Hà Nội: Nhà xuất bản TÔN
GIÁO, 2016
BẢY
Qua khóa tu tịnh mười tám ngày của Lễ Sanh Đầu Họ, các hướng đạo cảm thấy
con đường đi tới của Hội Thánh còn đòi hỏi rất nhiều về sự tuân thủ thánh ý.
Mỗi chức sắc phải quyết tâm đặt mình vào khuôn viên ân điển giáo dưỡng của các Đấng
thiêng liêng.
Sức thánh quá uy linh mà lòng người chưa dung nạp. Cả học, hiểu, hành đều
chưa tương ưng. Những xuyến xao phẩm tước, chức quyền còn chi phối. Những điểm
công, điểm danh còn gây so đo, mơ vọng, mong cầu. Những phương tiện tu học,
hành trì còn lờn dể, luận bàn, ngờ vực. Nhưng có lẽ thời kỳ chỉnh lập nằm trong
kế hoạch khai vỡ “quảng canh” rồi sẽ tiến đến “thâm canh” nên Ơn Trên ban lịnh
cho mở tiếp khóa Lễ Sanh tân tuyển vào ngày 08-5 Đinh Dậu (Thứ Tư 05-6-1957).
Mặc dù có nhiều trở ngại tất nhiên của một Hội Thánh còn quá mới với những
hạn chế về nhân sự, phương tiện thiếu thốn, hoàn cảnh khắc nghiệt của khí hậu
mùa hạ miền Trung, nhưng khóa tu học Lễ Sanh tân tuyển vẫn được Hội Thánh tổ
chức. Những kỳ đàn vẫn tiếp tục thiết lập để đón nhận giáo pháp của Ơn Trên.
Đàn Tý
thời ngày 02-5 Đinh Dậu (Thứ Năm 30-5-1957), Đức Chí Tôn giáng dạy:
THẦY
CÁC CON.
Thầy mừng các con. Thầy miễn
lễ. Các con an vị.
Ngọc cao đáng giá mới truyền trao
Hoàng Phụ hằng trông những trẻ nào
Thượng đạt những tay chờ sứ mạng
Đế thành Giáo Hội mở tân trào.
Hôm ấy Thầy dạy rằng trong buổi hạ nguơn mạt tận, chính mình
Thầy đến nước Nam nầy lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Thầy chọn Việt Nam làm thánh
địa khai giáo pháp, độ tàn linh, hòa sự sống trên muôn vạn pháp môn cho các
giáo lý ngày xưa được chấn hưng tươi nhuận, để đưa nhân sinh trở về lẽ thật.
Thầy đã chọn một số môn sinh trao phần chánh pháp chơn truyền và lập thành Giáo
Hội. Nhưng rồi thánh thể của Thầy chưa được nơi nào đắp nên theo khuôn quyền
pháp. Khi chưa được quyền pháp thì lòng mong vọng tin tưởng vững vàng, nhưng
khi được còi gậy trao tay thì mặc ý tung hoành, làm cho danh đạo mờ lu, pháp
quyền mất linh, vô hiệu. Sự phân chia chi phái đã làm rối loạn quyền pháp, Giáo
Hội mất sự thương yêu, nhân sanh bị cản đường sinh lộ.
Nay tại
miền Trung, Thầy gắn sứ mạng Trung Hưng cho Hội Thánh Truyền Giáo. Đó là một
danh dự hơn các chi phái trong nội bộ Cao Đài, mà một số Thiên ân chưa chịu
nhẫn nhục, chưa vượt khó khăn, lòng chưa tinh tấn, ý chưa thoát ma dục quỷ tình
nên bước đạo còn chậm chạp trễ nải. Thầy dạy:
Hôm nay còn có mấy mươi ngày
lo hoàn thành Chỉnh Cơ, mà công
việc kiểm qua mới chừng non nửa. Làm sao đây con?
Sức con có đương được nữa
không? Nếu bước qua giai đoạn Trung Hưng hành đạo, trị đạo là ngày Khai Cơ Giáo
Pháp. Các con có đủ sức để quyền đạo khỏi bị yếu lướt đi không? pháp đạo bị lu
mờ đi không? Bằng các con không
làm được thì cầu xin Tam Giáo ban cho một pháp môn thánh vệ vừa sức vừa tầm.
Chứ ngày nay cơ đạo chính thức tuyên dương mà các con bước vào nẻo tối đen như
các phái kia. Xe trước đổ, xe sau không đề phòng cũng đổ nốt thì tai tiếng
chừng bao! Các con hôm nay cũng mục kích rõ ràng cái danh phận của Thầy, vì đâu
mà làm cho mười phương phải nhảm nhí khinh thường rẻ rúng, thân hình của Đạo bị
đưa ra trước công chúng để nghị tội phân chia khổ hình.
Các con buồn không? nhục
không? thương tủi không? Đứa gây nên cam chịu đã đành, mà còn để cho mọi người
chịu chung trong tương quan quả báo.
Các con buồn lắm nhỉ? Biết
buồn thì chắc ngày mai đâu dám nghịch trái lòng Thầy. Nhưng các con quan niệm
hẹp hòi. Các con nghịch chống nhau chính là chống nghịch Thầy đó con.
Hôm nay Thầy đến cho biết,
Thầy đối với các con lòng yêu thương tràn ngập, lúc nào cũng trôi chảy nhuần
thắm thân hình của mỗi đứa, nhưng vì các con vô minh, tự tách rời ra ngoài sự
sống ấy. Các con biết rằng vạn vật không có một giây phút nào xa lìa Thầy mà
còn. Dù nhỏ như côn trùng Thầy cũng còn chu tất, thì đối với các con là người
chịu mạng Thầy đến đây lẽ nào không ân cần dạy bảo.
Con nên đề phòng, hễ trọng
quyền ắt trọng phạt. Luật Thiên điều
bởi Tam Giáo, mà Tân Luật ở nơi con. Con lập ra, con dâng lên là con hứa
hẹn với lòng mình. Trái luật Đạo là trái lời nguyền, tự con cắt dây trói lấy
mình chịu tội. Thầy nỡ nào trông thấy cái khổ của con, lúc nào cũng muốn uống
cạn chén đau thương cho đời để các con vui nhàn tươi tỉnh, sống ở cạnh Thầy.
Các con tỉnh đi! Đừng xúc phạm đến Thầy mà chịu Thiên Thần quở trách.
Các con giác ngộ đi! Cái chức cái quyền Thầy đã giao hoặc chưa giao, hay giao
tùy khả năng mà đặc trách. Thầy biết trước việc con ngày mai. Thầy biết trước
còn bao nhiêu kiếp nữa. Thầy gắn cho Lễ Sanh hay Giáo Hữu là cái pháp để con
nương đây lập quyền. Nếu con chưa xứng bậc trên mà đặt vào phẩm trọng thì
đó là làm nhục hổ cho con. Quỷ ma thấy không xứng công đáng hạnh, nó bèn xô
xuống mà còn làm cho con bị đọa. Vì lời nói người có sứ mạng chưa đủ uy đức cảm
người, mà còn làm cho người lờn dể là hại đến danh Đạo, phải tổn đức bình sanh,
thì Thầy đến đây đem sự đau khổ ân hận cho con, chớ phải thương con đâu.
Vì vậy lúc ban phong Thầy rất
cẩn thận, bằng lòng thương và lòng cứu độ. Các con đừng nói Thầy không xét và
không minh. Phẩm vị Thiên phong nơi Hội Thánh Trung Hưng là Hội Thánh quyền
pháp, phải cân đo đúng mức để xứng với cái tên. Không phải quyền pháp như các chi
kia muốn sao cũng được. Vì sao lạ vậy? Vì nơi nầy gọi là sứ vụ Trung Hưng, còn nơi khác là ban ân khuyến lệ.
Vậy các con bàn tính kỹ lại.
Bây giờ sẽ gần ngày Khai Cơ Giáo Pháp là ngày mà các con bước lên một đoạn đường
mới lạ, từ xưa chưa ai hề biết. Mới,
nên con chưa quen; lạ, nên con ngờ vực. Nếu không lạ thì sao có pháp
Trung Hưng? Nếu không mới thì làm sao Khai Cơ Truyền Giáo?
Vì vậy lúc đến nơi vào khoảng
đường xa con cũng vui, con cũng buồn. Vui buồn lẫn lộn đó con! Nên bước vào là
đầu truông của cơ thử thách. Con nào con nấy cứ đọc thuộc nơi miệng: Mai đây ta
được thử thách, cũng như mai đây vàng tốt của ta vào lửa để tỏ rõ sức dẻo dai
cứng cát của tuổi vàng. Hân hạnh để định giá cao thấp, không ai nói đồng xi,
thau mạ.
Vậy các con muốn ra lịnh Khai
Cơ Giáo Pháp chưa? Còn việc 15 tháng 6 ([1]) ngưng cơ, nếu con chậm tính thì hỏng cả bao nhiêu việc.
Thầy hôm nay đến không ra
lịnh nữa, vì đã dạy nhiều rồi. Nếu nhắc đi nhắc lại nhiều lần làm cho Thần
Thánh bắt tội lờn dể không tuân. Nên Thầy đến, ít khi nhắc chuyện rồi, vì
thương con đó. Thầy đã lo các con phạm tội khinh lờn nên cho mỗi cơ quan một đứa làm sứ vụ là TRÁC, CHẤT, KHAI, CHÍ,
HƯƠNG, PHỤNG, DOÃN CƠ. Các con phải gần gũi liên lạc mà biết việc.
Việc cầu phong, cũng như Thầy
định phong một số. Nhưng còn chờ Tam Giáo và Diêu Cung. Các con yên đợi.
Việc phân công hành chánh thì
Giáo Sư ở Hội Thánh nầy là tạm quyền
cao cấp Thượng Hội hay Phối Sư cấp ấy thì ở tại Hội Thánh, chỉ
huy lãnh đạo, còn đều ra ngoài hành chánh cả.
Nơi đây ít người không nên
chấp. Hễ Giáo Sư lãnh đạo thì Giáo Hữu đầu phòng. Mà lấy người tâm đức dâng sớ
cầu nhiệm chức.
Thầy ban ơn các con.
Qua đàn cơ nầy Đức Chí Tôn cho biết rõ các tiền bối khai đạo
miền Trung đã quy thiên đắc quả vị thiêng liêng đứng trong hàng Thiên Đồ Trung
Bảo, đã được đặt để vào mỗi cơ quan mỗi vị làm sứ vụ phần vô hình:
- Đức LIỄU TÂM CHƠN NHƠN (Huỳnh Ngọc Trác) lo về cơ quan Phước Thiện.
- Đức HỘ ĐẠO THIÊN QUÂN (Trần Nguyên Chất) lo về cơ quan Hành Chánh.
- Đức CHƠN KHAI (Nguyễn Quang Châu) lo về cơ quan Phổ Tế.
- Đức TIẾP VĂN PHÁP QUÂN (Cao Hữu Chí) lo về chi Pháp.
- Đức LIÊN HƯƠNG (Trần Thảnh Thơi) lo về chi Đạo.
- Đức BẠCH PHỤNG (Lê Văn Phụng) lo về chi Thế.
- Đức BẢO THỌ (Trần Doãn Cơ) lo về nữ phái.
Còn gì hân hoan cho bằng! Các chức sắc Hội Thánh cảm nhận được ý nghĩa của lời
người xưa: Mất vẫn như còn.([2]) Các tiên
huynh cũng chỉ mới đó thôi, mới cùng chung lao nhọc trong nẻo đạo, khổ hình ngoài
bước đời; nay từ
cõi hư linh các vị được
ơn Thầy trở lại với Hội
Thánh trong sứ vụ Thiên Đồ Trung Bảo để sẻ chia, chăm chút cho sự nghiệp Trung Hưng.
Các chức sắc Hội Thánh thật vô cùng phấn khích, lấy đó làm phương châm thúc
đẩy một số đồng sự vượt thoát ách nạn tối tăm của tình thức phàm phu, bụng dạ
so đo quyền danh hành pháp, bảo pháp. Tất cả cùng nhau đón lấy ân đức vi diệu
thiêng liêng chăm lo khóa tịnh tân Lễ Sanh. Tuy vậy khóa tu tịnh nầy hãy còn
nhiều thiếu sót, nhất là việc dễ dãi tiếp nhận số tịnh viên chưa tròn xứng.
Vào giờ
Tý ngày 08-5 Đinh Dậu (Thứ Tư 05-6-1957), Hội Thánh dâng sớ khai mạc khóa tu
tịnh cho Lễ Sanh tân tuyển. Sau đó đàn cơ được thiết lập, Đức Cao Hữu Chí giáng
dạy:
Giờ nầy được tiếp sớ, Bản
Quân đã dâng lên cho Ngô Tôn Sư. Ngài cho phép Bản Quân đến đây ra lịnh toàn
tịnh viên và ban giám thị được biết đợt tịnh nầy còn thiếu nhiều điều kiện nên
Cao Tiên không ngự bút.
Một điều là ban giám thị nhà
tịnh đã trải qua ba bốn đợt rồi sao chưa tôn trọng quyền pháp của mình, để cho
phiền đến Thiêng Liêng, mà tịnh viên cũng sinh lòng lờn dể. Kỳ đại xá nơi Trung
Hưng lập pháp mới vừa đón lấy cơ duyên phước huệ của Thầy chớ không phải lầm
hiểu như phàm phu khẩu khuyết trao đặt vào đâu cũng được.
(…) Bản Quân không đồng ý
thuận nhận những tịnh viên chưa trọn tin, tròn vẹn quy giới.
Vậy thì quyền pháp của Giáo
Hội còn rẻ rúng lắm sao? Pháp đạo không bán không nài. Nếu coi như vật hàng hóa
thì mong gì thành đạo! Người tu mà có nguyện để cầu giải thoát cứu độ quần dân
thì người ấy là người giác ngộ. Người giác ngộ thì giờ phút nào cũng thiết tha
thèm khát pháp môn tu học như đói muốn ăn, khát ưng uống, dù khó nhọc cũng tìm. Người yêu chân lý đạo đức là
người quên thân giẫm đùa qua bao nhiêu chướng ngại mà không hề thấy đó là khó
nhọc, cũng ví như gà say ấp, chó yêu con. Có người đó mới vui mà truyền cho bí
quyết.
Hôm nay chư hiền về đây nhập
tịnh, Bản Quân thành tâm giúp đỡ mọi mặt nơi đàn. Nhưng các hiền gia công phát
nguyện gấp lên thì bí quyết mới là chí bửu. Nếu lòng chưa thanh tịnh, thân còn
ô trược, làm sao tiếp đón hồng ân, gội nhuần phước huệ. Nếu còn mê vọng, khó
lánh chơn ra khỏi mê đồ. Hồi đầu là bờ giác, thoát thân nơi bể khổ. Vậy nhớ là
lo cầu nguyện. Nếu đợt nầy không có lịnh Đức Tôn Sư thì lấy làm bạc hạnh lắm!
Ráng cầu nguyện để Người xá cái lỗi phạm thượng khi mạng pháp môn.
Lời dạy của Đức Cao Tiếp Văn gây sức bật mạnh mẽ từ ban giám thị đến các
tịnh viên. Ai ai cũng lập tức trở về khép mình trong nguyện hạnh để mong ơn Đức
Tôn Sư giáng bút chủ trì huấn đạo.
Hai hôm sau, Tý
thời ngày 10-5 Đinh Dậu (Thứ Sáu 07-6-1957), Đức Ngô Tôn Sư
lâm đàn tỏ sự vui mừng nhận được lòng phát nguyện của các Lễ Sanh vào
tịnh.
Đức Ngô cảnh tỉnh rằng quyền pháp rất tối hệ cho chúng sinh. Quyền pháp
được xương minh thì hoàn cầu mới được thái hòa an tịnh. Nếu quyền pháp bị lu mờ
thì cảnh cảnh hóa tương tranh, dân dân thành khổ nạn. Bởi thế nên Thầy mở Tam
Kỳ Phổ Độ là để xương minh quyền pháp mà cứu độ vạn linh.
Muốn tạo một năng lực tốt đẹp để xứng với quyền pháp thì không phương nào
hơn là bước vào nhà tịnh. Nhà tịnh là nơi Thầy lập để bổ khuyết cho tịnh viên
trên bước đạo.
Đức Tôn
Sư cho biết khóa tịnh nầy y như khóa của Đầu Họ Đạo trước. Đồng thời Đức Ngô
nhắc nhở ban giám thị phải rút kinh nghiệm từ các khóa vừa rồi để khóa nầy được
tốt hơn. Đức Ngô dặn dò:
Chư đồ đệ nhập tịnh từ đây
phải giữ tròn lời nguyện trước Thầy và Phật Tiên, Thánh Thần. Nếu đi ngoài chơn
truyền, làm điều phản Đạo thì ngày sau đừng oán trách rằng Thầy không mở đức từ
bi.
(…)
Đem đạo y để chuỗi châu vào
giữa.
Ban trao quyền pháp độ toàn
dân
Chư vị ráng tu hiệp khí thần
Để luyện tâm hồn theo cõi Thánh
Thanh chơn, biện trược thoát ly trần.
Thôi, ban giám thị vui lên mà
lập công cho khóa tịnh. Nếu nhà tịnh có người đắc pháp là ta đắc pháp.
Ráng hiểu.
Để phủi sạch bớt bụi phàm phu của những tân Lễ Sanh nầy,
Ơn Trên đã nhấn một chút về nghệ thuật giáo hóa cho hàng đẳng vừa được tuyển trạch
nhằm gây ý thức thực tu, thực học trên đường cầu đạt thánh ân hầu nên trang hữu
dụng.
Thấm
thía lời dạy của Đức Cao Hữu Chí (Nếu đợt nầy không có lịnh Đức Tôn Sư thì
lấy làm bạc hạnh lắm! Ráng cầu nguyện để Người xá cái lỗi phạm thượng khi mạng
pháp môn), và lời phủ dụ của Đức Ngô Tôn Sư (Thôi, ban giám thị vui lên
mà lập công cho khóa tịnh. Nếu nhà tịnh
có người đắc pháp là ta đắc pháp. Ráng hiểu.) ban giám thị và các tịnh viên thực sự nhận thức được
chỗ tâm yếu của khóa tu tịnh nên đã cố gắng chỉnh đốn, bổ sung mọi thiếu sót, khép
mình trong giới hạnh.
Năm ngày
sau, Đức Thái Bạch Kim Tinh giáng dạy:
Thái bình nhờ ở phước tầm tu
Bạch hắc chia ra khỏi lẫn mù
Kim thạch dặn ai lòng giữ vững
Tinh minh chiếu diệu rỡ đêm thâu.
Đức Thái Bạch Kim Tinh dạy rằng qua hai năm, cố gắng của
toàn đạo để tiến vào ngày Giáo Hội đón hồng ân Khai Cơ Giáo Pháp khả dĩ tốt đẹp,
nhưng vẫn chưa viên mãn bởi vì còn thiếu chí thành nên quả ngon còn có “đôi
chút eo nần không đẹp lắm”.
Đức Thái Bạch ra lệnh Hội Thánh cần ôn lại các lời giáo hóa châu ngọc của
kỳ chỉnh pháp làm phương châm tu học và đúc kết thành tích kể từ ngày Ơn Trên hạ
lịnh Chỉnh Cơ,([3]) rồi đệ trình Tam Giáo xét duyệt,
ban ơn mở đường giáo hóa. Vì quả đạo chưa hoàn toàn (còn eo nần) nên Hội Thánh
cần sám hối để giảm bớt tai nạn. Nghĩa là pháp Khai Cơ Tận Độ là pháp vô lậu
hoàn toàn, nếu niệm chưa lành là còn hữu lậu. Đức Thái Bạch ra lệnh toàn
đạo dọn mình đón lấy phước huệ của Thầy mở cửa rước ơn lành của năm thánh đức Khai
Cơ Giáo Pháp.
Đức Thái
Bạch cho thiết lập hai họ đạo và ban hai hiệu thất là Trung Kiên và Trung Quang
Bình. Ngài chấp chuẩn cho một số giáo phẩm Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài và nữ
phái. Ngài lại cho đợt tịnh Tứ Tượng tái tục vào ngày 01-6 Đinh Dậu (Thứ Sáu
28-6-1957) để các Đầu Họ chưa nhập đợt trước được vào thọ tu. Đức Thái Bạch
dạy:
Ngày xuất tịnh sẽ chấp bút
điểm danh. Chư đệ hết tháng này lập cơ đàn điểm phong dưới một trăm vị.
Đàn Tý
thời ngày 17-5 Đinh Dậu (Thứ Sáu 14-6-1957) Đức Quan Âm giáng dạy:
Bần Đạo chào chư Thiên ân.
Giờ nầy Bần Đạo ghé lại để
lời dạy chư Thiên Ân từ nay nên thận trọng, tôn lấy quyền pháp. Đừng thấy từ bi
mà dễ lòng xa nguồn thánh đức.
Bần Đạo mừng cho thánh quyền
hôm nay đã lai phục chơn khí nhứt dương, nên máy Thiên cơ cũng do đó mà chìu
theo lòng người thiện duyên. Nếu Hội Thánh đều được nhứt thành thì tai nạn ngày
mai cũng lần lần giảm xuống cho nhân lọai. Tiếc vì trong Hội Thánh số Thiên ân
chưa mấy lăm, nhưng tâm đầu ý hiệp coi lại ít người. Nếu không có một quyền
năng thì ân đức của giáo quyền cũng khó mong cảm hóa, mở đường tận độ.
Công việc làm có nề nếp, trên
dưới đồng tình, mỗi mỗi cá nhân đều vui thích lập công, nặng nhẹ cùng nhau chia
sớt thì lo gì không được.
Hội Thánh hàng Thiên ân kể ra
cũng gần ngót trăm người thì việc làm cũng trong ngoài số đó, đều nhau mỗi
người mỗi tay, dù nặng nhọc khó khăn cũng hóa thành khỏe thích. Lớn lao là lấp
bể dời non mà chuyện xưa còn nhắc. Không nói chuyện ấy có không mà nói lòng quả
quyết như chuyện Ngu Công cùng chim Tinh Vệ.
Chư hiền ra đời gặp lúc, làm
việc trúng thời. Đường có tối tăm, đuốc thiêng liêng soi dẫn, lo gì ngại gì mà
chẳng quyết tâm. Mặc lòng trước mắt có nhiều hố sâu truông rậm, cùng nhau lập
thế vượt qua. Cái khó là pháp thử lòng. Việc làm có vui, dù khó nhọc đến đâu
cũng coi thường mà quên mỏi mệt.
Hôm nay ngày hồng ân đã đến,
chỉ còn chờ lòng chí thành của bao nhiệu Thiên mạng phới lên. Nước cứu thế đã
phát nguồn từ núi xanh đổ xuống khắp ngõ ruộng đồng. Đâu có những con lạch,
mương thì lấn mình chen tới.
Vậy điển huệ từ bi bủa khắp,
nhưng còn chờ lòng tin để làm lối đi vào. Các hiền đã dọn mình chưa? Mở lòng
tiếp nguồn thánh huệ chưa?
Hôm nay việc sắp xếp cơ quan như thế cũng đã có mòi thịnh
vượng thì việc làm, việc tính đều được có Thầy soi dẫn. Các hiền tin đi
để chia nhau làm xong mọi việc. Mặc dầu kẻ còn nghịch ngợm cũng còn uốn nắn lần
hồi. Nếu người biết việc chịu đảm đương, thời yên tâm làm tròn sứ vụ.
Ngày gần đây có bộ phận hành
chánh thanh tịnh mà làm những việc theo nội quy ấn định. Để Liên Hoa vào tịnh bảy ngày. Còn khóa
Lễ Sanh cứ đường thẳng tiến lên.
Phương pháp tu kỷ luyện tâm trước ở Tứ Bửu làm nòng, sau ở chí thành làm cốt. Còn những vị nào chưa có pháp
thì yên tịnh mà chờ Cao Tiên. Người nay mai sẽ đến.
Đừng nghĩ kẻ chưa gọi là bỏ
đi. Tất cả không một mảy hào Thiêng Liêng không soi chiếu. Cũng đừng tưởng
người được bước đi xa mấy dặm rồi mà người sau không kịp. Biết đâu kẻ được cho
đi trước là kẻ yếu sức trên khoảng đường trường. Kẻ ở lại sau cũng chẳng hiểu
mình đi bằng lối nào cho kịp. Việc ấy có chỗ sắp đặt, không phải là phận sự của
mình. Nếu vội vàng trách móc, đòi hỏi vô trách nhiệm thì tội lỗi chồng cao hóa người nghịch mạng.
Việc nhập tịnh của khóa Tứ
Tượng bắt đầu từ 01 tháng 6 đến cuối ngày 12 tháng 6 là xuất tịnh.([4])
Bảy ngày nữa dành riêng cho kỳ mật phòng. Chờ lệnh. Ngày
ấy sẽ có danh sách.
Còn mọi việc đã dạy rồi. Nếu
lúc nào cần lắm thì Hội Thánh cử người đến Hiệp Thiên Đài cầu dạy. Phải theo
nguyên tắc pháp luật lần lần đặng tôn quyền trọng pháp để được cảm động mà tiếp
lấy hồng ân.
Thôi Bần Đạo chào chư hiền.
Đàn ngày 20-5 Đinh Dậu (Thứ Hai 17-6-1957), Đức Ngô dạy rằng Hội Thánh đã
vào giai đoạn khảo thí nên Hội Thánh phải luôn luôn cầu nguyện để oan nghiệt
giảm, phước huệ tăng. Đức Ngô bảo rằng các Thiên ân chức sắc đã làm chơn truyền
bí pháp trở nên hữu lậu, Hội Thánh phải ra chỉ thị cẩn mật, nếu không thì pháp
sẽ bị thâu lại. Đồng thời Đức Ngô cho đồng tử Liên Hoa phải vào mật thất tịnh bảy
ngày, bắt đầu từ giờ Tý ngày 21-5 Đinh Dậu (Thứ Ba 18-6-1957).
Đồng tử
Liên Hoa đã chấp hành vào mật thất theo một nội quy kỷ luật nghiêm ngặt. Tiền
bối vừa ra tịnh một hôm, Hội Thánh liền lập đàn vào giờ Hợi ngày 30-5 1957 (Thứ
Năm 27-6-1957) để khai mạc đợt tịnh Tứ Tượng tiếp theo dành cho Đầu Họ Đạo. Đức
Ngô giáng dạy:
Ngô ân thánh huệ mở đường siêu
Minh bạch chỉ phân rõ mọi điều
Chiêu dụ nhơn duyên vào cửa đạo
Giáng thăng cơ Tạo bước tiêu diêu.
Bần Đạo chào chư Thiên ân,
chư đồ đệ cùng toàn thể đạo tâm.
Giờ nầy Bần Đạo đến gặp chư
hiền đồ với những lời hứa hẹn để tròn câu sứ mạng giữa thầy trò. Đã nói thầy
trò là đã tỏ được cái bổn phận giữa người thọ pháp phải được như thế nào để tỏ
ra mình là môn nhân trung trinh vì đạo nghĩa. Người truyền tất nhiên phải có
bổn phận điều độ cho đến nơi thành chánh đẳng chánh giác.
Muốn được hàng môn đệ của
thầy đã giao phó cho, thì người truyền pháp không phải là chủ đối khách, mà là
thầy đối với trò, uốn nắn trò trở nên người đạo hạnh, cải
tạo tánh cong vẹo lại ngay thẳng, lòng đen tối nên sáng suốt, hư hèn hóa được
tài năng. Vì vậy Bần Đạo đây có nhiệm vụ đối với các hiền đồ, phải trông coi
từng cử động, lời nói, ý nghĩ, việc làm, còn xây dựng dung dáng ra vào đoan
chính.
Bởi thế các hiền đồ thọ pháp
nơi Bần Đạo được lịnh trong mùa nhập tịnh nửa chừng lại cho ra hành đạo thực
tập. Hôm nay trở về phục lịnh và báo trình sứ vụ hành công để thầy rõ lúc gần
thầy, lúc xa bạn nó tạo thêm cho các
hiền đồ được những gì.
Bây giờ là giờ phút giữa ta
và các người bình tĩnh đánh giá bảng công hạnh. Với lòng
mình, mà các hiền đồ cũng đã tự khuất, thì với Bần Đạo lại là sao? Nói thế
không phải khắc bạc đối với các hiền đồ. Muốn làm Tiên phải theo pháp đạo. Muốn
làm người đệ tử là trăm khó nghìn khăn. Nếu theo thường tình thì sự làm sao nên
được gì.
Bần Đạo có bổn phận, các hiền
đồ cũng phải hết lòng hết bổn phận. Nếu mực thẳng
sợ đau lòng cây cong, làm sao rã ra thành miếng gỗ ngay thẳng. Từ đây Bần Đạo
nói trước, trò nào không chịu đựng được với pháp môn khổ hạnh thì khó theo Già.
Nếu cần thương thì chỉ cho con đường dễ hơn là con đường tịnh độ. Cười…
Tóm lại các hiền đồ khi xa Ta
đã quên bao lời hứa. Đã nhiều lần căn dặn đạo cao ma cao. Một vật đã chịu sự
rèn tạo thì vật ấy đã thành cái gì rồi, không thể đem làm vật khác.
Hôm nay mười hai ngày vào tịnh để hoàn thành nhiệm vụ của giai đoạn Chỉnh Cơ. Bần Đạo khuyên gắng khép
mình vào khổ hạnh mà cầu cho được thanh tịnh tâm thân đặng đón lấy hồng ân thất
nhựt mật truyền bí pháp. Sau đó chờ lịnh nhập tịnh mười tháng liên tiếp. Chư
hiền để lòng chuẩn bị.
Nói thế nhưng cũng còn lâu,
đợi qua kỳ thánh ân giáo pháp. Giờ nầy bái mạng Chí
Tôn rồi ôn lại cái pháp Tứ Tượng đốn tâm. Sau ba ngày sẽ luyện Lôi Công Chơn
Khuyết đặng hoàn thành Tứ Bửu. Mãn kỳ xuất tịnh chờ có lệnh sẽ đến một nơi nào mà thọ mạng. Nếu
chưa thì giữ y bốn buổi công trình không vọng động.
Đàn tạm nghỉ trong chốc lát, rồi tái cầu vào giờ Tý ngày 01-6 Đinh Dậu (Thứ
Sáu 28-6-1957). Đức Thái Bạch Kim Tinh vâng chỉ Thầy giáng lâm, ban phong chức
phẩm “cho những đạo tâm để Hội Thánh đủ vai gánh vác quyền pháp, mở đường tận
độ tàn linh và cũng dìu dắt bước tu cho những đạo tâm được ghi tên vào bộ hồng
ân đặng quý đạo hữu ấy nương lấy quyền pháp mà mạnh bước trên đường lập công tu
học.”
Đức Thái Bạch dạy rằng việc ban phong kỳ nầy là do lòng cầu nguyện của Hội
Thánh và sự cân nhắc của nhơn sanh. Tuy chưa được hoàn toàn nhưng xét vì cơ
giáo pháp được rộng ban nên những người có lòng quyết vì Thầy vì Đạo phải có
nơi nương bước tiến lên. Đức Chí Tôn đã nhắm vào Hội Thánh Truyền Giáo gầy dựng
vây cánh tay chân, tạo nấc thang cho những bậc tâm trường được vin đó mà lên.
Nhờ đó có dịp gần Hội Thánh, thân cận cùng nhân sinh, gieo rải tình thiêng
liêng, học hỏi và giúp người làm nên ngôi vị.
Đức Thái
Bạch nhắc nhở:
Đây, Bần Đạo cũng nói cho Hội
Thánh được biết để sau nầy có phương dìu dắt. Mặc dù là Thiên ân quyền pháp,
nhưng người khi đã có quyền pháp nơi tay rồi cũng dễ dàng cho họ làm hư danh
Đạo, chống chế cùng Hội Thánh và nhơn sanh. Họ có thể lợi dụng quyền pháp mà
chia xẻ thân hình Đại Đạo nhiều mảnh nhỏ to. Họ vì quyền pháp mà tranh giành
ngôi vị, làm xáo trộn trật tự Thiên điều. Cũng bởi quyền pháp mà họ gây thân
thế đủ cánh vây, xúi nhau giục loạn.
Quyền pháp là ngọn kiếm linh
thiêng trao cho người để người nhờ nó mà đoạn cắt nghiệp duyên tội ác, oan oan
tương báo nhiều đời và cũng thị uy sức mạnh tinh thần chống chọi với yêu ma
cảnh giới ngăn đường chận ngõ.
Lưỡi gươm minh triết là báu
vật vô giá để chiến đấu, chiến thắng bao nhiêu ý tình trong danh sắc nơi ngoài,
đốn phát bụi rừng, hạ cây chặt gốc, mở một con đường đi tới cho toàn linh, phóng
một lối đường qua gai gốc để tìm về hạnh phúc.
Gươm linh công dụng nhiều
cách, cuối cùng là cứu mình, cứu đời giải thoát. Trái lại, ngọn kiếm lợi hại
kia ở kẻ ác tâm mê vọng có thể giết người phá Đạo một cách dễ dàng. Người quyền
pháp có, mà tâm hồn quyền pháp không có, là nguy hiểm.
Kẻ cầm quyền pháp mà đen tối
như thế, không phải Thầy trao quyền pháp cho đứa điên cuồng. Vì hiện nay nó có
nguyện cầu tiến, thì lòng từ bi vẫn cho. Nhưng khi phản lại là việc khác. Mà
cũng có vậy mới phân tà biện chánh.
Các hiền nghĩ thử coi, dọn
một đám ruộng, lúc cày bừa người nông phu họ bòn nhặt từ lóng cỏ. Đất nhuyễn,
ruộng thục mới gieo giống xuống, chớ có ai gieo gì cỏ ráy. Nhưng giống lúc mọc
lên thì cỏ ráy cũng trồi theo, có khi vươn lên trước và lấn áp tất cả lúa non.
Mặc dù nó có nhiều đến bao nhiêu đi nữa, người chủ ruộng họ phải đôn đốc nhổ đi,
dập xuống cho kỳ được để cứu giống lành. Khi lúa nếp mạnh sức đơm vàng thì ai
lại không sung sướng xúm nhau gặt hái về coi quý cất đặt, còn cỏ ráy thì bị
trục lên ném vào đống lửa.
Việc rõ ràng lắm rồi. Có Phật
có ma, có người đi lên cũng có người đi xuống. Người nghịch lại với quyền pháp
là do lòng thiếu tinh tấn, nặng lợi quyền, nên mở cửa trước cho quỷ vương thừa
kế nhập thành, gây nên đen tối.
Chư hiền khá cẩn thận mà ráng
lo gìn giữ để khỏi trái nghịch lòng Thầy mà thân danh bị nhục, kiếp kiếp đọa
vào các nẻo vô minh. Thầy bao giờ cũng thương mà hằng lo cứu độ. Người Thiên ân
nên thể theo lòng Thầy mà tu học lập công.
Trong phần
thánh giáo tiếp theo, Đức Thái Bạch ban cho một trăm năm mươi hai câu thơ song
thất lục bát điểm nhuận ba mươi tịnh viên, tất cả đều thuộc phái Ngọc.
Hai hôm
sau Đức Quan Âm Bồ Tát lâm đàn duyệt bản cầu phong cho nữ phái gồm ba Giáo Hữu
và mười hai Lễ Sanh. Đồng thời, Ngài ban đạo phù Lôi Công cho khóa Tứ Tượng
(phù nầy mật truyền).
Đàn tái cầu, Đức Thái Bạch dạy:
Chào chư hiền đệ. Giờ nầy Bần
Đạo đến ban thêm những vị lên Quyền Giáo Hữu để đủ người hành đạo: THIÊN, THANH, KỲ, ĐÁNG, CHÂU. Còn sẽ dạy sau.
SINH, xét vì có công nghiệp
trong thời kỳ xây dựng, Bần Đạo cầu lên Thừa Quân xử lý hành chánh. CÁN thay
thế SINH [Truyền Trạng]. TÂM sung vào ghế CÁN [Sĩ Tải]. Còn hai vị Bảo Quân để
dành sẵn, có người rồi.
Các vị phái viên ráng chọn đủ
rồi lập thành danh sách để phân công định vị. Đọc vế chót để tiếp phong.
Độc giả đọc vé thơ chót bài điểm danh lần trước và Đức Thái Bạch nối tiếp với
một trăm bốn mươi hai câu song thất lục bát điểm nhuận hai mươi chín tịnh viên
nữa.
Hai hôm sau,
đàn Tý thời ngày 06-6 Đinh Dậu (Thứ Tư 03-7-1957), Đức Ngô dạy:
Ngô ban quyền pháp độ sanh linh
Minh đức hiện ra chế ý tình
Chiêu dụ Long, Lân, Qui, Phụng hội
Giáng truyền cơ hộ
bửu phù linh.
Bần
Đạo chào chư Thiên ân, chư hiền đồ. Giờ nầy Bần Đạo ghé lại để lời dạy thêm. Chư hiền đồ an vị, chú tâm thanh tịnh.
Từ nay chư hiền vui nghe lời
Bần Đạo lo tròn sứ mạng để tiến mạnh lên đường tiến đức. Ngày ngưng cơ đã đến,
chư hiền đồ phải ôn luyện pháp môn, xem kinh vô tự mà tiến thủ trên bước tiền
trình.
Đạo Thầy khai ra đến năm nay
chưa ngoài một thế, chánh pháp chưa được phổ cập sâu rộng trong nhơn gian,
triều nào cũng bị khốn đốn.
Các hiền hữu, vì sao nền Đạo
mãi thăng trầm? Đạo mới ra đời chúng sanh còn lạ mắt. Kẻ có quyền thế lại nghi
ngờ, chưa nhận chân giá trị. Các hiền có làm được như Biện Hòa chăng? Biện Hòa
là người thợ ngọc khi tìm được ngọc liên thành (5) quý báu đem dâng cho Sở Lệ Vương. Sở Lệ Vương không biết
ngọc quý, cho là khi quân, chặt mất một chân. Đến triều Vũ Vương, ông đem dâng
ngọc ấy cũng bị cho là khi quân và bị chặt luôn một chân nữa. Thử hỏi Biện Hòa
còn giữ ngọc ấy không? Biện Hòa đã biết nó là quý mặc dù mình đã vì nó mà thành
phế nhân, nhưng chắc có ngày có người biết giá ngọc, thì khỏi bị mang danh giả
trá. Đến đời Văn Vương được đem ra phá vỏ ngoài lấy ngọc báu ở trong mà thanh
danh Biện Hòa trở nên trung trinh.[5]
Đạo ta đây cũng thế. Có khi
các hiền đem chánh pháp truyền bá cho nhơn gian không khỏi lâm cảnh Biện Hòa, ôm
lấy Đạo chịu thân hình đau khổ.
Bần Đạo ước sao chư hiền đồ
là một tược trong cây đạo đức, mỗi tược sẽ ra nhiều nhánh nhóc. Khi lớn lên mỗi
nhánh nhóc có biết bao nhiêu bông thơm trái ngọt. Nếu nhánh nhóc kia bị gãy đi
hay đui ngọn thì hại biết bao nhiêu! Bây giờ nó là cái tược còn non, nếu không
có giữ gìn thì kẻ tò mò nó ngắt đi là mất cả tương lai hoa quả. Nên khuyên chư
hiền đồ ngay bây giờ ráng lập công tu học để hàm dưỡng tính tình.
Các hiền đồ mỗi ngày để ra
vài thời mà công phu chế luyện thân tâm, cầu phương thanh tịnh, sẽ thấy công
hiệu của pháp môn.
Các hiền đồ có biết mình là
chi không? Mình là người chớ gì! Người là gì? Cần tìm hiểu người sẽ thành Phật
hay ma. Người là một thứ nguyên liệu tạo thành Tiên Phật mà cũng là nguyên liệu
tạo lấy yêu ma. Mỗi lúc hiền nghĩ về việc yêu ma, nói ra yêu ma, làm lụng cũng
yêu ma thì yêu ma ngày này tháng này cộng với bao nhiêu ngày tháng đời mình toàn
là nghĩ, nói và làm yêu ma ác đức mê muội thì thành yêu ma. Còn nghĩ phải, nói
phải, làm phải mỗi ngày được phải, nhiều ngày nhiều phải thì thành được phải,
là Tiên Phật đó. Vì vậy cái thân người đây muốn thành gì thì tự mình uốn nắn
tạo dựng. Vậy các hiền đồ nên suy nghĩ.
Đây, Bần Đạo nói con đường đi
tới phải có ba điều kiện là trung, hiếu, nghĩa. Trung, hiếu, nghĩa
như thế nào?
Đức Chí Tôn là Đấng tạo thành
càn khôn vạn loại. Sự sống bởi Người, vạn vật do đó mà còn, do đó mà nên. Vì
vậy Người là Cha Yêu Thương của vạn vật, ta phải hiếu kính.
Ngài đã dựng nên trời đất,
nắm cơ mầu nhiệm nơi tay, đức quyền năng thống ngự muôn loài, điều hòa vũ trụ
vững an. Ngài là Chúa Tể càn khôn, ta phải trung kính Ngài để gội
ân thánh đức, hướng về lẽ phải là cơ mầu nhiệm.
Ngài đã sanh ra rồi trị lấy, là Cha Chúa muôn loài mà còn sử lịnh được vạn vật trở nên thánh đức, giữ
lẽ công bình, đảm nhận thêm một vai trọng yếu là Thầy của muôn loài, hằng lấy
pháp đạo làm nấc thang dắt người tiến bước, dụng pháp
môn giáo hóa tận độ quần linh, mở lối siêu sanh, ngăn đường lục đạo, nên lấy nghĩa
mà thờ Ngài, đem trung, hiếu, nghĩa mà thờ nhơn loại.
Vì Ngài ở trong vạn vật, thì vạn vật là Ngài. Ta kính yêu Ngài, phải nên thương
vạn vật để làm tròn đạo nghĩa của một môn đệ nhà Tiên.
Thôi, đến đây Bần Đạo ban ơn mỗi hiền đồ và cũng cho hay từ đây đến ngày xuất tịnh nếu có
dịp, còn không thì các hiền sẽ gặp Bần Đạo trong những giờ thanh tịnh.
Sau đó
Đức Ngô ban cho hai mươi lăm khổ thơ, mỗi khổ thơ điểm nhuận một Thiên ân.
Đêm sau, Tý thời ngày 07-6 Đinh Dậu (Thứ Năm 04-7-1957), Đức Ngô tiếp
tục dạy đạo, đồng thời điểm
nhuận thêm hai Thiên
ân nữa. Đức Ngô dạy:
Về cầu phong thì còn một số
Đức Lý đương xin, nhưng chắc được Thầy cho đủ đợt cuối nầy tổng số một trăm lẻ
tám vị. Coi còn thiếu nhiều ít đưa lên để khóa bài. Nếu kịp kỳ thọ phong nầy
cho vào dự để tiện sự phân công. Còn khóa tịnh Phước Thiện, ngoài ngày Khai Cơ
Giáo Pháp chọn một thời gian nào đó và địa điểm để lập sớ xin lịnh.
Nữ phái nếu có điều kiện Thầy
cũng chẳng hẹp gì. Mong sự tinh tấn.
Đàn Tý
thời ngày 13-6 Đinh Dậu (Thứ Tư 10-7-1957), Đức Đông Phương Lão Tổ dạy:
Đông thành pháp đạo hóa quần sinh
Phương thổ đơn linh chế tựu thành
Lão luyện cần nguơn quy nhứt khí
Tổ đình Ngũ Đế bái Tam Thanh.
Bần Đạo chào chư hiền Thiên
ân, chư tịnh viên.
Hôm nay chư hiền đã gội nhiều
điển huệ, được Ngô Cao Tiên chỉ điểm thấu rõ chỗ u huyền đạo mạch. Bần Đạo rất
mừng.
Chư hiền đã nhờ lòng chí
thành mà bước qua một giai đoạn khó khăn. Nhưng trong lúc sơ cơ, bước đạo cũng
như cây cao trăm trượng mới đến chín mười tầm. Cần phải công phu gia luyện
nhiều ngày, luôn luôn phấn đấu với thời gian, hoàn cảnh ma chướng trong ngoài.
Lúc nầy là lúc các hiền đã có
đôi phần đạo hạnh nên tuệ mạng hiển chói linh quang. Ví như người đời khi làm
ra của phải đề phòng trộm đạo. Nó rình mà cướp đoạt đi thì hỏng cả một công phu
tạo dựng. Trước ngày các hiền chưa tu luyện thì ít bị khảo đảo, ví như người
nghèo khổ có sợ gì, lo gì trộm cướp.
Vì vậy Bần Đạo để lời dặn dò
từ nay trở đi gặp nhiều khó khăn. Càng khó khăn càng quyết liệt chiến đấu cho toàn
thắng để khỏi phụ lời dạy dỗ của Bề Trên, khỏi phụ công trình của Ngô Tiên chỉ
dẫn. Đã có cuộc thi hạch thì có kẻ được trúng cao, người trúng thấp. Cao thấp
đều là phần thưởng hơn kẻ bị rớt và người bỏ cuộc. Rớt còn được an ủi hơn là kẻ
nhát nhớm biếng lười. Các hiền nhớ lời Bần Đạo.
Về khóa Tứ Tượng, Tín còn nhớ
bài thi điểm đạo cho không? Đọc nghe!
Các hiền kia?
Còn khóa Luật Sự, các hiền
hiểu tại sao khi chuẩn, người được mà chưa được? Người được cũng còn như người
chưa được không? Cười... Mầu nhiệm. Nếu kẻ nào đạt đến chỗ đó thì thông thấu lẽ
Đạo.
Bần Đạo để lòng dạy chung.
Các hiền đừng tưởng Thần Tiên không trông thấy ưu khuyết của mỗi hiền đâu.
Các hiền là Thiên ân bị phạm
vào luật pháp cũng được bỏ qua, không cần nhắc đến, là vì muốn cho các hiền cảm lấy ân đức từ bi để hối lòng sửa cải.
Còn những người chưa xứng
đáng cũng được ân phong là để nương quyền cậy pháp mà tiến lên kịp Hội Long Hoa.
Cũng như có ít hiền đệ được
vào nhà tịnh mà tư tưởng còn vương việc tình duyên ân ái, chưa gắng công cầu
nguyện để dứt khoát nợ đời gội lấy ân phước cao minh, nâng mình lên ngôi thượng
phẩm.
Những vị chưa được thì gắng
gội rửa thân tâm, dọn mình chờ thánh phước. Thầy không
bỏ một ai. Nếu người ấy còn nghĩ tưởng đến Thầy. Các hiền gắng lên kẻo trễ kỳ
đại xá.
Còn việc ngày Khai Cơ Giáo
Pháp đến đây, các hiền phải bước vào một lối đường chông gai, gặp bao nhiêu khó
khăn mà tự mình phải giải quyết.
Cơ bút ngưng bắt đầu vào ngày
15 tháng 6,([8]) chỉ được hai tháng một
lần chấp bút mà cầu Bảo Nguơn Thiên Quân hay Tiếp Văn Pháp Quân đến dạy mà
thôi.
Bần Đạo cho biết bao nhiêu
việc Hội Thánh còn phải khó khăn về vấn đề nội bộ. Nếu không sớm được thanh
trừng mê vọng thì gặp phải rẽ chia. Quyền pháp nếu chẳng giữ gìn tỏ sáng, thì
chơn truyền phải mờ tối từ tay hướng đạo mà ra. Hướng đạo không trọng lấy pháp
luật quyền hành của Hội Thánh, cứ khư khư bảo thủ địa phương thì có ngày thánh
thể phân đôi, chơn truyền không sâu rộng. Chức sắc không trọng quyền lập pháp
làm cho nhơn sanh coi thường Giáo Hội thì đi đến bước loạn xạ rối ren.
Chức sắc cầu phong nhiều quá
sinh ra rẻ rúng. Vậy đến đây Bần Đạo đồng ý chấp thuận các bản sớ cầu phong cho
Chánh Phó Trị Sự, Thông Sự. Bác bỏ sớ cầu ân phong cho gia đình Giáo Sĩ.
Ngày ngưng cơ Bần Đạo đồng ý
theo sớ cầu xin của Liên Hoa, và Huệ Linh được phép thời gian nghỉ việc. Trọn
quyền giao cho Hội Thánh lưỡng đài tùy nghi mà sắp xếp.
([6]) Bài thi
điểm đạo trong đàn ngày 24-10 Bính
Thân (Thứ Hai 26-11-1956) kỷ niệm
ngày nhập khóa tu Tứ Tượng như sau:
Tứ tượng đồ hình để gẫm suy
Âm dương tiến hóa lắm mầu vi
Cọp rồng giao hội hòa quy phụng
Nhứt lộ đồng đăng ngộ nhứt kỳ.
KỲ, NGỘ Chơn Tiên được khẩu truyền
TÍN tâm sẽ thấu máy huyền thiên
Một hô một hấp cơ mầu nhiệm
Nửa trước nửa sau kết hống diên.
PHẠM VĂN
LIÊM