cho các hiền dung hòa cho được Tam Tạng, rõ lấy Luật, biết lấy
Luận, chấp lấy Kinh để Giới sạch, Huệ tỏ, Định chủ lấy thân, suốt cùng mười
phương không chướng ngại.
Các hiền hiểu được ý Bần Đạo dẫn dụ đó
không? Nếu hiểu thì kỳ sau Bần Đạo sẽ dẫn. Nền đạo đức Trung Hoa từ Phục Hy sau
chia phần vô, phần hữu, đủ hiện như Khổng Mạnh văn vẻ cho đời, đủ ẩn như Lão
Trang huyền vi thanh thoát. Hiểu để kết thành một giáo pháp cho tông đạo của
các hiền vậy. Hiểu làm sao?
[Cư
bạch …]
Bần Đạo ví nơi đất nước Việt Nam nầy, nói
sâu không ai thấy đáy, nói thấp muôn sông nghìn rạch, nguồn nước đâu đâu cũng
chảy về đây. Nói văn minh khoa học, nói tôn giáo đạo đức, thì Đông hay Tây, xưa
hay bây giờ đều có một cơ hội gặp gỡ để điều hòa, để thành tựu cho non sông,
cho vũ trụ, cho thế giới chúng sanh thành tựu. Cũng như muốn có một bức tranh
cần có đủ màu xanh, màu xám, màu đỏ, màu điều, màu vàng, màu đen. Màu thuốc nào
cũng có đủ. Bây giờ cần tô một bức tranh đủ sơn thủy kỳ quan thì có thể được
chưa?
[Sinh
bạch…]
Màu sắc có đủ rồi, bây giờ cần người thợ
họa để tô phết các màu sắc ấy cho mỹ thuật thần kỳ. Nếu màu sắc có đủ mà tay
vụng về bôi phết lên tấm tường thấy còn buồn cười ngao ngán. Cũng vậy đó, các
phần chơn lý đã sẵn, nếu biết kết tinh thì sự duy nhất cũng được hoàn bị cho vũ
trụ chúng sinh. Bằng tập hợp lại một cách lộn xộn vụng về thì chẳng những vô
ích, tốn công mà còn làm trở ngại cho nhơn sinh tạo hóa.
Vậy cần có một tay thợ họa. Về quyền pháp,
nơi đây chưa quyết phải đi hướng nào. Đến đâu và làm gì đây nữa, thì Bần Đạo
cũng góp lời mà nhận lấy ý để có thể gánh lấy sứ mạng sau nầy. Bằng thiếu sức,
nhác làm, thì lo giải thoát lấy thân cũng không phải là vô ích. Muốn làm cần có
một tổ chức. Tổ chức nầy tuy nhiều ít số người đồng đức đồng tình. Ấy gọi là một
đoàn thể mà tôn giáo gọi là Giáo Hội. Giáo Hội có ba phần:
Phần đoàn thể gồm có giáo phẩm, giáo đồ.
Phật gọi là tăng lữ tín chúng. Giáo phẩm cần được đủ uy nghi oai đức, giới sạch
tuệ đầy, cốt ở tinh thần thường định. Giáo đồ sống dưới chở che no ấm bằng tình
thương lẽ thật. Trên dưới đúng hướng, đồng tu tăng tiến, sống nương trong giáo
pháp gọi là Giáo Hội.
Giáo pháp gồm đủ hai phần. Phần xuất thế
và phần nhập thế. Giáo lý cốt giải thoát cho đời, khêu sáng đèn lòng cho chúng
sanh nhận thấy con đường siêu đọa. Xuất thế không phải trốn đời, cần cứu đời
nên xuất thế. Xuất thế để nhập thế mới thấy con người giáo phẩm ra vào không
ngại, chẳng sợ ma cảnh cầm chưn bắt hồn. Vì vậy giáo pháp cốt để giải phóng cho
mười phương nhơn loại ra khỏi biển khổ trần lao. Dẫu còn dính mắc trong đời thì
tình sống giữa nhau đem lòng chan trải.
Giáo quyền, giáo lý đúng hồi, biết làm cho
dung hòa mà trong có người hướng đạo trung kiên. Nội giới, ngoại giới đủ oai
nghi thì giáo quyền được mạnh, giáo thể được nghiêm. Vì vậy cần cốt có một tổ
chức. Tổ chức có phần giác ngộ thì tổ chức được mạnh được sâu. Quyền đạo còn to
cốt không phải ở giáo lý hay, mà ở người hướng đạo siêu phàm trọn vẹn. Hướng
đạo được trọn vẹn thì mọi tổ chức được vững, nội bộ vuông tròn, đạo thể hiện ra
thành trì là bốn phương dân dã.
Tóm lại hướng đạo kiên cố, giáo lý lành
mạnh, tổ chức khoa học, thì đoàn thể to rộng và sâu. Nên vậy các hiền cốt phải
thành hình. Dầu lớn dầu nhỏ cũng có một vài nét gạch để làm chừng mà đi tới.
Nếu hỏi về phẩm phục thì phẩm phục có là khi có tổ chức. Phẩm phục có để thêm
oai nghi cho giáo lý, song oai nghi đó cũng bên ngoài mà cốt là tư cách người
Thiên ân lòng không lấm bợn.
Về nữ phái cũng cần hình hiện một vài nét
đơn sơ để ơn giáo hóa thì cốt nơi đây làm sao chư tu sĩ chị em nhỏ lớn một lòng,
cũng như người ở chỗ kia, người ở chỗ nọ, thôn xã khác nhau mà về chung ở trong
một nhà. Một nhà ví như một thân. Một thân sao có đôi ba lòng. Nếu tay bất ý
với chưn, không lẽ tay cầm dao mà cắt chưn, hay mắt bất bình với thân mà suốt
đời nhắm mắt không trông thấy da thịt.
Về mọi việc tiến hành cần được ôn thuật
lại các đàn đã dạy và cầu lên đàn, sắp xếp đâu đó mọi việc cho rồi, để thiết
theo nguyện cầu của Liên Hoa tạm nghỉ thời gian. Trách nhiệm phò tá cơ thay
vào, song bước gay go phải e dè cẩn thận, bước cho vững bước để khỏi ân hận sau
này.
Thôi, Bần Đạo ban ơn từng người. Gắng trọn
tâm mà tiến về với Đạo.
Tiền
bối Liên Hoa xin nghỉ thủ cơ nhưng còn nấn ná chờ thao luyện người thay thế để
điển quang giáo hóa của Ơn trên không gián đoạn. Khi ban lệnh hình thành thánh
thất kiểu mẫu, Ơn Trên đổ dồn điển lực, gây ý thức về đường giáo hóa Trung
Tông.
Đàn
cơ ngày 09-4 Quý Mẹo (02-5-1963) tại Tịnh Đường, Đức Liễu Tâm Chơn Nhơn thay
mặt chư Thánh Thiên Đồ, Đức Cái Thiên Cổ Phật, Đức Quan Âm Như Lai, và Đức Thái
Bạch Kim Tinh thừa chỉ dụ của Chí Tôn phong cho Chế Văn Sanh (chức sắc Phước
Thiện tại thánh thất Trung Thành) là Trung
Đẳng Hàm Chương Trấn Đạo Thiên Thần.
Cùng
đàn này Đức Chí Tôn dạy:
Thầy ước ao ở lòng mỗi con lúc nào cũng
tươi sáng, luôn luôn thanh tịnh, để gạn lấy phần đục ở lòng. Muốn Thánh muốn
Hiền là dẹp được cái lối phàm phu chật hẹp, cốt ở lòng. Mà lòng người thì đen
đục, hầu hết ngập trong tội lỗi mê mờ.
Người giác ngộ muốn quay ra đường quang mà
đón lấy ánh sáng diệu huyền, nên người chọn lấy những pháp môn bằng cách nầy
cách nọ để chỉ để quán, để định để
thiền, để tu để luyện. Trăm ngàn phương pháp cầu lấy sự thanh tịnh vô vi, song
pháp nào cũng không ngoài bốn chữ chánh tâm diệt dục mà thôi.
Các con không vì cái tên mà chấp nhứt,
không vì cái thể mà chê khen. Phải nhẫn nhục. Nhẫn nhục cho nhiều thì gạn được
lòng, cầu được đạo.
Bây giờ nhiều con hỏi Đạo nay về đâu.
Quyền pháp đâu còn. Sứ mạng đâu có. Các con bình tĩnh thì thấy, chớ khó gì.
Đạo đức về với người đạo đức. Quyền pháp ở
với kẻ chơn tu. Sứ mạng ở nơi nào mà thanh bình thánh đức. Ngoài chỗ giành giựt
hơn thua là phường ma quỷ cả.
Trong
tinh thần xây dựng thánh thất kiểu mẫu Trung Thành, đàn ngày 14-4 Quý Mẹo (07-5-1963),
Thanh Phong Đồng Nữ giáng đàn cổ xúy chị em nữ phái: “Tắm mãi thì bụi mới sạch, rửa mãi thì trần nhơ mới hết.”
Đàn ngày
16-4 Quý Mẹo (09-5-1963), Đức Vô Cực Lão Mẫu giáng dạy: “Bọn giặc nguy hiểm nhất của người tu là tai, mắt và phàm tâm.”
Đàn
ngày 23-4 Quý Mẹo (16-5-1963), Đức Trần Hưng Đạo dạy rằng chánh pháp Trời ban cứu đời, nhưng con người phải có nguyện lực và kế
hoạch hoằng dương. Ngài dạy:
Đạo cốt ở tâm. Nếu tâm thanh tịnh thì trần
tục sẽ lìa, nghiệp căn sẽ dứt. Cốt phải lấy sự nghiệp lập công hành đạo đi đôi.
Mọi người đều quyết tâm bảo vệ chánh pháp, xây dựng hoàn thành thánh thất kiểu
mẫu, thì sự thành công trên đường tu học chẳng khó. Phải theo hướng hành đạo
tịnh luyện mà làm.
Đức Thánh Trần nhắc nhở việc kết tập Bửu Chương
Pháp Đạo và khuyến cáo các phận sự cố gắng tổ chức sắp đặt xây dựng một thánh thất
kiểu mẫu của tân pháp Cao Đài.
Đàn ngày
02-5 Quý Mẹo (22-6-1963), ngài Hàm Chương Trấn Đạo Chế Văn Sanh báo đàn. Đức
Quan Âm Bồ Tát lâm cơ điểm danh hai mươi chín người.([3])
Đức Quan Âm bảo sẽ có dịp điểm danh thêm nhiều đạo tâm nữa và dạy:
Các hiền đạo tâm nên bình tĩnh mà kiểm
soát lại lòng mình, mỗi ngày một qua mình đã làm gì được công, hay làm gì bị
tội. Chắc mỗi ngày các đạo tâm chỉ thấy rặt ròng gây tạo lỗi lầm, mà lỗi lầm cứ
chồng chất trên thân, mỗi bữa mỗi cao.
Lỗi lầm nếu biết được thì ai không lo
không sợ. Vì vô minh phiền não mà lòng bị cấu nhiễm trần lao. Để giải thoát, để
vượt ra bể khổ sông mê, thì không phép gì hơn “cầu kỳ phóng tâm” của Mạnh Tử,
chỉ biết đem lòng mình trở lại nơi tự tại là được trọn vẹn. Nên Tu Bồ Đề hỏi
Phật cho được chỗ an trụ cái tâm, hàng phục cái tâm làm sao. Hàng phục được, an
trụ được là quay trở lại mà thôi vậy. Đó là hồi đầu thị ngạn, công phu giải
thoát đã được hơn nửa rồi.
Có quay về với tâm mới thấy không nhơn
không ngã. Vì trong thân người chỗ nào cũng động, dục, cũng nổi loạn thì chỗ
nào mà quay về? Dịch Kinh nói: “Cấn kỳ bối, bất hoạch kỳ thân, hành kỳ đình,
bất kiến kỳ nhơn.” ([4]) Cấn
kỳ bối. Bối là phía sau vậy. Chỉ phía sau xương sống mới không vọng dục, mới
không nhơn ngã. Người cần quay bánh hà xa ngược lại, thì tinh khỏi hao, thần
khỏi lìa, khí không tán.
Vì vậy nên huyền cơ đạt đạo ở chỗ chí
nhiệm. Đem mắt vào lòng thì lòng được yên. Lòng yên rồi thì hàng phục được.
Các hiền đạo tâm! Đây là một pháp cầu tu
học. Các hiền có biết lấy lửa ở mặt trời không? Muốn lấy lửa phải có kính. Đặt kính
dưới mặt trời, thâu nhỏ sức nóng vào ngay nắm bùi nhùi thì lửa phát ra. Cũng ví
như mặt trời, tâm là kính, thân là bùi nhùi. Nhờ pháp đó mà tinh hóa khí, khí
hóa thần, thần khí nương nhau thì thọ ích diên niên, thần hồn thông đạt, hòa
đồng cùng Tạo Hóa. Các pháp tu muốn được công bình thì hết thảy bất cứ ai muốn
cầu Đạo tu bằng cách nào, cũng phải lấy keo làm chuẩn.
Trong
tinh thần vun bồi đường tu tướng tâm quy nhứt của Trung Tông Đạo, Đức Bảo Thọ
Thánh Nương tiếp nối lằn điển quang hướng về nữ phái, nữ tu. Đàn tại Tịnh Đường
ngày 08-5 Quý Mẹo (28-6-1963):
BẢO xúm xít nhau giữ trọn tình
THỌ thừa
Thánh mạng gắng hy sinh
THÁNH
tâm mới gánh xong Tông Đạo
NƯƠNG
pháp vô vi náu luyện hình.
Chào chư quý hiền huynh, chư chị em tu sĩ. Mời
an vị.
Mối đạo vô vi, lòng người thiếu Thánh tâm sao
thấu biết. Nên lắm kẻ gặp rồi lại bỏ đi. Người ở cùng với nó mà không thấy được
nó. Trong tay cầm nó mà đi kiếm nó. Đón đầu lại thấy đuôi, đón đuôi lại thấy
đầu. Rồi cũng chẳng biết đâu là đuôi hay đầu mới sanh lòng phân vân ái ngại.
Ôi! Đạo lớn phải chờ người đại nhơn, thì bổn
phận chúng ta đức thiếu, trí hèn không gắng sức lập thân, thì sao được lên quả
vị. Vậy Bản Nương để lời khuyên chị em gắng một, gắng mười. Một mười chưa nên
thì gắng trăm, gắng ngàn cho kỳ được thành công mới thôi. Đừng thấy khó mà nản
lòng.
Đức Bảo
Thọ nhắc tới lời Đức Lý Giáo Tông dạy ở buổi đầu chỉnh cơ của Trung Tông Đạo: “Trung Tông có pháp nhiệm mầu / Có Thầy dẫn
lối, có đầu có đuôi.” Đầu là cơ tuyển độ và phổ độ, đuôi là cơ tận độ.
Cùng đàn
ngày 08-5 Quý Mẹo (28-6-1963), Đức Ngô Cao Tiên dạy:
Anh em giữ đạo thân hòa
Giữ
cơ giáo pháp gần xa được nhờ
Thuyền
Thầy lèo lái đến bờ
Rước
đưa sanh chúng đợi chờ từ lâu
Trung
Tông có pháp nhiệm mầu
Đủ
đường phương tiện tiếp thâu môn đồ.
(…)
Phần tu kể cũng cố gắng của mỗi trò. Y thế mà
làm. Lâu ngày chầy tháng sẽ thấy sự kết quả của nó. Nên
pháp đạo ấy cần đòi hỏi một công trình dẻo dai, tấm lòng chung thỉ. Vậy các trò
làm thinh mà tu. Một, được phần xác, bệnh tật không sanh, thân hình khỏe mạnh.
Hai, linh hồn dầu không vào được Tiên Thiên, thì Thầy cũng cứu trọn vì cốt ở
lòng, mà lòng phải vô vi thanh tịnh. Vô vi trong đó đã chứng đến vô thượng
chánh giác, vì vô vi là vô kỷ, vô công, vô danh. Tu đến bực nầy cũng tối thượng
giải thoát.
Song pháp môn nhập hóa có nhiều phương tận
độ. Đừng chấp mà bị vào biên kiến giới thủ. Trò biết như thế nào thì giữ thế ấy.
Đừng làm trở ngại cho kẻ khác mà mất thế thăng bằng. Phật nói “Quy nguyên tàng
bất nhị, phương tiện pháp đa môn” thì pháp Trung Tông các trò chưa cảm thấu
thiệt tướng của nó.
(...)
Phận sự về đàn tu cũng như đàn giáo hóa,
trong thời gian tịnh dưỡng của Liên Hoa thì Huệ Minh Đức hành sự. Cần một bước
sâu vào con đường Trung Đạo. Liên Hoa hết sức cố gắng lập chí lấy mình mà tịnh
dưỡng, cầu cho được minh chứng. Đừng vì tiểu tâm mà trở ngại cho bước hành
trình.
Đàn
cơ tại Tịnh Đường luôn duy trì đều đặn. Việc thủ cơ dần dần chuyển giao từ đồng
tử Liên Hoa sang Huệ Minh Đức (Tá Cơ Quân Đặng Nhâm). Ơn Trên, nhất là Đức Ngô
Cao Tiên, lâm cơ dạy tu luyện, ít đề cập đến việc hành đạo.
Việc
xây dựng thánh thất kiểu mẫu Trung Thánh đã có ảnh hưởng đến các họ đạo khác.
Thánh thất kiểu mẫu là thánh thất sinh hoạt tu học theo đường tu đạo: Công
truyền, tâm truyền đồng tu; tịnh luyện, hành đạo đi đôi; thiên đạo, thế đạo
song hành. Nhiều Đầu Họ Đạo đã về Tịnh Đường hầu đàn, xin thọ pháp trong ý thức
về sứ mạng trung hưng.
Đàn
cơ ngày 04-7 Quý Mẹo (22-8-1963) tại Chi Hội Phước Thiện ở Đà Nẵng, Đức Lý Giáo
Tông dạy:
THÁI hòa xây dựng dễ gì đâu
BẠCH
hắc phân minh ở đạo mầu
KIM
thạch dặn ai tua khá giữ
TINH
tường chánh pháp mới cao sâu.
Bần Đạo chào chư Thiên ân phận sự nội đàn.
Bần Đạo đến với chư hiền hôm nay bởi công
việc khẩn thiết của cơ đạo mà chư hiền đã có lòng chung lo. Ai nấy cũng ước
mong cho nền Đạo trung hưng duy nhất một tinh thần thương yêu hòa thuận, để cho
Thánh thể của Thầy được lành mạnh. Lành như ngày mà anh em được chung sống
trong bầu không khí thái hòa.
Chư hiền có biết vì sao mà nền Đạo trung hưng
đến nỗi nầy chăng? Có phải do lòng người gây ra, hay là do cơ mầu nhiệm của
Trời xui nên như thế?
Sách đã nói: “Thiên vị sanh ngã hề Thiên
vi chủ. Ký sinh ngã hề tâm vi chủ.” ([5]) Thầy
lập ra một sự nghiệp trung hưng đã sẵn đủ một kho tàng tài liệu về phương tiện
pháp môn tu học để đưa sanh chúng thoát ra ngoài tội lỗi, bước lên bờ giác đặng
về hiệp cùng Thầy, sống cảnh an nhàn bất tiêu bất diệt. Thầy ban trao cho một
quyền pháp để nương theo đấy mà lập công. Cũng như người qua sông nương lấy gậy
để dò khúc sâu, cạn. Khi đã qua rồi thì gậy kia cũng không còn quý nữa. Thế mà
có người được gậy rồi thì cứ ôm giữ lấy gậy, mà còn lợi dụng nó để múa men, làm
cho cơ nghiệp của Thầy trở nên đổ nát.
Đổ nát chừ ta phải dựng xây
Dựng
xây huynh đệ để sum vầy
Sum
vầy chung sống nền tân pháp
Trọn
hưởng phước ơn của Mẹ Thầy.
Thầy
Mẹ bao lần đã nhủ khuyên
Khuyên
nhau huynh đệ giữ lời nguyền
Cái cơ
chia rẽ là ma quỷ
Ma quỷ
làm sao được trọn yên.
Từ ngày Thầy thiết lập cơ đạo tại thế gian
này, trải qua nhiều thời kỳ để tận cứu chúng sanh, đã dùng nhiều pháp môn
phương tiện. Nhưng do tay phàm canh cải, làm thất lạc chơn truyền, nên con
đường về với Thầy bị bít không phương thoát tục. Nên đạo thì nhiều, tôn giáo
hiếm chi, nhưng con đường siêu sinh liễu tử bị ngăn ngại, nên tu thì nhiều mà đắc
ngộ thì ít.
Cũng như đạo Phật là một tôn giáo rất siêu
việt thâm diệu, khả dĩ đưa người siêu phàm nhập thánh. Nhưng từ ngày Phật Tổ
truyền ban cho Ca Diếp, xuống đến Huệ Năng thì không còn có người đủ căn cơ đức
độ để thọ truyền chánh pháp được nữa. Nên pháp nhiệm không còn truyền lại. Mà
đã thất lạc chơn truyền rồi thì chúng sinh nương đâu mà tu luyện để thoát vòng
sanh tử luân hồi?
Vì lòng từ bi vô lượng, Thầy thương xót đám
sanh linh ở cõi trần nầy đương lăn lóc, hụp lặn nơi biển trầm luân, mà hạ mình
giáng thế, dùng pháp môn cơ bút để rao truyền nền chánh đạo Kỳ Ba nầy, nguyện
tâm cứu chúng sanh.
Con đường cứu độ của Thầy có nhiều phương
tiện. Tùy theo trình độ và căn cơ của chúng sinh, mà dẫn dắt từ thấp đến cao,
cũng như ông thầy dạy học từ lớp nầy đến lớp khác.
Giữa cõi đời mạt kiếp nầy, loài người đắm say
theo đà vật chất, nên Thầy lập Đạo, trước nhất dùng thanh âm sắc tướng để tùy
theo sự ưa thích của người mà dẫn dắt từ chỗ giả đến chỗ chơn. Cũng như cha mẹ
dùng bánh kẹo để dỗ cho con đi học, mục đích cũng mong cho con được mau thành
đạt, chớ Đạo đâu ở nơi thanh sắc mà thành. Đó chẳng qua là một thứ giả tạm mà
thôi.
Cái ngày Đạo đã trưởng thành, thì Thầy dùng
một con đường chắc thật là cơ tâm pháp bí truyền, để cho người nương theo đấy
mà tu luyện, cũng như bộ chìa khóa để mở cửa vào Bạch Ngọc Kinh. Người nào
không có nó thì đành phải chịu đứng ngoài, không cách gì mà vào được.
Kẻ Thiên phong chức việc được ơn Thầy ban
trao là để nương theo đấy mà lập công đặng trừ những điều tội lỗi mà tiền kiếp
đã tạo gây, chứ có phải lấy đó mà gọi là một thứ quyền tước để rồi đắc đạo đâu.
Ngày xưa, Lương Võ Đế lập được bảy mươi hai
ngôi chùa và làm không biết bao nhiêu phước đức về việc bố thí cho chúng sinh.
Khi gặp Đạt Ma hỏi có công đức như thế nào, Đạt Ma trả lời: Không có công đức
chi cả. Vì đó là pháp hữu lậu. Mà đã hữu lậu thì chỉ hưởng phước thế gian mà
thôi. Còn công đức cốt ở sự tu tâm luyện tánh.
Có tu tâm luyện tánh thì vô minh phiền não,
căn trần mới dứt sạch, tự tánh mới được tỏ sáng mà hiệp cùng bản thể của vũ
trụ, đắc thành quả vị Phật Tiên. Chứng minh lời Phật đã dạy cho Tu Bồ Đề trong
kinh Kim Cang rằng nếu chúng sanh lấy của thất bửu đầy cả tam thiên đại thiên
thế giới mà bố thí, so với chúng sanh có người thọ trì Tú Cú Kệ thì công đức bố
thí kia thua công đức nầy rất nhiều. Cũng như có người đem thân mạng hằng hà sa
số kiếp mà bố thí cũng không bằng người tu thanh tịnh.
Một điều chứng minh rất quan hệ: Tưởng nghĩ
được muôn ngàn vạn ức La Hán, Thinh Văn cũng không bằng người tu giới đại thừa
thanh tịnh trong năm mười phút. Vì La Hán Thinh Văn còn ở bậc tiểu thừa, mà
người đã tu lên bậc đại thừa của Bồ Tát thì công đức cao lớn vô cùng.
Bởi vậy cho nên Thầy buộc những chức sắc cấp
Hội Thánh từ Giáo Hữu trở lên phải tu theo giới thượng thừa. Mà thượng thừa là
giới tu của Bồ Tát trong đạo Phật. Mà Bồ Tát là đã dứt sạch vô minh, phiền não,
tham, sân, si, mạn. Không còn ngã nhơn, chúng sanh thọ giả. Thân khẩu ý đã hoàn
toàn thanh tịnh. Họ đã hằng phát nguyện đem thân để hóa độ tất cả chúng sanh.
Nếu chúng sanh không thành Phật, thì họ cũng nguyện không thành, luôn luôn giữ
được lòng từ bi hỷ xả.
Người đứng ra nhận lãnh lấy quyền năng sứ
mạng của Thầy, mang danh là chức sắc của Hội Thánh thì phải có đức độ như thế
nào? Phải tu giới hạnh làm sao?
Nếu mà còn sân si tật đố, danh lợi thị phi
thì có khác nào chúng sanh đâu. Mà đã chúng sanh thì làm sao cứu độ được chúng
sanh. Khác nào kẻ đui dẫn dắt người mù thì làm sao mà cùng sáng được.
Bây giờ chư hiền nơi đây nên bình tĩnh sáng
suốt mà nhận xét. Người thế nào xứng đáng là bậc hướng đạo, là người của Hội
Thánh? Cái giá phẩm được ta tôn trọng là ở chỗ nào? Ở nơi quyền tước ư? Ở nơi
danh vị ư? Ta nương với pháp đạo để về cùng Thầy, hay nương với con người thị
phi danh lợi? Ta sợ Thầy hay sợ người thế? Ta nương với người quyền thế có thể
về cùng Thầy chăng? Hay là nương với đạo pháp, lo tu luyện để cho tâm mình được
trong sáng đặng hòa hiệp cùng Thầy? Cái gì nên theo? Cái gì nên bỏ?
Con người hiểu được cái đạo vô vi thanh tịnh,
thì dù đem cả vật báu nhiều gấp trăm ngàn thế giới này mà cho mình, bảo phải
đổi lấy cái Đạo thì cũng không thay đổi. Vì dù cho của báu có nhiều, nhưng đó
là vật hữu lậu. Bất quá ta cũng chỉ hưởng được một đời mà thôi. Chứ cái Đạo mà
ta tu đắc ngộ được, thì ta được toại hưởng đời đời, bất sanh bất diệt.
Nếu
của thế gian nầy mà quý thì Đức Thích Ca không lìa ngôi mà bỏ đi tu, chịu bao
sự khổ hạnh. Cũng vì lòng từ bi thương chúng sanh ở trong vòng bất khổ, nguyện
tu để thành Phật quả để đủ oai đức cứu độ chúng sanh. Tất Đạt Đa đã hiện thân
Bồ Tát thấy cảnh sanh, lão, bệnh, tử mà chưa đủ đức độ để cứu, mà phải tu cho
đến ngày đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rồi mới đi độ người. Thế mà
còn có kẻ toan mưu giết hại Phật.
Bây giờ thân tâm ta còn đen tối, quy giới
chưa tinh thông, mà dám lãnh nhiệm vụ cứu thế độ nhân. Ôi! Làm một việc quá
trái ngược với đạo lý như thế, khác nào lấy cái tối mà xua đuổi cái tối, thì
làm sao tối kia hóa ra sáng được. Ngày xưa Đạt Ma đã thành một vị tổ sư, từ Ấn
Độ sang Trung Hoa để truyền đạo, đã hiện thân Bồ Tát. Khi đầu đem đạo pháp
truyền bá cho người, người không nghe mà Ngài phải lên núi xây mặt vào vách đá
chín năm, để cho thật thanh tịnh, mà hoàn toàn giác ngộ rồi mới đi độ người.
Bây giờ chư hiền có mặt nơi đây, cũng như
người ở nhà, đã được Thầy ban phong cho một trọng trách. Đầu Họ cũng như chức
sắc, chức việc, một quyền pháp thiêng liêng để thay Trời mà dìu độ sanh linh.
Nếu không tròn sứ mạng thì rất đắc tội cùng Thầy, mà cũng mất phần cứu độ.
Bần Đạo đã biết cơ đạo trung hưng phải trải
qua cuộc cảo chọn để phân phàm chọn thánh, nên Lão đã ban trao đạo phục mà gởi
gắm tín đồ cho trọn quyền chăn giữ, thì còn ngần ngại gì, lo sợ gì mà không trỗi
dậy đem tất cả sức bình sinh ra mà đảm đương trọng nhiệm. Hay chư hiền sợ phàm
hơn sợ Lão chăng? Sao không sáng suốt để nhận định lấy công việc đạo? Hay là
lòng còn ham chuộng màu sắc thế gian, quyền hành nhơn sự? Sao chư hiền không
nghĩ ta lãnh sứ mạng Thầy để làm gì? Ta tu đây mong được hưởng quyền pháp ở thế
gian hay là tu mong ngày được về Thầy an vui nơi Bồng Lai Tiên Cảnh?
Giữa lúc cơ đạo trung hưng bị tan rã, quyền
pháp của Hội Thánh không còn linh, quyền pháp ấy đã về tay Đầu Họ. Người Đầu Họ
đã được Trời ban trọn quyền hành đạo, trị đạo. Chư hiền gắng tu luyện lấy thân
tâm để xứng đáng một người anh trong họ đạo. Bây giờ chỉ có con đường tu tâm
luyện tánh mới có thể cứu độ được sanh linh giữa cõi đời mạt pháp ma cường.
Nhơn sanh chỉ còn đòi hỏi sự cứu vớt cho họ bằng cái đức độ của người chơn tu.
Một người chơn tu đắc đạo có thể gánh vác tai
nạn cho một nước hay một xứ sở. Không cần phải học nhiều nói giỏi, chỉ cần ở
người có lòng thanh tịnh. Một phút cầu nguyện, vạn nạn đều tiêu.
Ngày xưa các bậc Thánh Nhân trị đời không cần
phải nói nhiều làm giỏi, mà cốt ở thịnh đức mà thôi. Nên Lão Tử đã nói: “Thánh Nhơn
xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo.” ([6]) Lại
nói: “Thức giả Đạo chi họa, ngu chi thủy.” ([7]) Người có học thức cũng là cái họa của Đạo.
Nếu không biết sử dụng cái trí thức, đem trí thức làm lợi khí hay mưu mẹo để
lừa gạt người, thì trí thức là đầu của sự ngu dốt.
Ngày xưa A Nan tu một lần với Phật, chỉ
chuyên lo phần học cho nhiều, nhớ cho giỏi. Khi Phật thành rồi mà A Nan còn là
Thanh Văn, khóc lóc van xin nhờ Phật cứu độ, sau mới được chứng quả La Hán và
làm Tổ thứ hai.
Còn Huệ Năng không biết một chữ, khi gặp Ngũ
Tổ phải xin ở nhờ với tăng chúng trong chùa, chịu cực khổ, chỉ biết có giã gạo,
nấu ăn. Thời gian không đầy một năm mà được truyền y bát. Xem như thế đạo không
cốt ở người học giỏi, nói hay. Nếu học giỏi, nói hay mà kém phần đạo đức thì
hóa ra xảo ngôn, lệnh sắc.
Lão nhận thấy một số đầu họ và chức sắc, chức
việc đã có thiện duyên với nền đạo pháp, trải qua một cơn thử thách để phân
biệt quặng vàng. Mà đã là quặng thì cũng khó mà thành vàng. Mà đã là vàng mã
thì cũng không bao giờ thành quặng được.
Hễ người mà có thiện duyên với chánh pháp thì
dù sớm hay muộn cũng được đắc truyền. Không có thiện duyên thì không bao giờ
nghe được lời nói của chánh pháp. Đã nghe được lời nói của chánh pháp, phát tâm
ưa muốn thì đã được một phần nửa của công việc đắc đạo rồi đó.
Còn người kích bác nền đạo pháp, bậc chơn tu,
tuy là người, nhưng lòng họ đã là ma quỷ rồi đó. Vì người ấy tuy là người,
nhưng họ sống bằng vọng tâm bát thức. Cái chơn tâm tự tánh của họ đã cạn rồi,
bị bao lớp vô minh phiền não che kín. Ta nên thương hại cho họ mà không nên
ghét.
Cái công đức độ một người tu thượng thừa bằng
độ vạn ức người tu nhơn đạo. Một phút thanh tịnh hơn một kiếp làm phước thế
gian. Đó là những bí quyết để cho chư hiền noi theo mà hành đạo, sao cho trúng
với con đường đạo pháp để khỏi sai lầm.
Bây giờ chư hiền nương theo mối dây đạo pháp
mà tu hành để dẫn dắt cho chúng sanh dưới quyền pháp của mình, cùng theo một
mạch sống. Được như thế thì công đức vô lượng vô biên. Không vì một quyền tước
hữu lậu mà lãng xao công việc tu hành là con đường tận cứu.
THI BÀI
Đường tận cứu Thầy Trời đã mở
Chư
Thiên ân khuyên chớ lơ là
Đạo mầu
thanh tịnh mà ra
Đạo mầu
ở chỗ bỏ ta ra ngoài
Đạo không ở hẹp hòi bỏn xẻn
Đạo là
tâm yên lặng thanh cao
Đạo mầu
khuyên chớ lãng xao
Lãng xao
ma quỷ lọt vào chẳng chơi
Người mến đạo thì đời xa lánh
Nẻo lợi
danh phải tránh chớ gần
Gần
người giả nghĩa giả nhân
Thì là
đạo đức tinh thần kém suy
Kém suy rồi thân nguy tâm khổ
Mối đạo
mầu không chỗ dựa nương
Về Trời
ta tự cắt đường
Thì rồi
muôn kiếp tai ương khổ nàn
Chư hiền đã được ban ân tứ
Thì pháp
quyền phải xử cho xong
Công danh thế sự đừng mong
Chỉ mong đạo pháp ở lòng mình thôi
Đạo
pháp lo trau giồi luyện tập
Phải lần phăng từ thấp đến cao
Dù cho khảo đảo không nao
Quyết tâm vì đạo ta nào sợ chi
Hễ
người còn thị phi giành giựt
Thì ta
đây nỗ lực tu hành
Hễ người
đố kỵ ghét ganh
Thì ta
giữ một chữ thành quyết tu
Hằng ngày giữ công phu được trọn
Thì lo
gì không đón hồng ân
Lòng còn
nghi ngại phân vân
Thì là
Trời Phật, Thánh Thần lánh xa
Phật lánh xa thì ma quỷ đáo
Dẫn dắt
người nghiệp báo càng tăng
Đến ngày
ta biết ăn năn
Thân nầy
đã chịu nặng oằn trầm luân
Chư hiền được vui mừng gặp hội
Dây hồng
ân được nối từ đây
Bây giờ
ta phải chung xây
Xây nền
đạo pháp hiệp vầy thiện duyên
Thiệt là một vô biên ân đức
Chư hiền
lo tận lực tiến tinh
Trước
lo tu luyện lấy mình
Sau
lo cứu độ quần linh mới là
Đồng dẫn nhau về Cha một thể
Chớ
trù trừ chậm trễ cơ duyên
Phải
gần những bậc đức hiền
Tách
xa những kẻ gieo duyên không lành
Đạo cốt ở chữ thành, chữ tín
Tín
thành rồi vật kín được trao
Trao
rồi phước quả dồi dào
Của
kia thế giới sánh sao cho bằng
Được Đạo rồi giáng thăng chi khó
Xuất
thần thông muôn ngõ vào ra
Lánh
nơi thế trược ta bà
Ngao
du Thiên Quốc chung hòa chơn không
Từ đây phải tình nồng xây dựng
Nơi
tịnh đường tùy thuận chung lo
Trên
anh hát, dưới em hò
Hòa chung một điệu, nhỏ to cho đều.
Về
công việc hội họp hiện nay ai cũng muốn đi đến chỗ hòa, nhưng hòa được là một
việc rất khó. Khó bởi lòng ham danh chuộng lợi, ham quyền đoạt vị, ngã tướng
dẫy đầy, mạn căn chồng chất. Khi mà tam độc tham sân si nổi lên thì đạo lý đâu
còn nữa. Chỉ mong chư hiền nơi đây cố gắng giữ lấy thái độ quân tử, bình tĩnh
trước mọi việc xảy ra. Hiệp hay không là do Thầy, chớ lòng ta luôn luôn giữ
thanh tịnh. Thanh tịnh không phải là làm thinh không nói, mà nói đúng với lẽ
đạo, với công bình. Nếu hiệp không được thì ta cùng nhau chung lưng sát cánh,
sống trong dây đạo pháp nhờ sự tu hành, có ngày rồi sẽ cảm hóa.
Hội
Thánh yếu hèn thì nhơn sanh phải giác ngộ. Mà người làm đầu nhơn sanh là đầu họ
và chức sắc ở thánh thất. Nếu đầu họ và chức sắc một lòng lo chung, xây nền đạo
pháp tâm truyền và công truyền đi đôi, theo tôn chỉ và mục đích của Đạo Thầy mà
hướng dẫn cho nhơn sinh, thì công việc cải tạo Hội Thánh rất dễ. Một tiếng nói
của đầu họ nếu đúng đạo pháp cũng là một tác động rất lớn.
Từ
nay ta hãy tự lập tự cường để xây dựng cơ đạo, không nên ỷ y vào một thế lực
nào, mà phải học theo lời của Mạnh Tử đã dạy: “Cư thiên hạ chi quảng cư, lập
thiên hạ chi chính vị, hành thiên hạ chi đại đạo; đắc chí, dữ dân do chi; bất
đắc chí, độc hành kỳ đạo; phú quý bất năng dâm; bần tiện bất năng di; oai vũ
bất năng khuất; thử chi vị đại trượng phu.” ([8])
Mọi
việc theo sự chỉ dạy của Lão mà làm theo. Còn công việc bên ngoài, sự tranh
giành quyền thế là lẽ thường. Hễ cá ăn kiến rồi kiến ăn cá. Nhân quả trả vay,
vay trả không sao nói hết được. Ta chỉ lo phần ta cho xong, không cần bận lòng
cho lắm.
(…)
Khi
nào có mặt đủ các đầu họ, Ta sẽ điểm danh.
Chào
chư Thiên ân phận sự.
([4])
Thoán Từ quẻ Cấn. Trong bản dịch Dưỡng
Chơn Tập (bài 42, Chỉ), Nguyễn Minh Thiện giảng: “Để ở (vì đây lấy nghĩa
chữ cấn như chữ chỉ) phía sau lưng mình, thì chẳng đặng (chẳng có) ta; đi nơi trước
sân mình, thì chẳng thấy người (ý nói động tịnh đều chẳng sanh lòng nhơn ngã).”
Trong Dịch Kinh Đại Toàn, Hạ Kinh, quẻ 52,
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ dịch: Cấn là dừng
lại sau lưng / Dừng nơi chí thiện, quên thân, quên người / Bản thân mà đã quên
rồi / Trong sân đi lại, quên người lỗi chi. Nhân Tử giảng giải: “Trong con
người, mọi bộ phận đều động, duy cái lưng thường bất động. Động thường hay làm
ác. Tĩnh thì mới chí thiện; cho nên nói: Cấn
kỳ bối, là muốn nói: Chỉ ư chí thiện.
Do lòng tư dục, con người mới phân nhân, ngã. Dẹp được lòng tư dục rồi, thời
chỉ thấy Thiên lý, thấy đạo lý, không còn phân nhân, ngã nữa. Thế chính là bất hoạch kỳ thân, hành kỳ đình, bất kiến kỳ
nhân vậy.”
([8]) Ở
chỗ rộng rãi trong thiên hạ, đứng ở vị trí chân chính trong thiên hạ, đi trên
con đường lớn trong thiên hạ; đắc chí thì cùng với dân noi theo đạo; không đắc
chí thì một mình hành đạo; giàu sang chẳng phóng đãng; nghèo hèn chẳng đổi lòng;
cường quyền không thể khuất phục; vậy mới gọi là đại trượng phu. (Mạnh Tử, Đằng Văn Công, Hạ, 2.)
PHẠM VĂN LIÊM