Hà Nội: Nhà xuất bản TÔN
GIÁO, 2016
MƯỜI MỘT
Là một trong bốn cơ quan của Hội Thánh, cơ quan Minh Tra rất quan trọng vì nhiệm vụ là bảo pháp. Tại
Trung Hưng Bửu Tòa, vào Tý thời ngày 02-02 Mậu Tuất (Thứ Sáu 21-3-1958), Đức
Cao Tiếp Văn Pháp Quân lâm đàn minh giải ý nghĩa cơ quan Minh Tra, minh định
nhiệm vụ và tư chất cần có của người Minh Tra.
Tiếp kỳ sứ mạng nhập huyền cơ
Văn chất toàn tu sớm kịp giờ
Pháp đạo ân cần hưng chánh giáo
Quân tâm bình đẳng thọ Thiên thơ.
(…)
Hội Thánh ta hình thành theo pháp đạo ba đài, bốn cơ quan. Về nhị hữu hình đài,
phần hành pháp đã có cơ sở bề thế hơn. Về bảo pháp, chưa được tổ chức.
Trong thế tượng trưng, ta xét kỹ, thánh thể của Thầy ví như thân người gồm
có đầu mình, tay chân. Đầu là cơ sở bảo pháp, mình là cơ sở hành pháp
chủ trương, do đó tay chân để làm lụng đi lại.
Phước Thiện, Phổ Tế là hai tay. Nội Chánh (Hành Chánh), Minh Tra
là hai chân. Hai tay không thể thiếu một mà làm được việc. Hai chân không thể
thiếu một mà đi lại dễ dàng. Nội Chánh (Hành Chánh), Minh Tra làm trụ cột cho
hình thể. Tay có làm mà chân không đi, làm sao phổ cập? Mà chân thiếu một, thân
thể bị què. Vì vậy, phải coi nhau bình đẳng.
(…)
Về phần Minh Tra, trong lúc xây dựng thì như thế cũng được. Cần hơn là anh
em phải cố gắng nghiên cứu học tập nhiều các phương bảo pháp để đủ tư cách đối
đãi cùng chức sắc Cửu Trùng Đài. Muốn học cho rành phải tu cho chín, tu để tâm
thần an định. Thần không xao động thì hạo khí nương về. Thần được trụ yên thì
vạn duyên kết tập. Thần ở nơi trong thì cảm quan tình thức cũng phải triều
chầu.
Nếu không tu thì Thần phóng tán ra ngoài, mỗi ngày mỗi hao mòn. Đã mất của
mình mà bè bạn tốt lành cũng xa đi. Bầy tôi không kiêng nể, làm sao an toàn
được thân thể mà phát huệ, hiện trí năng? Lòng bị tối tăm, thân bị hư nát, thân
sa biển ái non ân. Khí, Tinh là của báu ở người để mặc cho tình thức phá tán
tiêu pha, còn mong gì thân hình vững chắc. Thân hình không vững chắc, mong gì
thể Đạo được yên.
Thánh thể không mạnh lành là do mỗi người chức sắc chúng ta còn yếu ớt.
Thân ta có chất phác thì thể Đạo mới thuần hòa. Thể đạo thanh cao thần thánh là
bởi ta có thân Bồ Tát. Vậy phần người bảo pháp cần phải tu học nơi trong để đủ
uy đức độ người về chánh pháp.
Tu nơi trong là khắc kỷ phục lễ. Khắc kỷ được thì làm chủ được thân. Làm
chủ mình để chủ người. Ấy là tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Tu thân
để tề gia, để bình thiên hạ là việc làm của người quân tử, không cần ai nhắc
bảo, cũng không vì ai sai khiến, mà là bổn phận làm người. Bổn phận ấy là sứ
mạng khiến được thiên hạ phải theo cái đức độ khuôn viên của người quân tử.
Người quân tử để làm người an thiên hạ, thì người Bồ Tát để làm cái Đạo cứu
độ vạn thể thanh bình, chúng sanh chứng vị Thánh Thần thoát vòng luân hồi sanh
tử. Vậy người Bồ Tát là người Đạo. Cái Đạo cứu thế, chuộc cả tội lỗi chúng
sanh. Muốn chuộc được, cứu được người phải bằng pháp luật.
Pháp luật là gì? Là khuôn viên đạo đức của người Bồ Tát. Người Bồ Tát hay
người hướng đạo có cái thân đầy điển huệ. Thân ấy làm mực thước cho người đời.
Mực thước đây không phải muốn giữ cho ra mực thước, mà mực thước tự nhiên ở
lòng thuần chơn phát lộ. Lòng ấy có tu nên sáng sủa như mặt trời ban mai soi
rọi khắp mười phương, nhơn vật cỏ hoa đều hướng về ánh sáng.
Mặt trời phóng hào quang ra không phải là trong mặt trời không còn sáng,
hay ở ngoài sáng mà trong tối. Vì sự sáng bởi trong mà ra, sở dĩ tràn ra khắp
nơi là vì các nơi kia bị tối. Cũng như lòng người Thần, Khí đầy đủ thì pháp
thân duyên giác tỏ ngời. Cả chúng sanh thấy được thân nầy là vì chúng sanh thân
đen tối. Cũng như thân duyên giác thấy thân chúng sanh là vì chúng sanh thân
đen tối. Tối nên sáng mới soi đến, sáng nên tối phải trông về. Tối là âm, âm
là khí lạnh. Sáng là dương, dương là khí nóng. Lạnh bao giờ cũng ưng gần với
nóng. Nóng lúc nào cũng hút lấy chất lạnh. Nóng lạnh giao hợp nhau mà kết nên
thể điều hòa. Sáng phóng xạ vào nơi tối, thì tối phải tiêu tan. Tối trông vào
sáng để sáng được làm đích. Vì vậy người phạm phải pháp luật là người sống
trong đen tối. Đã đen tối, dầu có mắt cũng không thấy chỗ tới chỗ lui. Việc
phải trái không phân biệt. Đó là tại chỗ đó thiếu ánh sáng hay thiếu người
hướng đạo.
Người hướng đạo có phải là sứ mạng không? Nếu đã sáng sao người đó bị tối,
không phân biệt được trái phải nên hư? Người ấy lầm lỗi bởi cảnh gây nên đen
tối mà mắt không phân biệt được trái phải nên hư là bởi tâm chưa sáng suốt. Tâm
chưa sáng suốt là vì tâm chưa tiếp được điển quang.
Người hướng đạo là Bồ Tát, chúng sanh cũng là Bồ Tát chưa thành. Bồ Tát với
Bồ Tát là một. Một sao có cái sáng, cái tối? Vì người hướng đạo sớm giác ngộ,
tâm linh thanh tịnh, sống dưới quyền pháp thiêng liêng. Còn chúng sanh ví như
cái đèn chưa được châm lửa. Đèn chưa sáng vì chưa tiếp được ánh sáng của hướng
đạo châm vào trong cảnh đen tối. Đèn được tỏ lên là ngọn lửa đã đến khắp, thì
dù tối trở nên sáng suốt. Chừng ấy mắt thấy tỏ rõ, tự họ đi lại với nhau. Nếu
như ngọn đèn kia đã đỏ lên mà họ còn rù rờ ngơ ngác, thì chắc là họ lòa quáng
mờ đui. Nếu mờ đui thì phải cho người chăm nom dẫn dắt cũng được đúng đắn an toàn.
Các đạo hữu rõ không?
Về Minh Tra cần góp ý nhiều đêm nữa trong lúc tu học tại đây.
Về đàn Phổ Tế xin việc, vào Nam sẽ rõ.
Còn Hành Chánh cần lập thì tiếp đêm mai. Như chưa cần thì đến 15 sẽ lập.
Đàn đi Thừa Thiên chờ đến đó sẽ ra lệnh.
Đọc lại hết. Chư hiền coi mà chỉnh đốn văn ý lại.
Một đêm mỏi mệt huống lâu ngày
Đông lúc ban
đầu, cuối những ai
Chuyện vãn giữa
nhau còn lắm việc
Chúc cho đạo hữu
được lâu dài.
Thăng.
Tiếp đến, đàn cơ Tý thời ngày 03-02 Mậu Tuất (Thứ
Bảy 22-3-1958), Đức Thượng Chánh Phối Sư Trần Tổng Lý giáng dạy:
Trần tình Thượng
hạ được y tuân
Tổng hợp Chánh
tông Đạo lãnh phần
Lý đắc Phối
giao quyền pháp trọn
Mừng chư Sư hữu mãi tương thân.
Bản Thánh chào chư Thiên ân, chư hiền đệ.
Bản Thánh lấy làm lo cho Tông Đạo nơi đây, chưa biết chư Thiên ân có đủ
nhẫn nại kiên tâm mà thắng được cuộc tổng dượt của kỳ thi này để an toàn cho
đạo hữu chăng.
Giai đoạn chỉnh cơ của thời Phục đã qua,
nay thời Lâm tiến tới, là một bước khó hơn. Thời Lâm (Khôn thượng Đoài hạ),
cho ta thấy thế quân tử đứng dưới, thế tiểu nhân đứng trên. Sơ, nhị dương hào ([1]) đương vị nằm trong nội quái ([2]) để giao đối bên ngoài mà kết liên tình hữu
nghị. Nhưng bên ngoài toàn là âm. Thế của âm tuy ở ngoại quái ([3]) mà tượng hào thế lực còn to, bè đảng còn dày.
Hào lục tam ([4]) nằm trong nội bộ, đứng đầu trong môn bộ, làm
nội ứng cho bè lũ tiểu nhân.
Chúng ta lấy đó mà suy phần nội tình của Hội Thánh. Nội công ngoại kích che
phủ cả chánh pháp không cho ánh sáng lọt ra. Nhưng cơ Trời mầu nhiệm, thế quân
tử đương sanh, thế tiểu nhơn đương thối. Quân tử được chủ động, tiểu nhân ở về
thế bị động, nên dương đạo ngày càng phát đạt, âm đạo ngày một tiêu dần. Tuy âm
tiêu mà còn thế làm cho dương cương nguy khốn, vì lục ngũ([5]) ở chánh ngôi.
Tâm đạo còn đen tối, chờ cho Thái Âm tiến sang.
Vậy Hội Thánh xét lời nầy mà suy gẫm để phòng ngừa bước đạo ngày nay, phòng
lấy quyền pháp của bậc Thiên ân để tránh mưu chước tà quyền phỉnh dỗ.
Bước đạo năm nay Bản Thánh lấy làm lo cho Hội Thánh. Các vị đại đức, đại
công đã chầu Thầy. Còn bao nhiêu anh chị em trong nội bộ, quyền pháp chưa được
tinh minh, đạo tâm chưa thuần túy, căn trí chưa được khai thông, thân tu chưa
tròn hạnh đức, làm sao cảm hóa được đời, cảm dụ được lòng đạo hữu, cảm thông
được lẽ mầu vi?
Thầy ban pháp báo ân cũng tùy lòng giác ngộ, tùy sự hiểu biết mà chỉ dạy.
Nên phần đạo pháp bởi do căn trí mà ngày nay phải giảm nhẹ cho vừa quang thức.([6])
Ta sẽ thấy Khôn Đoài của hình quái Lâm đều là
âm cả. Trong âm có dương, nên dương hào mà âm tượng. Tượng quái sẽ chuyển xoay
một giai đoạn phi thường. Vì trước thời Phục nó là Thuần
Khôn . Khôn là cực bỉ phải chuyển qua thời Thái , thì quẻ Chấn ☳ là dương, nên trong thời Phục rất cương kiện.
Mặc dầu mới tượng mầm ánh sáng trong thời hỗn độn. Vì thế mà toàn đạo xa gần,
đều có nhiệt tâm, có chí tu học mạnh mẽ. Ai cũng quay về đốm lửa đương nhen,
tình thương yêu ra bề thân tín.
Phục đã chuyển qua Lâm mà nội quái là Đoài, tuy có nhị dương, nhưng Đoài là
âm, con gái út ở cùng người mẹ. Gái út nên còn chưa biết về ai. Cười… Nhan sắc
thơ ngây chung quanh lắm kẻ trông dòm đặng toan bề rước lấy. Vì lẽ đó mà ta bị
khảo đảo với những lẽ:
- Âm quái là đức nhu thuận. Nhu mà hào lại dương cương. Cương nhu tranh
chấp trên dưới không hòa, kẻ tới người lui, kẻ ưng người bỏ, nội bộ phân vân.
Lục tam([7]) lại cấu kết với ngoại quái đồng lưu vì vậy
trong khảo ngoài khảo. Phương chi cửu nhị thất chánh ([8]) lại chấp quyền thì làm sao an toàn nội ngoại.
Bởi vậy Thầy muốn chóng cứu chúng ta, bằng gấp rút ra lệnh thành lập Hội
Thánh Nữ Phái để đẩy Lâm thành Thái nội ngoại tương tề,([9]) nhưng các đệ không thông thánh ý mà nói qua
nói về cho Ơn Trên thâu lệnh chuyển đi nơi khác.
Hội Thánh Nữ Phái không được thành lập trong năm nay mà phải chờ ba năm nữa,
đó cũng là Thiên cơ. Đức Giáo Tông có ý kiến ra lịnh để ngừa phòng.
Ngày nào Lâm chuyển thành Thái là nội Càn ngoại Khôn. Càn Khôn hòa hiệp,
khí đất lên huân tụ đảnh môn, khí trời xuống ngăn đường tử hộ. Càn Khôn giao
hội kết lập đơn nguơn, thánh nhi xuất hiện. Nhưng đừng trách mình là Lâm mà bị
khảo. Không Lâm sao có Thái? Vậy biết để đề phòng. Còn phải nghiên cứu nhiều ý
tứ Bản Thánh đã dạy.
Các việc tạm y, chờ Giáo Tông ra lịnh. Thôi Bản Thánh chào chư vị.
Sau khi ban hành Nghị Định số 3 trong đàn lệnh Khai Cơ
Giáo Pháp ngày 15-6 Đinh Dậu (Thứ Sáu 12-7-1957), Hội Thánh tiến vào giai đoạn
Ơn Trên gọi là thời Lâm.
Thời Lâm là chiếu theo quẻ Địa Trạch Lâm để hiểu và hành.
Trong vòng Dịch mười hai quẻ thì Lâm sau quẻ Phục, Phục
sau quẻ Khôn. Bát Thuần Khôn là quẻ thuần âm, tăm tối mịt mùng. Trong cái hoàn
toàn âm đen tối đó lại nẩy sinh một hào dương để có quẻ Phục. Địa Lôi Phục là
giai đoạn tiềm ẩn, giai đoạn chớ nên làm gì (vật dụng 勿用). Giai đoạn nầy được xem như trời đêm mới chuyển về
sáng, con người chuẩn bị thức dậy để rồi tiến lên thêm một hào dương, tức quẻ
Lâm. Địa Trạch Lâm là giai đoạn của buổi mai, con người bắt đầu vào công việc
cho một ngày mới.
Hội Thánh đã được hình thành cơ chế ba phái, bốn cơ quan,
bắt đầu vào thời Lâm. Các Thiên Đồ đã giáng đàn đem thánh ý theo lý Dịch dạy
cặn kẽ cho từng cơ quan cũng như nữ phái.
Về hành pháp thời Lâm, Đức Hộ Đạo Thiên Quân (Trần Nguyên
Chất) dạy tổng quát về bốn cơ quan, về Tam Hội Lập Quyền; Đức Liễu Tâm Chơn
Nhơn (Huỳnh Ngọc Trác) dạy về Phước Thiện; Đức Chơn Giác (Lê Thị Khải), Đức Bảo
Thọ (Trần Doãn Cơ) dạy về nữ phái, nữ đoàn; Đức Chơn Khai (Nguyễn Quang Châu)
dạy về Phổ Tế; Đức Tiếp Văn Pháp Quân (Cao Hữu Chí) dạy về Minh Tra.
Về tịnh thất, do Đức Bảo Nguơn Chơn Tiên lý giải phương
tu theo sự truyền thụ của Đức Ngô.
Song song với bước đại hành của hành pháp, giáo pháp,
phần Bảo Pháp Hiệp Thiên Đài được Đức Cao Tiếp Văn lâm đàn tại Trung Hưng Bửu Tòa vào Tý thời ngày 08-02 Mậu Tuất (Thứ Năm
27-3-1958) hướng dẫn tổ chức xây dựng.
Cao ân quyền pháp gắng lo tròn
Tiếp tục hoàn thành cứu nước non
Văn pháp chỉnh tu hưng giáo lý
Quân bình đi ở vẹn lòng son.
Bản Quân chào chư Thiên ân, chư hiền hữu.
Y lời hứa, Bản Quân đến cùng quý anh em trong tổ chức góp phần xây dựng cho
bộ máy chạy đều, quyền đạo mạnh lành, pháp đạo sáng tỏ, người Thiên ân tròn
xứng đối với sứ mạng của mình, mà cũng nương lấy sứ mạng để đưa bước nhơn sanh
đưa mình lên hàng Thiên vị.
Anh em trong tổ chức phần nhiều tuổi non trẻ, đường đời mới để chơn vào lối
phong sương, chưa lấy chi làm kinh nghiệm. Lòng tu thiếu tâm giải thoát, thiếu
hạnh Thiên ân, nhưng cũng có hữu duyên cùng chánh pháp. Cần đòi hỏi một sự quả
quyết ở lòng về hai con đường xuất thế, nhập thế. Được sự chân thành bày tỏ của
mình, quyền pháp mới tiện phương chia cắt.
Con đường nào cũng tốt cả. Xuất thế hay nhập thế cũng không ngoài mục đích
bảo dân giáo tứ, hưng quyền sáng pháp, an toàn thánh thể Chí Tôn.
Đường nhập thế không phải là hèn, đường xuất thế không phải là vinh. Xuất
thế mà không làm đúng ý nghĩa của nó là nhục. Nhập thế mà làm đúng ý nghĩa của
nó là quý. Một trong hai đường phải có sự quyết định để tiện sắp xếp phẩm bậc
tu.
Từ Sĩ Tải trở lên vào đường xuất tục. Vì trường hợp đặc biệt phải hoàn tục,
phải có lời báo trước để quyền pháp khỏi đen tối.
Hàng Luật Sự, Tùng Sĩ chia làm hai hạng: Hạng đi thẳng và hạng còn lo nhơn
đạo được bình đẳng trước quyền pháp. Tùy từng hạng, giới tu phải được thọ trì
hoặc được dự vào các khóa bí truyền, các phần họp nghị nội bộ quyết định cơ bảo
pháp ngày mai.
Về giới hạnh, ban Hiệp Thiên Đài nghiên cứu sắp xếp rồi dâng lên Đông Phương
Lão Tổ cho ý kiến.
Đây, Bản Quân bàn thêm thời Lâm của bước đạo đương diễn tiến.
Thời Lâm của ta trong giai đoạn Khai Cơ Giáo Pháp không phải như quẻ Thuần
Càn. Cửu nhị ở vị dương nhưng đã lâm vào ở địa vị Thuần Càn hay ở Thuần Khôn chuyển
thì cửu nhị cũng đắc trung. Đắc trung thì việc làm trúng đạo. Có một điều là ta
nên tìm hiểu: Đã trúng đạo thì sao nội bộ chưa thân hòa, tín thiện, trong ngoài
chưa được cậy nương?
Vì quẻ Phục, Khôn ngoại Chấn nội. Chấn là dương mà sơ cửu cũng dương. Sơ
hào dương mà dương hào cư dương vị là đắc chính. Đến như quẻ Lâm, ngoại Khôn
nội Đoài. Đoài là âm mà cửu nhị là dương ở vào tượng âm vị âm. Dương hào ở âm
vị là bất chính. Đã đành bất chính mà đắc trung. Đắc trung tất khó chính, nhưng
tại sao không đắc nhơn tâm, hòa thượng hạ?
Vì dương hào đứng âm vị, dù có quân tử thanh cao người ta cũng ngỡ là bất
chính bằng nỗi nầy nỗi nọ. Đã nói dù tâm quân tử trong trường hợp ấy nên cẩn
thận đề phòng và nên xét nghiệm trường hợp của thời Lâm. Nên người Bảo Pháp Minh Tra phải thấy
điểm đó mà suy luận biện bạch để giữ mình được thanh cao, minh chứng pháp luật
cho đời phần oan ưng chí lý.
Đây Bản Quân khải thị một điểm để chư hiền tìm hiểu toàn quái mà bảo pháp thời Lâm.
Bảo pháp thời Lâm là thời rất khó. Thời long hiện thì pháp luật phải được hiện hình, quyền vị phải được
xứng vai. Mà long hiện phải thời gánh vác việc đạo, các bậc Thiên ân cần xứng
đáng người hướng đạo. Kẻ cầm pháp phải tu
nghiệp tiến đức, học tu vấn biện, khoan cư nhẫn hành để hưng quyền sáng
pháp.
Mỗi một cuộc khảo thí là một hân hạnh nhất cho toàn đạo. Ma không khảo, đạo
không thành. Mà chịu khảo là rút ngắn con đường chứng vị, rút ngắn bước đời, đi
tắt trên con đường chánh pháp. Sự khảo đảo là ân phước cho người tu. Được nhồi
quả một phen dứt dây oan nghiệt luân hồi sanh tử. Người tu muốn đắc duyên đắc
vị, phải chịu nhồi quả, phải được ma luyện cho thánh đức tràn đầy, phàm phu rửa
sạch.
Tu phải lấy khổ hạnh để làm pháp môn chế ngự ý tình, ngã mạn. Ngã mạn không
chế trị được thì khó thành quả vị. Người cầm pháp để hướng đạo, trước hết nên
khép mình trong khuôn viên đạo đức rồi khép người theo chánh pháp mới dễ. Khép
theo khuôn viên đạo đức không phải một mai một chiều mà thành công. Phải nhiều
công phu lắm lắm. Cũng như uốn cây cho thẳng, phải cột chặt cây vào nọc lâu
ngày để cây được theo chiều uốn nắn. Cây cong cột vào nọc cũng thành ngay.
Người khép mình trong khuôn đạo pháp, thì phàm phu trở thành thánh đức.
Đây nói qua về sứ mạng vào Nam.
Sứ mạng vào Nam coi theo tượng quái dương chuyển tiến thời Lâm. Đắc Lâm là
phải bỏ bao nhiêu công phu ở thời Phục. Công phu tu dưỡng tiềm tàng cho đến
ngày hiển hiện. Lâm không tiềm
sao được hiện, không hiện làm sao đến phi. Vì vậy công
việc làm phải tùy thời chấp trung. Đi ra thời Lâm là thời kiến đại nhân,([10]) nhưng nên đề phòng vì thể Lâm tuy đắc trung nhưng chưa đắc vị.
Chư vị nhắm Lâm mà làm việc. Khi nào chuyển Lâm thành Thái, chuyển Thái đến
Thuần Càn, lòng ta mới được hoàn toàn thỏa nguyện. Bây giờ rồng còn nằm trên
đất. Đất đây là cơ lập pháp tại hạ, nên
lo xây dựng nền tảng chánh pháp bằng sự thân hòa tâm phúc.
Cơ chia rẽ đã gây nhiều thiệt hại cho tôn chỉ cộng đồng, bình đẳng, bác ái;
làm cho sứt mẻ quyền pháp cứu thế hưng đạo. Hôm nay ta mang sứ mạng của thời
Lâm đến, ra ngoài để tụ hội, quy gồm bao nhiêu tinh thần tinh túy tản mác ở
mười phương làm một. Sự đi mang cả danh nghĩa của một Hội Thánh. Sự nghiệp
Trung Hưng ở đây. Tiếng nói Hội Thánh, việc làm Hội Thánh, con người Hội Thánh
là các hiền. Phải cẩn thận mỗi mỗi động tác. Tuy gặp trở ngại mà trong khó nhọc
sẽ thu lại nguồn an ủi nhiều thắng lợi. Đừng nghe nhiều lộn xộn tâm trí, đừng
nhìn gần, đừng ỷ lại, đừng tự khí tự cao. Phải lấy lòng khoan cư nhẫn hành mà
làm tròn sứ mạng Trung Hưng.
Trong dịp đi nầy sẽ gặp nhiều điều mới lạ. Chư vị sẽ thấy lòng mình có gì
thay đổi. Tại ngoại cảnh, nhận thấy cuộc biến đổi, mà giữa nhau tình huynh đệ
không đồng. Nhưng dù đồng hay không đồng cũng nhắm vào mục đích trùng cơ lập
pháp, hưng minh giáo lý, duy nhất Giáo Hội, thành lập giáo quyền.
Đường lên đương dốc nhọc nhằn
Gánh bao nhiệm
vụ nặng oằn đôi vai
Qua truông còn
khoảng xa dài
Tay nâng côn gậy
tiếng còi túc lên
Khó khăn có một
ngày nên
Tuổi tên mình
tỏ, tuổi tên đạo ngời.
Biển trần lắm kẻ
hụp bơi
Thuyền từ ta đến
cứu người trầm luân.
Trong thời Khai Cơ Giáo Pháp, Ơn Trên tuyển dụng các
Thiên Đồ Trung Bảo, vận chuyển vào cơ giáo hóa. Bước đầu xây dựng Hội Thánh
Trung Tông Đạo đã được các Thiên Đồ vận dụng Dịch lý mở ra cho Hội Thánh những
bài học thật đáng giá, để vừa học hiểu, vừa khép mình trong khảo hạch của
nguyên lý thành trụ dị diệt.
Cơ giáo hóa và thử thách nầy đều do Đức Giáo Tông Vô Vi Đại
Đạo nắm quyền dìu dẫn, vừa đỡ nâng vừa răn phạt trong ơn tận độ của Thầy. Tại
Trung Hưng Bửu Tòa ngày 04-3 Mậu Tuất (Thứ Ba 22-4-1958), Đức Giáo Tông dạy:
Nếu không
nhờ quyền pháp tận độ của buổi Tam Kỳ, không nhờ lòng từ bi cứu rỗi của Thầy,
thì buổi hạ nguơn nầy chín mươi hai ức nguyên nhân trông đâu được phục hồi cựu
vị? Thế giới nhơn loại dựa đâu mà tránh nạn xáo trộn tiêu vong?
Cho nên những Thiên ân chức vụ phải có tâm tu học, quý
trọng Thiên vị quyền pháp của mình, cần có một tâm hồn thuần nhiên giải thoát.
Người Thiên ân không nhiều nhưng phải tinh. Cùng đàn cơ trên, Đức Giáo Tông dạy:
Một nước loạn, một nhà trị; muôn người vô đạo, một người có đạo; là số ít
để cứu chuộc số đông. Mầm lành nứt lên là cây lành sẽ có, bông lành quả lành
thiếu chi. Giống lành bắt đó mà giâm cấy ngàn vườn muôn ruộng. Mặc dù đêm có
tối, khắp năm châu mờ mịt cả đất trời. Ánh sáng vầng trăng đã lộ ra thì tăm tối
đâu đâu cũng từ từ mà lặn khuất. Một cái nhỏ nhít đọ với cõi vô tận bao la,
cũng thể mười phần hơn trội.
Bởi vậy quẻ Phục tượng
một hào dương. Dương còn lờ mờ dưới chót, thế mà một ngày nó nuốt cả năm âm.
Cũng như đạo đức lúc còn yếu, người còn thưa, quyền thế bên ngoài lấn át, trăm
ngàn miệng thế gian nhạo báng hoặc hăm he. Nhưng một ngày hoàn cảnh ổn định,
thế giới ngừng chiến thì đạo đức lan truyền, không một con kiến lọt ngoài ổ
tục. Tạo nên sự gì lợi hay hại là bởi lúc mầm non. Mầm quân tử thì phước quả
thanh bình; mầm tiểu nhân thì ác quả oan oan tương báo.
Hôm nay Hội Thánh lâm vào một tình trạng nghèo khổ. Vì nghèo mà thiếu những
phương tiện truyền đạo. Xét thế cũng chưa đúng, vì thiếu phương tiện mà thôi,
chớ quyền pháp như nguồn mới bao la không ngừng nghỉ. Hễ làm tỏ sáng được bên
ngoài thì bên trong càng thêm rực rỡ.
Phản phục kỳ Đạo. Đạo lúc ẩn lúc hiện, lúc mạnh
mẽ như đanh, lúc dịu mềm như không khí. Hoa mùa xuân nở, mùa hạ tàn. Tàn xủ màu
sắc hồng tía lòe loẹt bên ngoài để đoạn tuyệt bọn bướm ong lợi dụng, để rồi nứt
nụ nở quả thay vào.
Giận một điều là lúc bông đẹp nhụy thơm thì bướm ong bu đậu, lấy hương nhặt
phấn, làm mật làm tầng. Bông héo nhụy phai, nụ quả đơm lên ong còn cố tình
chích cho trái non eo thối. Việc cũng buồn cười.
Nhưng sức phá thế mà cũng chưa làm hại được, vì cây còn xanh, rễ còn tươi, nhánh
nhóc còn nhiều, mỗi mắt mỗi bông mỗi nụ. Ong đâu có đủ đếm trái chích vòng
quanh. Thế thì trái được che dưới lá, đuợc núp trong tàn. Trái đó càng lớn,
càng già, càng ươm đủ mùi ngon ngọt, ai cũng quý ưa.
Hạ trái chín vàng, thu trời mát mẻ, thâu nhặt đem về tàng trữ là lúc kết
quả chi chung. Nói chi chung thì phải biết chi thỉ. Thỉ là lúc đầu. Lúc mùa
đông tàn phá xác xơ, cây không còn một lá trên cành. Cành bị lá vặt xơ rơ như
bó chổi xương cùn lốc. Thế mà cây vẫn bám vào khí đất, chịu đựng tháng ngày.
Đất lạnh cây cũng lạnh. Lạnh là tượng sự chết của buổi hạ nguơn. Đến một
buổi ấm áp hiện ra là buổi Đông Chí. Một điểm ấm áp, muôn ngàn điểm lạnh. Thế
mà ấm vẫn thắng hoàn toàn.
Cũng như tứ chi thân thể lạnh tê, chỉ còn một quả tim rộn rực thì cũng còn
sống được. Rộn rực một chỗ sẽ chuyển máu nóng nhiều nơi. Rộn rực ấy là làn sóng
điện truyền dương.
Cũng như Đông Chí, sơ Phục phát sinh, thì vạn vật cỏ hoa cũng nhờ sinh lực
kia mà nứt tược đâm lộc kết đầy lá xanh. Đủ thấy bông đẹp quả ngon đều bởi ở
dưới hàm ẩn tích tụ, bắt đầu từ mùa Đông chờ Xuân là phơi hương sắc. Thế thì
hương sắc không phải đến Xuân mới có, mà đã chuẩn bị từ bao giờ.
Ngày Đạo thành, Hội Thánh mười
phương duy nhứt, không phải đến đó mới phát. Không phải thế đâu. Ngày
Đạo thành cũng cả một sự chuẩn bị đầy đủ ngay trong lúc bấy giờ hay trước nữa.
Đừng tưởng tằm hóa bướm liền. Tằm phải trải qua nhiều sự biến thay. Ăn một,
ăn ba, ươm vàng lộn kén. Có một điều tằm chỉ ăn dâu nên tằm mới có tơ. Người
được như tằm thì làm sao lộn kiếp luân hồi sanh tử trả quả.
Vì vậy đạo hữu cần nhớ kỹ cả một sự chuẩn bị lâu dài. Từ chỗ không tiếng
tăm, không một người cho đến đông đúc, tên tuổi. Đạo quân kéo ra hành quân
chiến trận đi đứng rập ràng, cử động nhất luật, hàng ngũ ngay thẳng, nghiêm
trang. Không phải lúc được vậy là lúc ta mới thắng, mà sự thành hình của nó bởi
công luyện tập rất nhiều, theo một kỷ luật, một mệnh lệnh, một quyền chỉ đạo
tối cao.
Đạo hữu ta muốn được như thế cũng phải theo một
kỷ luật, một mệnh lệnh, một quyền lãnh đạo tối cao. Người vào lính chẳng phải lương bổng mà còn
vì Tổ Quốc, nhơn đạo. Người tu chẳng phải một phần thành Tiên, mà lo phần thành
đạo chung cho Giáo Hội nữa.
Về việc Hành Chánh trong lúc nầy coi theo ý đó mà hành sự. Việc thay
đổi, điều động, di dịch, tùy sự cần thiết và hoàn cảnh nhu cầu. Việc tổ chức
đời sống để bảo dân dưỡng thiện là việc cần. Có mở mang ngày nay thì ngày mai
mới có phần hưởng quả. Bây giờ đất không bừa cỏ, lên vồng, gieo hạt, cấp hom,
thì mai mốt kia cây đâu có mà đòi hoa thơm quả ngọt. Thế là sức làm ở đạo hữu. Đạo
hữu giác ngộ thì việc làm không mỏi, ngày làm không dài.
Tiếc vì hoàn cảnh Hội Thánh còn trong lúc buổi mai huyền hối.([11]) Nước xuống chưa lên, sức người mòn mỏi, tùy
mỗi địa phận định đoạt. Có một điều nên nhớ, quẻ Phục là Đông Chí. Phục là một,
một là đầu, thì Phước Thiện xây dựng sơ cấp bảo vệ quyền sống pháp tu
cho mỗi họ đạo, thánh thất để toàn hảo sanh cơ bảo thọ.
Phổ Tế nên khích
động nhơn sanh, coi quẻ Phục mà giáo hóa. Phục là sơ động nhứt dương. Nội quái Chấn. Chấn
động mười phương là tiếng sấm vang chuyển sinh vạn vật. Chấn là lôi, lôi có
nghĩa là tỉnh giác mà cũng có nghĩa nhắc nhở hay cũng có nghĩa răn đe, để chấn
chỉnh lòng nguời, động viên nội bộ. Vì vậy Chấn ngoài Chấn trong mà thành Lâm . Lâm để giao lâm quân tử, mưu toan Chỉnh Cơ
Lập Pháp. Vì vậy mà không riêng cho mình. Cũng không ỷ lại hay phó mặc cho
người. Vì hai dương ở dưới, dương ngoại dương nội cũng hàm nhứt dương là Phục,
mà nội ngoại đều có, nên tạm gọi là Lâm. Phục thành Lâm là ngày nhứt trưởng
đương hành quyền pháp (…).
Về việc Minh Tra là đạo tượng. Vì sao kêu tượng? Vì Hiệp Thiên Đài
là Khí, Cửu Trùng Đài là Tinh. Tinh hóa hình, tượng hình giao nhau mà thành
quái. Vì thế ở trong mà soát xét, mà cũng ở trong để bồi dưỡng, cũng ở trong mà
tu chỉnh, ở trong mà xây dựng. Bông nhiều quả sai, cành lá đơm đặc, mập nhánh
to cội, bởi do rễ bám vào đất mà hút lấy sinh lực của Khôn. Rễ ấy không ở trên
đất như nhánh nhóc, mà phải ở dưới đất để giữ vững cho tàn đậm cây to. Ẩn trong
lớp dưới, dưới là Đạo, là Hiệp Thiên Đài, là Minh Tra. Coi lấy đó mà tổ chức.
Có một điều là giữ khỏi sùng ăn hay rễ đừng bám vào đá cứng mà ngọn phải đui.
Việc nữ phái coi theo bản lập vị Địa Thiên Thái mà xây dựng. Làm
được việc đừng độc chiếm. Phải nhớ Khôn là nhu mà tùy thuận. Nên nhờ ở nam
hành chánh để học hỏi cho đến ngày thành hình ra lệnh ban quyền pháp.
Việc tại Hội Thánh tùy sự tính đó cũng hợp ý với Bần Đạo. Công việc làm thu
gọn nhiều chừng nào càng quý. Mục đích:
(1) Nuôi đức tin lòng tu giải thoát.
(2) Làm cho Thiên ân thấy rõ sứ mạng tồn vong,
biết sự tồn vong cũng tương quan trách nhiệm. Vị nào hành chánh được ra hành
đạo. Vị nào không đủ điều kiện hoặc bởi lý do nào thì xin nghỉ thời gian ở nhà
tu tịnh, lúc cần Hội Thánh điều động. Vị nào ương ngạnh, Hội Thánh dùng quyền
bảo vệ danh nghĩa chung.
Việc mở khóa đào tạo giáo sĩ, Bần Đạo muốn có ý kiến Chơn
Khai. Vì ở trong thế khó mà người cũng khó, việc làm cũng khó. Bao nhiêu cái
khó để trở thành cái khôn là việc hay. Chớ khó mà trở nên cái lỗi là đáng tiếc.
Nối tiếp phần Khai Cơ Giáo Pháp, đàn Tý thời
ngày 19-3 Mậu Tuất (Thứ Tư 07-5-1958) tại Trung Hưng Bửu Tòa, Đức Quan Âm Bồ
Tát dạy:
Quan chiếu bản lai thoát khổ trần
Âm hình chế ngự hiện chơn thân
Bồ đoàn tịch tịnh vong phàm ý
Tát thị tiên thiên xuất nhập thần.
Bần Nữ chào chư Thiên ân phận sự.
Giờ nầy Bần Nữ nương bút có lời cùng chư Thiên ân công vụ.
Bước đạo mỗi ngày mỗi khó, người tu phải lo hết. Phát tâm Bồ Tát làm bao
nhiêu điều lành. Nhẫn nhục trước hoàn cảnh khó khăn để dễ dàng tấn đạo. Nếu
không để tâm hạ khí học hạnh từ bi thì cũng dễ bề cho ma lực dỗ dành mà bán đồ
nhi phế trên đường công phu tu học.
Hôm nay Hội Thánh còn trong thời kỳ chỉnh đốn, phá hoại cái cũ kỹ, kiến tạo
cái mới mẻ để xây dựng một tổ chức hoàn bị tân pháp, nên trông cả một sự ngổn
ngang, phiền phức. Kẻ không nắm được chương trình thì trông vào thấy một đống
rậm rạp lộn xộn, những cái mới cái cũ ngô nghê, biết đâu dựng lên hay hạ xuống.
Ngó thấy phần triệt hạ kia tưởng cho là kiến thiết, phần tạo dựng lại nghĩ đó
đương phá hoại nay mai. Cười…
Cơ mầu nhiệm, lẽ Đạo phi thuờng ai sao thấy được huyền cơ. Dù thánh đức
cũng chưa đạt tận máy Trời, thì phàm phu sao cho thông hiểu. Bởi vậy người
Thiên ân phận sự nên ân cần tu học, kinh sợ lẽ biến hóa nhiệm mầu. Đừng tưởng
trí khôn công lớn mà dể dưng pháp Thần ý Thánh.
Hôm nay, ngày mai, giờ nầy, giờ sau, chưa phải là lâu. Trong phút chốc
không kịp trở bàn tay thì thấy hai cảnh đời khác xa một trời một vực. Cái gì là
thật, cái gì là hư? Một dãy thời gian chật khít như tràng hạt vô biên thế mà
chốc lát không quá một giờ của pháp đạo. Nhà đây, đất ruộng, người vật đây, thế
rồi biến đi trong một phút đồng hồ, thành cảnh hư không, thì có gì là thật. Bao
nhiêu sự thật ở lòng mình, lúc ý tình yên lặng. Sự thật được mỗi ngày lớn mạnh,
sáng tỏ như thân tâm thanh tịnh, vạn cảnh giai không. Cảnh còn màu mè rung động
thì tình ý xao xuyến muốn ưa. Lửa tam muội rần rộ cháy lên thì sự thật phải vùi
trong lò giả thân thiêu đốt.
Thế cho nên, dù có đoàn thể lớn, tổ chức to mà thiếu lòng đạo đức nơi
trong, thiếu hạnh từ bi nơi mình, thì dù có to lớn đến đâu cũng bị đổ nát một
cách dễ dàng mau lẹ. Có những đạt nhân thấy rõ cuộc đời, họ hủy bỏ danh sắc
thân gia, tìm con đường giải thoát để gởi chí thanh cao, gội hồn trong trẻo, an
vui mùi đạo tháng ngày.
Thế mà phần đông trong Giáo Hội ta từ Thiên ân đến đạo hữu, mang tên đạo
đức mà chưa rõ đạo đức là gì. Rồi bảo thủ, đắp tô cái vỏ bề ngoài thô kệch, mỗi
ngày càng chôn sâu bít kín lẽ thật, không được thông công cảm ứng cùng cơ mầu
nhiệm.
Quyền đây, pháp đây, đạo đức đây. Đây là cái lòng yên tịnh không tịch huyền
minh. Hay đây là hình sắc ảo hóa tạm thời của trò giả trá. Đạo đức gốc ở lòng.
Lòng biết tu là lòng có quyền pháp. Tu mà còn cầu danh lập vị, tu ấy nô lệ cho ý tình. Tu mà không dứt bỏ
lòng phàm thì mong gì đạt cơ đắc đạo.
Vậy Hội Thánh muốn tiến sang một bước nữa, thì việc tu không phải riêng gì
cho các bậc Thiên ân, mà toàn đạo được hưởng chung mùi giáo pháp của thời kỳ tận độ. Để cho người người
phát tâm giải thoát cầu lấy đạo đức thanh tịnh trường cửu vô biên, thì Hội Thánh phải lập tịnh đường, mở mang
tịnh xá, lập ban tịnh, đặt người tịnh chủ trông nom. Đưa bậc Thiên ân tu
nghiệm giảng minh Thiên Đạo. Mở rộng nẻo lành, thâu nạp các môn sinh có nguyện
lực, có tâm hạnh để truyền đạo, điểm đạo, sau lấy số nầy mà ban phong hành pháp
mở đạo.
Việc tịnh kỳ nầy là việc xây dựng hình thức Thiên ân. Các đàn cơ đã có
nhiều bài chỉ điểm, coi đó mà tu. Có cần thì đến thăm và bổ túc các pháp môn
hành giáo.
Về việc đào tạo giáo sĩ, Giáo Hội
thấy cần phải có người thật tâm hướng đạo. Nhưng nhớ một điều là người giáo sĩ
vì giác ngộ mà lập công, không phải người giáo sĩ là người thủ lãnh trong bầy
ngồi trên địa vị. Nghĩa là việc
giáo sĩ, không phải chức giáo
sĩ, học để mua danh, đào tạo ra để làm loạn pháp.
Vậy mở khóa nầy, Bần Nữ cũng có ý như quý vị Thiên ân phải đủ người mô phạm
hướng dẫn và theo đó rút kinh nghiệm bổ cứu khóa sau được hoàn bị hơn. Thời
gian tùy đó ấn định. Nếu để trễ có phần khó khăn vì hoàn cảnh, việc mở mang đạo
lý là cần. Nước mạnh tuôn ra lẽ cố nhiên có tiếng động để người lóng nghe mà
tìm đến giải khát. Có xạ có hương, hương thơm bởi xạ, nhé!
Việc hành chánh cũng nên thăng
bằng giữa sức người và tổ chức, giữa lòng người và việc làm, giữa cơ sở và nhơn
sanh, giữa đạo pháp và thời vụ. Không cho lệch quyền mà lu pháp. Nên nhớ tạo tăng hơn tạo tự, câu nói đầu lưỡi
của người hành giả.
Phước Thiện, Phổ Tế hai đầu gánh
Điểm thăng bằng
Nội Chánh phải lo
Đừng nên kẻ duỗi
người co
Đừng làm ngoài
việc người cho là cần.
Thôi, việc đã dạy theo lời Giáo Tông từ 20 tháng 4 sẽ ban lịnh sắp đặt.
Tổng quát nhiêu đó. Việc nào trở ngại thì thánh ý sẽ cho biết. Mong sự chỉnh
đốn hàng ngũ Thiên ân là việc cần của thượng bán niên công tác.
Bần Nữ ban ơn.
([8]) Trong sáu
hào (vạch) của quẻ kép, các hào 1, 3, 5 là dương vị; các hào 2, 4, 6 là âm vị.
Hào dương (vạch liền) ở vào dương vị và hào âm (vạch đứt) ở vào âm vị thì gọi
là đắc trung (đắc chánh). Hào dương ở vào âm vị, hào âm ở vào dương vị thì gọi
là thất chánh. Trong quẻ Lâm nói trên, hào cửu nhị (hào hai dương, vạch liền
thứ 2 từ dưới đếm lên) ở vào âm vị (hào 2) nên gọi là thất chánh.