XI. CHUỘC LẠI SỨ MẠNG
Lời Đức
Đại Giác Kim Tiên: “Bản Thánh
khuyên các hiền gắng mà làm được con người cho chánh pháp trung hưng. Gắng mà
làm xong những trang sử đạo đang còn lỡ dở.”
Chánh pháp trung hưng là của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
do Đức Chí Tôn trao cho dân tộc Việt Nam gồm có nội giáo tâm truyền và ngoại giáo
công truyền. Như vậy làm được con người cho chánh pháp trung hưng là làm một
môn đồ đắc được cả công truyền và tâm truyền. Con người đó là công vụ sứ đồ mà
Đức Chí Tôn đã đặt để vào hàng Thiên ân Trung Tông Đạo Hội Thánh Truyền Giáo
Cao Đài.
Thiên ân công vụ sứ đồ Hội Thánh Truyền Giáo Cao
Đài được Thầy trao cho sứ mạng trung hưng tức là công cuộc hoàn tất chánh pháp
bằng việc quy nhất công truyền và tâm truyền. Nói cách khác là đưa dắt nhân
sinh từ phương tiện đến cứu cánh bằng cách hành đạo và tịnh luyện đi đôi. Về
hành đạo thì Hội Thánh tạm đạt thành nhưng về tịnh luyện thì chỉ mới “luyện
châu là cái bước đầu”. Vậy là còn lỡ dở, cho nên Đức Đại Giác Kim Tiên
bảo: “Gắng mà làm xong những trang sử đạo đang lỡ dở.” Trang sử đạo lỡ dở đây
có thể chung cả nền Đại Đạo chứ không riêng gì Hội Thánh Truyền giáo Cao Đài.
Đức Kim Tiên cũng bảo rằng làm được là có lòng định hướng. Hướng định của các
vị Thiên ân ở đây đã có sự vận chuyển thọ pháp vô vi Tam Thanh mà Đức Chí Tôn
đã trao cho Đức Ngô từ hội Canh Thân.
Trong khi các vị Thiên ân ở nhà tịnh chí chăm theo
hướng tịnh định, có sự dẫn dắt của Ơn Trên, quyết chí gầy dựng cơ sở bí pháp
tâm truyền thì các Thiên ân ở Hội Thánh lo mở mang Giáo Hội theo hướng công
truyền, đẩy mạnh mặt văn hóa xã hội. Ngọc Giáo Hữu Trương Sư Xuyên được đặc
trách mở trung tiểu học Hưng Đạo tại Tam Kỳ. Ngọc Lễ Sanh Trần Phước lo lập đồn
điền cao su tại Phước Long. Ngọc Giáo Hữu Mai Dinh và nhiều cộng sự đi Ban Mê
Thuột và Bình Tuy tìm đất di cư cho đạo hữu miền Trung. Quyền Giáo Hữu Đỗ Thanh
đặc trách thành lập khu khẩn hoang tại Đắc Lắc theo chương trình dinh điền của nhà
nước. Hội Thánh cho tục bản nguyệt san Nhân Sinh, tòa soạn đặt tại Trung Hưng
Bửu Tòa và do Giáo Hữu Ngọc Dinh Thanh phụ trách. Tại Bình Định, Hội Thánh cho
dời văn phòng Tỉnh Đạo từ Phù Cát về Quy Nhơn, xây cất ngôi Tam Đài thánh đường
Bình Định ở đường Hàm Nghi (khu 6, nay là số 55 Hàm Nghi).
Như loài
hoa dạ lan lặng lẽ, các vị ở Tịnh Đường âm thầm tinh nghiêm trong trúc cơ bá
nhựt. Họ luôn đặt thân tâm trong từng thời khắc công phu, hướng lòng cầu điển
pháp thiêng liêng qua các kỳ đàn do đồng tử Liên Hoa thủ cơ.
Tịnh
Đường, đàn ngày 27-02 Nhâm Dần (01-4-1962):
THI
LỮ hành chờ đợi, đợi chờ ai
ĐỒNG sức nhau lên gắng lấy nào
TÂN pháp khác không phần cổ pháp
GIÁNG thăng rõ được mới là cao.
Lão Tổ chào chư hiền sĩ. Giờ nầy Lão Tổ đi
qua, nghe tiếng cầu mời Tiên Phật. Lão ghé lại để ít lời, gọi là chút công quả
khải mông về đường pháp đạo.
BÀI
Trước sứ mạng vô cùng cấp thiết
Giữa nguy cơ khốc liệt lắm rồi
Phương chi cứu vãn tài bồi
Để cho nhân loại đứng ngồi được yên?
Ngày thế giới thất điên bát đảo
Buổi Đạo Trời tái tạo hồi sinh
Từ lâu quyền pháp nơi mình
Thầy ban để thiết hòa bình nơi nơi
Cũng trách cho lòng người xuôi ngược
Cũng buồn cho vận nước truân chiên
Hóa nên chánh pháp chinh nghiêng
Chia manh xẻ mún đảo huyền mà lo
Bây giờ đây ai trò đạo đức
Bây giờ đây ai thực lòng tu
Giờ đây ai vẹt mây mù
Giờ đây ai gắng công phu hoàn thành?
Ai là người quên mình vì Đạo
Ai là người hoàn hảo vô tư
Để toan lái chiếc thuyền từ
Đưa người lỡ bước bây chừ ngẩn ngơ?
Nền Đạo mới trong cơ khảo thí
Kẻ Thiên ân thiếu chí mờ tâm
Gây nên muôn sự lỗi lầm
Con đường tận độ tối tăm mịt mờ
Nếu lần nầy trong cơ chọn lựa
Mà không lo lời hứa trọn lòng
Cõi Trời đường Thánh khó mong
Mà còn hình phạt giống dòng điêu linh.
Thôi Lão có mấy lời khuyên các hiền sĩ cố
gắng lấy công phu học đạo. Tâm được thuần chơn thanh tịnh thì ơn phước sẽ đến,
làm cho con người tu có một sự cảm thấu sứ mạng mà đặt lòng đảm đương, đặt phần
bảo đảm.
Bây giờ quyền pháp của cơ cứu chuộc lần
nầy, Thầy để dành mà trao cho con người đã chứng ngộ đạo pháp bằng công phu
khắc kỷ phục lễ, bằng sự xả thân cầu đạo, thì cơ tái lập sứ mạng mới hoàn toàn.
Vậy bây giờ đây các hiền cốt nhất là đặt
mình vào ở công phu luyện tập con người. Luyện tập cái ý cái tình cho chính
đoan. Có thế, tương lai nhân loại mới trông tựa vào mình.
Vậy tóm lại như vầy:
Khoan tính đừng lo chớ nghĩ dông
Nghĩ lo tính chuyện hóa bao đồng
Dẫu hơn thiên hạ đâu là Thánh
Sao được dẫn đầu để hóa mông
Hóa mông ta phải trước tu hành
Để được Trời người, được chứng minh
Lòng đã không không lòng Tạo Hóa
Bao dung tế độ dẫn quần linh
Linh đơn là thuốc rất nhiệm mầu
Thuốc ấy nơi mình chớ ở đâu
Do bởi công phu cầu giải thoát
Khi thành đem cứu khắp hoàn cầu
Hoàn cầu khốn đốn đợi chờ ai
Chẳng phải trí mưu chẳng phải tài
Giải cứu nạn đời nhờ pháp đạo
Ở người đắc chứng chỗ Tiên thai
Thôi Lão xin kiếu.
Có Trần Nguyên Chất đến chỉ đạo.
TIẾP
ĐIỂN
Chào chư hiền đệ.
THI
Đoái lại người xưa, nhớ cảnh xưa
Sao sao lòng Lão hóa không vừa
Công kia việc nọ buồn cho Đạo
Trông cảnh tang thương có thảm chưa?
Giờ nầy Bản Quân đến cùng các hiền đệ là muốn
đặt lại vấn đề lo toan để chuộc lại sứ mạng trung hưng. Cần phải lấy sự giác
ngộ làm yếu tố, lấy sự công phu giải thoát để bảo đảm cho mọi sự giao ước với
Trời và người sau nầy. Ai là người giác ngộ để làm của chuộc? Ai là người giải
thoát để bảo đảm sự nghiệp sau nầy? Chư Thiên Đồ chúng tôi nơi vô hình hết sức
để lòng cầu xin, để lòng vận chuyển, cùng nhau lân mẫn phò trì. Dầu sự nghiệp
không được vẻ vang bao trùm, cũng để đóng góp một vài công phu vào trang sử
đạo.
Sứ mạng Đạo Trời lần ba có bổn phận đến thế
gian làm cho loài người được sống, cõi đời được tươi, mọi điều mọi sự đã có
cũng đều được mới.
Sứ mạng ấy cao cả biết bao! Song hiện nay
người Thiên ân gánh lấy phần sứ mạng đó thiếu quyền pháp, thiếu công phu giải
thoát, thiếu giác ngộ ở lòng, nên hóa ra bước đạo dùn thẳng quanh co, nội tình
lắm điều chống trái, mờ tối, tai tiếng bay ra, cơ phổ độ không còn tác dụng.
Sứ mạng lớn lao kia nếu không phải ở Trời,
thì làm sao đủ sức bao dung, đủ lòng hóa độ. Trời đã chia cho người một phần
trọng hệ trong sứ mạng đó, để giữa Trời và người có một khối huyền đồng duy
nhất, làm cơ động tịnh, khai hội thăng bình.
Người cũng có quyền, song quyền ấy không vượt
ngoài phạm vi quyền pháp đã quy định nơi kinh luật. Người không vượt khỏi phạm
vi quyền pháp là người phục thiện, tháp tùng về đạo. Người đó là lương sanh.
Thầy mượn lương sanh mà dìu dắt quần sanh, thì lương sanh là hàng Thiên ân lãnh
đạo. Người lãnh đạo phải được chứng đạo, thấu biết cơ động tịnh của Trời.
Người Thiên ân là tinh ba trong đám nhơn
sanh, là người giác ngộ, lúc nào cũng ân cần giải thoát. Nên lãnh đạo nhơn sanh
là nhơn sanh trông cậy, nhơn sanh nương nhờ.
Tình ý trên Hội Thánh, dưới nhơn sanh có một
nồng nàn thân thiết. Hàng trên là Thánh, luôn luôn minh lãng vô tư, lòng lúc
nào cũng chứa chan sự thương đời mến đạo, làm đường cho nhơn loại vượt qua, làm
gương cho muôn người soi vào. Hàng dưới là hàng phàm tục, nương cậy ở trên,
trông về người trên, vâng nghe mọi việc để được giải thoát, để được ơn cứu độ
của Trời.
Ơn cứu độ của Trời, Trời phó nơi người Thiên
ân là quyền pháp. Thánh ý ban cho người Thiên ân là lời ngọc tiếng châu. Nên
người Thiên ân lấy làm quan trọng.
Đạo hư nên bởi đó. Cứu hay không cứu ở chỗ
nầy. Vì vậy Thầy mới chia mục đích làm hai phần. Phần đưa, phần rước. Cứu người
qua từng giai đoạn công phu. Trong chức phẩm thiêng liêng từ dưới lên trên có
một quy trình sắp xếp công phu tu học một cách hoàn toàn công minh, đều do
người giác ngộ để giải thoát. Cao thấp không do Thiêng Liêng hay hữu hình ban
cho, mà tự mỗi người lo lập vị. Vị cao thì đức rộng, trí huệ càng nhiều.
Nên một chức sắc chia giữ một địa phận nào,
làm một việc nào, không phòng lo ngại như các quan viên ngoài đời, lòng còn vô
minh, danh lợi.
Công phu tu học chương trình tận độ, từ lúc
nhập môn đến kỳ nhập thất. Qua thời nhập diệu để chứng vô sanh, để làm chơn Hiền
chơn Thánh.
Người tin đạo lúc nhập môn được Thầy mở
trường công quả, để tranh lấy pháp thí xả mà diệt tham dục, mở lòng bác ái mà
sống cùng trời đất chúng sanh. Khi công dày tội hết, mầm Thánh Hiền đã mọc nơi
tâm là điều háo nhân lợi nghĩa. Người đạo mới có chút hữu minh, có tình bác ái.
Không tham không nhiễm mới mong giải thoát cầu đạo vô vi. Đó là thời kỳ xuất
thế. Xuất thế là để tìm phương cứu thế.
Kỳ nhập thất không luận Thiên ân hay đạo hữu.
Song về Thiên ân quyền pháp đã buộc là từ hàng Giáo Hữu trở lên đều phải được
làm người xuất thế cầu học Thiên đạo.
Kỳ nhập thất phải trải qua một thời kỳ công
phu, hoặc lâu hay mau là do căn trí của người đó mà chứng được quả đạo, gọi là
nhập diệu. Có nhập diệu thì tâm mới minh, thân mới tịnh, tà chánh không lầm, thấu
được lòng người thông qua Thánh ý.
Người Thiên ân hướng đạo được như thế thì
quyền pháp mới tác dụng, Giáo Hội mới sâu rộng lâu dài. Nên sứ mạng trung hưng
được kết cấu các nguyên nhân, các yếu lý và các tinh ba để làm thành mười hai
chương pháp đạo, luôn phân hư thiệt, chỉ nẻo chánh tà. Dẫn lại lịch sử khai
giáo, nguyên ủy có các phái chi, rồi cho thấy tướng pháp là gì, tân pháp là gì,
cần được nhiếp lại hay phải chia đôi, để cho thấy chơn truyền cứu thế của Cao
Đài. Tuy nói là tả chi hữu dực nhưng mà thể dụng đồng nhất bất phân.
Với sự nghiệp nầy, nhơn sanh đã cùng nhau hết
lòng đóng góp bằng công phu công quả. Ai cũng mong xây đắp cho tương lai một
nền pháp đạo.
Thầy thấy lòng giác ngộ của toàn đạo nơi nầy
mà ban cho một Hội Thánh để được ngang hàng cùng các giáo phái, đặng có đủ điều
kiện đi lại kết tình huynh đệ đại đồng, nối mối thân hòa, mở đường duy nhất.
Sứ mạng đã về, quyền pháp đã ban. Hễ ai có
đức có công thì được dự vào hàng chức sắc. Song than ôi! Quyền mới ban, pháp
mới lập mà nội bộ lấy sau làm trước, quên đạo vì thân, ỷ ngôi cao thế đủ, lòng
thêm kiêu ngạo, không bình tĩnh cầu chỗ chơn lý sứ mạng. Thấy mình có quyền và
trí khôn ít nhiều đã lội qua sách vở. Ưng thuyết nầy thuyết nọ, ngó thuyết kia.
Nên Hội Thánh Trung Tông không được duy nhất tổ chức. Sứ mạng bị thu hồi, các
Thánh đều sững sờ. Bất ngờ việc làm muốn gần thành công, lại bởi một vài lý do thù
ghét cá nhân mà làm hư cả một cơ đồ vận mạng.
Bây giờ trong Hội Thánh, một số người là các
hiền đệ đây biết ăn năn sám hối, biết cầu giác ngộ để giải thoát quần dân, biết
dọn mình nối lại thông công, biết khắc kỷ cầu tu, cầu đạo vô vi độ đời hữu
tướng. Chư Thánh Thiên Đồ hy vọng đặt sự hộ trì và mong mỏi ở các hiền đệ lấy
thân mà gánh đạo. Đừng mượn đạo tạo đời. Dấu chân của các bậc hướng đạo đã qua
còn in đó sờ sờ. Biết bao người hư hỏng vì cậy mình tài trí, nhác tu biếng học,
quy giới sơ sài, khác chi thầy mù dắt cả bầy đui, biết đâu là bờ bến.
Nên muốn cáng đáng việc đời, đảm đương việc
đạo, ta nên cẩn thận lấy ta. Nếu chưa phải sáng suốt hơn ai, đức còn bạc, hạnh
còn thô, thì có giúp đạo gánh đời cũng là gây thêm phần rối loạn.
Thôi đồng nhọc, các đệ giữ lấy tinh thần. Bản
Quân xin tạm lui.
Kể từ
ngày một số Thiên ân hướng đạo hướng về tịnh luyện đã “ra riêng” nơi nhà tịnh.
Rồi theo ý của Thiêng Liêng, các vị vào thọ pháp Chiếu Minh tại đàn Chợ Lớn,
lòng họ luôn cầu mong được Ơn Trên dìu dẫn hợp theo sứ mạng của người công vụ
sứ đồ. Cho nên các vị luôn nối nguồn thông công để dò Thánh ý. Điều mà các vị
mong mỏi là được Đức Lý Giáo Tông ban ơn quyền pháp, nhưng mãi cầu mà Ngài vẫn
vắng bặt. Sau khi thọ pháp ở đàn Chợ Lớn về, các kỳ lập đàn, các vị lại cầu
mong Đức Ngô Tôn Sư giáng lâm huấn đạo mà vẫn chưa được thỏa nguyện. Nhân ngày
lễ thành đạo của Người, các vị lập đàn khẩn cầu và được chứng chiếu.
Tịnh Đường,
đàn ngày 13-3 Nhâm Dần (17-4-1962):
THI
NGÔ đàn tiếp độ khách nguyên căn
CAO cả ai người rõ giáng thăng
TIÊN Phật muốn thành lo giải thoát
Mừng vui đạo pháp mỗi ngày tăng.
Chào mừng chư đệ tử. Giờ nầy Bần Đạo được vui
mừng chứng thấu lòng thành của toàn đạo đó đây chung trong ngày kỷ niệm.
Ngày nầy Bần Đạo hằng năm mở kỳ ân tứ cho
mười phương quốc độ, nâng cao quyền pháp cho cả môn sanh, đặt lòng cầu xin Cha
Trời một đức háo sanh ban kỳ đại xá.
Chư môn đệ nơi nầy cũng như mọi đàn tu trong
Tông nội giáo, gắng để lòng sớm tu lấy công phu, công quả để cầu chứng diệu
giác viên minh. Trên nấc thang cửu phẩm thiêng liêng, có Bần Đạo đưa tay luôn
luôn dìu dẫn.
Bần Đạo đặt tin tưởng ở bao nhiêu cố gắng của
các trò. Tuy đã biết muôn dặm tiền trình, các trò còn phải trải qua nhiều quãng
đường hiểm nguy khó nhọc. Sự khó nhọc mà chẳng nản lòng. Đó cũng là một sự ban
ơn. Phần thưởng xứng đáng kia nếu không phải người có trí tuệ quang năng, ý chí
mạnh mẽ, tinh thần dồi dào, lòng đại bi đại hùng làm sao mà được lãnh.
Thầy đâu muốn hành khổ các con chịu vất vả
trăm đường, đắng cay nhiều nỗi. Song không lấy gai lể gai, mượn khổ mà giải
khổ, thì chừng nào trò mới hết nợ oan trái tiền khiên?
Hôm nay Bần Đạo không cần lấy lời an ủi nhủ
khuyên, mượn điều khuyến dỗ, mà nói thẳng cùng các trò. Các trò phải quyết dứt
sạch danh lợi thế tình, một lòng giải thoát mà cầu lấy đạo trường sanh. Cầu lấy
chứng nhập diệt. Cầu được cái tâm vô thường bồ đề. Cầu ở nơi tu chứng cùng với
Trời đồng nhất, sống trong lẽ thật tự do, đạt cho thấu đạo pháp Thiên cơ. Chừng
đó sẽ tính bề mở đường tận độ. Chớ các trò còn cầu đó mến đây, thân có một mong
gì được trọn. Hẳn ta nên dứt khoát đi, thì tâm mới vắng lặng trong sáng như
nước tịnh bình. Nếu còn bận nghĩ nặng lo, pháp thanh tịnh nương đâu mà chứng?
Bởi vậy, người tu từ trước đến bây giờ, nếu không phải nguyên căn thì khó thành
quả đạo.
Lòng giải thoát của người cầu đạo, đều nghĩ
những cái gì đồng chung cùng với bản thân, hoặc con hoặc vợ, hoặc của tiền
ruộng trâu. Cái nầy cái nọ đều là huyễn hóa nghiệp oan. Nên lắm lúc cần hy sinh
đến tánh mạng, cũng vui lòng. Tình nghĩa lợi danh cái gì? Cái gì mà không thí
xá! Vợ còn cho, con cũng đoạn, còn có cái gì mà còn để bám theo mình? Lòng thí
xá để khử diệt tánh tham. Học thanh tịnh để trừ sân mê vọng loạn. Sao không soi
gương trước, không học người xưa, mà tiến bước men chân về cùng Tiên Phật, lại
cứ bo bo tranh chấp việc thị việc phi.
Tất cả những giống hữu hình ở khắp đó đây,
đều có một sự trông nom, một sự định sẵn. Không để ai chịu thiệt thòi, phải cam
tẻ lạnh, mà ở đâu vào đó đều sắp đặt an bài. Các trò cũng trong số hữu tướng
đương sanh. Một cá nhân đang cầu tiến, đang quay mình trở lại với quyền pháp
nước Trời; đang đứng lên hô hào trong đám mê man cùng mình tỉnh cơn giả mộng; đang
loay hoay tìm những bạn đồng đức đồng tính; đang quanh quẩn nghĩ một phương gì
để giải vây cho nhân quần ra vòng tội ác; đang cầu ông tài bà trí, nhờ thuật
cậy quyền. Song đối với công lệ nhân quả xoay tròn, chưa dễ lấy sức người mà
phóng xá được người. Người trong đó trông vào trò, vì trò thương mà lo, vì trò
thân mà tính. Tính lo như vậy bởi một niệm lành. Đó là vốn liếng của mình nên
bây giờ bị kẻ cướp đi là không nguội tịnh. Mất một nhóm người, nhiêu đấy chưa
quan hệ cho bằng mất một người giác ngộ nên Hiền. Một người đã đắc đạo thành
Tiên thì bốn biển cũng đều nương nhờ mà sạch lòng tội lỗi.
Sứ mạng gì mà mong, quyền pháp gì mà mơ. Nếu
công vụ sứ đồ còn ẩn náu, làm sao đem lại an ủi hòa bình cho ai? Nên các trò
gắng tu. Đặt mạnh mẽ trong công phu khắc kỷ giải thoát, trong công phu luyện
thuốc nấu đơn. Ngày được nên rồi sẽ thấy sứ mạng ở mình mà mình thiết tha cứu
độ. Quyền pháp ở trong lòng đầy đủ hiện ra muôn vẻ oai nghi, sắc mặt vui tươi,
con người mẫn cán. Lòng ai không mến mà noi giữ lối bước nước đi. Quyền pháp đó
mới linh thiêng, mới cảm hóa cả đám mê trở về lòng giác ngộ.
Đây, Bần Đạo nói cho các trò biết rằng lâu
mau cũng có ngày hiệp lại. Đường tu tùy đó mà dìu dẫn bạn đồng hành. Công việc
gay gắt mỗi ngày đến cho các trò cũng là một dịp thử lòng vàng đá thấp cao. Một
dịp nữa là để tỏ tấm lòng thành tự giác, giác tha để cho Thầy và nhân sanh định
phần công quả. Về công vụ Thiêng Liêng đã giao phó cho là một phần thưởng trong
công việc xây dựng cho tương lai sứ mạng phục hồi. Song trong mọi cố gắng của
mình và bạn đồng minh chí hướng, chẳng may chưa sớm được huy hoàng, hoặc gặp
phải trở ngại khó khăn mà bị tổn phí nhiều công phu, việc còn lỡ dở cũng đừng
lấy đó làm phiền. Hoặc một ngày gần đây, có sự điều đình giữa đôi bên để trở
nên một quyền pháp thì tùy đó. Song cũng giữ lời hồng thệ mà tu, giữ lấy cơ sở
nầy mà học.
BÀI
Trò đời giải thoát cầu tu
Thiệt thòi nhẫn nhục giả ngu mới thành
Nghe Thầy mới được trọn lành
Cãi Thầy phải chịu cam chanh suốt đời.
Nghe Thầy thì được về trời
Cãi Thầy sanh tử luân hồi chẳng thôi
Nghe
Thầy muôn sự cho thôi
Để thân
thanh tịnh mà ngồi công phu.
Ngày
nay biếng nhác không tu
Làm
sao mong mỏi cứu nhau hội nầy
Đặt
lòng tin tưởng ở Thầy
Bao
nhiêu tai họa như mây tan dần.
Phước
che đức chở gắng công trình
Huệ
kiếm sẵn cầm đoạn tử sinh
Đàn
nội trông về lòng tẻ lạnh
Nhớ lời
Thầy dạy phải đinh ninh.
Đinh
ninh giữ một lòng tu
Giữ
còn giao ước công phu mới thành
Giữ sao em chị cho lành
Cho lòng giải thoát thép đanh trọn thề.
Cùng nhau trên dưới đề huề
Giữ còn quyền pháp mà về với Cha
Từ lâu Thầy đã thiết tha
Dặn dò những lúc quanh co bây giờ.
Đàn Tiên cạn điển vắng cơ
Nương đâu để được cậy nhờ chở che
Bây giờ ai phái ai phe
Phái phe chừ phải biết nghe bên nào.
Lòng trò ngơ ngẩn xôn xao
Trông ra chồng chất, ngó vào ngổn ngang.
Bây giờ thế phải tự toan
Khai thông cho được con đàng mà đi.
Lòng trò đừng ngại đừng nghi
Vô vi là pháp, vô vi là Thầy
Vô vi mới được vui vầy
Vô vi trông đó đủ đầy huyền cơ.
Nếu lòng thế tục không mơ
Trọn tâm giải thoát đón cơ nhiệm mầu
Lo tu thì được chục chầu
Không tu sao thấy được đầu được đuôi.
Thuyền từ thả mặc ngược xuôi
Đến khi trở lại ôi thôi nhọc nhằn
Lời Thầy trò gắng mà phăng
Mặc lòng để nhuộm trắng đen tự tình.
Quyết lòng còn cậy Thánh Linh
Thánh
Linh ban phép hoàn sinh cho trò
Bằng
lòng thối thác biếng lo
Thế
gian để mặc tự do lấy lòng.
Sống
còn trong cảnh long đong
Trông
cơ họa phước chập chồng chẳng yên
Trò
Tiên cậy có phép Tiên
Chẳng
ai mượn thế cậy quyền được đâu.
Muốn
cho biết lẽ nhiệm mầu
Chuyển
đi cơ Tạo mới hầu nên danh
Khuyên
ai chí kỉnh chí thành
Lặng
lòng sẽ thấy ơn Xanh hội nầy.
Nầy
các trò ơi gắng giữ lời
Dinh
hư, tán tụ mấy nhiêu hơi
Gác qua sự thế lo tu gọn
Mới được an vui thấy nước trời.
Trời Phật hằng lo cứu nạn đời
THI ân bố phước khắp nơi nơi
SINH dân là ở lòng nhân thiện
CƯ tọa đơn tâm biết ý Trời.
Trời không muốn thấy khổ nơi người
ĐÁNG để người người được tốt tươi
TOÀN cả trông về ngôi tận độ
Vạn duyên sạch trọn, đức bày phơi.
Về việc cơ đàn dạy cho trung hưng chánh pháp
tưởng phải tạm một nơi khác hoặc thánh thất, thánh đường hoặc tư gia, tư thự để
tiện bề chư Phật Thánh diễn giáo, phân bổ công vụ hành trình.
Việc Thầy cho lệnh trước thì các trò cần
sắp xếp để tạm thời cho Liên Hoa được an dưỡng, tránh bớt sự khảo thí. Chừng đó
sẽ cùng nhau mà hòa hiệp bước đời, chung cùng sứ mạng. Còn đàn tịnh mà dạy về
phần động ví cũng trái quyền pháp, mất nhiều thời giờ của các trò mà trên sự bổ
khuyết pháp môn cũng khó bề giáo hóa.
Vậy các trò nhớ mà tuân theo. Đàn cơ nơi
đây chỉ dùng vào hai việc. Một là duyệt phần công phu. Hai là giáo pháp phần
siêu hình thiên đạo.
Thôi chào các đệ tử. Bần Đạo ban ơn và gởi
ơn cùng toàn đạo.
Tuy
không hoàn toàn “kín ngoài rồi lại kín
trong” nhưng các vị ở giai đoạn một trăm ngày tu cơ bản vẫn giữ thế im lặng
theo hạnh tu vô vi bí pháp, đồng thời cố gắng duy trì việc thông công để nghe
Ơn Trên chỉ giáo. Riêng Tiếp Cơ Quân Liên Hoa thì muốn tạm nghỉ việc lập đàn để
tránh sự công kích, nhưng các vị không dám đi ngoài Thánh ý nên vẫn quyết lập
đàn liên tục, nhất là đã đến thời điểm đủ bá nhựt trúc cơ.
Giáng
đàn giờ Tý ngày 01-4 Nhâm Dần (04-5-1962), Đức Ngô Cao Tiên ban cho bài thơ lục
bát dạy về đường tu, hạnh tu… và đề cập kỳ bá nhựt của các vị:
Trò
đừng lấy ý so cân
Ý
người nào rõ xa gần nên hư
Rằng
sao cho ý vô tư
Cho
thân giải thoát an cư ở Thầy
(…)
Lo tu dìu bạn đồng tình
Mượn đôi phép tắc giữ gìn cho nhau
Chung quanh còn có biết bao
Chờ trông đón đợi ngày nào trò nên
Nên nền nên móng ở công lo
Lo đắp lo xây vững chắc trò
Bá nhựt công phu ơn chứa chất
Tiến lên kiến thiết bửu tòa cho
(…)
Công phu bá nhựt được rồi
Ba năm tám tháng cũng bồi theo đây
Miễn
sao trò sống trong Thầy
Vị
lai quá khứ đủ đầy biết bao
(…)
Gần
đây cơ đạo rối răm
Các
trò thanh tịnh tu chăm lấy lòng
Lấy
lòng thanh tịnh trắng trong
Bao
dung che chở ngoài trong đồng bào
Thi
hành đạo đức giúp nhau
Để
cho kẻ trước người sau một đường
Trên
Thầy chan chứa tình thương
Dưới
trò trì chí đảm đương hội nầy.
Việc xin bá nhựt vẫn còn dùng dằng chưa
quyết nên một tuần sau, các vị lập đàn tại Tịnh Đường ngày 08-4 Nhâm Dần (11-5-1962):
THI
GIÁC
ngộ làm Tiên chẳng khó gì
MINH
tâm kiến tánh thấy vô vi
KIM
Bàn mở hội chờ ta đấy
TIÊN
Phật muốn thành cố gắng đi.
Chào
chư hiền hữu đạo tràng.
Giờ
nầy Bản Giác ghé về đây với một hoài bão từ lâu trông thấy một ngày Đạo Trời
được mở mang với một tinh thần rộng rãi, để hầu đón độ nguyên căn còn nằm bên
kia hàng rào nhơn ngã, còn ở trong thành kiến dị đồng. Nếu không đập phá những
bức tường kiên cố mà lòng vị kỷ của loài người đã xây đắp, thì bao giờ cho nhơn
loại gặp nhau? Chừng nào mới thực hiện chữ từ bi, bác ái, bình đẳng, đại đồng?
Nhơn loại chưa giác ngộ đến chỗ quán triệt nhứt thể huyền đồng thì dầu cho nói
văn minh khoa học tiến bộ, dầu cho nói tôn giáo phát triển mạnh mẽ cũng là thay
sắc đổi màu của sự trá hình, thời cổ sơ sống lại.
Thế
giới loài người hiện nay cần một tôn giáo dung hòa, trong đủ lẽ sống tình
thương và sự thật để mở một kỷ nguyên đời mới. Ai cũng được che chở trong bàn
tay quyền pháp tối thượng đại từ của Chí Tôn. Nhơn loại chờ đợi trông mong, ước
vọng mãi mãi ở lòng tin phải có một Thần Lẽ Thật ở nơi thế giới bên ngoài đến
đây mới mong hồi sinh cho bốn biển, chấm dứt được sự tranh giành ghen ghét ở
thế gian.
Nếu
không bởi Người, thì trên mặt địa cầu nầy còn có ai để cho nhơn loại trút được
nỗi lòng, nhận lời an ủi mà vui sống với số mạng con người? Vì ai ai hiện nay
cũng đều nằm trên vỉ, trong lò lửa, sức nóng mỗi lúc càng lên cao. Mặc dù phải
khổ phải đau đớn nhiều đường, song cũng tin tưởng Thần Lẽ Thật sắp sang qua nơi
cõi tội lỗi, để cứu khổ cho muôn loài, đem sự công bình cho dân cho nước.
Ngoài
Người ra thì ai ai cũng mang đầy nơi lòng những gươm đao, kế độc, mưu thâm để
toan sát hại. Dầu cho người tôn giáo cũng không tránh được. Mỗi hơi thở cũng
khạc ra những ngã chấp, thị phi đầy dẫy trên từng cao hơn của thế tình. Một sự
chớp nhoáng, gầm thét đủ sự bất chính bất hòa. Nói đạo kém đạo hơn, đây chánh
đó tà, thì bảo sao không giục lòng nhau thêm sóng gió? Song những người của thần
rẽ chia, của thần nhỏ hẹp quá mùa. Đã đành có giọng chua ngoa, có lời khiêu
khích, có lòng vị kỷ, đố hiền tật năng, thì cũng chẳng nói làm gì.
Ngặt
đám môn đồ của Thần sắp đến – Thần Lẽ Thật – sẽ thực hiện quyền pháp của mình,
mà làm cho đâu đó không còn ranh giới rẽ riêng, không thấy bất bình oan khúc.
Đường lối rộng lớn, việc định mênh mông, chương trình không tiền khoáng hậu.
Thế mà các trò đương thay Người mà giữ mỗi địa phận, làm một việc quyền pháp
của Người, mà cũng chưa gột sạch những phàm tình, không ứng thời hợp sự, không
xô đập những thành trì ranh giới giữa loài người, không lấp bằng các hố chia rẽ
giữa nhau trên mặt đất, mà lại còn tô phết cho dày, đào vét thêm sâu, thì có
phải là trái với Đạo Huỳnh của Thần Lẽ Thật đó chăng?
Đây
cũng vậy. Một mối đạo do bởi nơi Trời mà ra, song đến cõi nầy lại có nhiều sự
rẽ riêng, nhiều nơi phát xuất. Cùng chung một Đạo, cùng chung một Thầy thế mà
chẳng ai giống ai, chẳng ai làm đúng lời Thầy đã dạy.
Đạo
Trời từ bi nỡ nào nhìn những cảnh hẩm hiu, tẻ lạnh giữa đồng đạo. Những phái
những phe, kẻ ít người nhiều, cũng giữ lấy phần giáo tổ. Ôi! Đạo ra đời chưa
được mấy nhiêu hôm mà xé nhỏ xé to không biết bao nhiêu tổ đình, tổ chức… Tôn
chỉ, mục đích một nơi mà việc làm một ngả, bảo sao sự lớn không bị hoại ngửa
nghiêng. Danh nghĩa Đạo Trời vì đó mà vùi sâu dưới bao nhiêu bụi cát.
Bây
giờ đây các hiền hữu trực truyền với giáo pháp vô vi phải luôn luôn cẩn thận.
Dầu nhỏ như nửa lời, dầu bé như kẽ răng cũng còn đo đắn cân phân, há đến việc
tương quan giữa Trời, giữa người thì sao không kim chỉ?
Người
mà đã được Thần Lẽ Thật ban trao quyền pháp thì lúc nào cũng nhắm vào lợi ích
cho loài người. Nếu bốn biển còn gặp nhiều khó khăn đi lại với nhau hoặc bằng
cách nầy hay cách khác thì bổn phận của ta là phải làm thế nào cho đâu đó thông
đồng. Nếu trở ngại vì thành kiến thì cố phá xô. Nếu trở ngại vì chủ trương thì
nên minh giải. Đôi khi trở ngại ấy bởi mình mà ra thì là một việc quá buồn cười
đó. Nên kẻ đứng trong nội thành của Thần Lẽ Thật thì bao giờ cũng thể hiện chút
ít lòng quảng đại của Người. Dù chưa được nên Thánh nên Thần cũng phải làm một
Hiền Nhơn mới đương vi sứ mạng.
Vậy
tóm lại, Đạo Trời Kỳ Ba nầy đã đem sự lành mạnh cho thế gian. Cái gì tật nguyền
hư hỏng là cái bệnh của thời đại, nên diệt trừ. Nhưng các hiền hữu nhớ rằng
mình là kẻ đi diệt trừ tật bệnh, song chính bản thân là người bị bệnh hơn ai.
Vì vậy, đó là chỗ trở ngại lớn cho cơ cứu rỗi vậy.
Bây
giờ các hiền hữu đi cùng tôi đến xem một hoa viên ở trước đây. Họ đã kiếm các
dị thảo kỳ hoa ở gần ở xa, ở Trung Hoa và Ấn Độ. Coi kìa, đủ chồi non mới nứt,
cội lão đương còn. Cụm thì đỏ, cụm thì vàng, bông thì đủ màu, cây kiểng thì đủ
kiểu. Bây giờ các hiền hữu tưởng tượng mà xem qua, thấy cái đẹp của nó chỗ nào?
Cái nào mình ưa thích nhứt?
Một
là cách trình bày. Hai là màu sắc. Ba là hương vị. Thế trăm hoa hiện hữu, bẻ
hoa nào? Sen, cúc, lan, đào và các thứ dị hương kỳ thảo?
[Bạch …]
Phải
chung nhau mới đẹp. Chớ không thể hái riêng mà có đẹp sao?
Đã
hiểu tôn chỉ, mục đích Đạo Trời là vậy thì cũng đừng ôm ấp một phần nào mà mất
cái đẹp chung. Đạo Trời biến hóa mà ta cố định, ta phải tiêu tan. Hoặc
vì thiên ái hoặc vì pháp luật mà chẳng thấy chỗ nhiệm mầu.
Bây giờ cơ tái lập để xây một viên gạch đầu.
Viên gạch được đặt nơi nào, thì nơi đó sẽ có một lâu đài cao ngất, một chỗ muôn
mắt trông xem. Nào dinh thự, nào giáo đồ, nào giống Thánh con Thần (...). Vậy
ai là viên gạch? Viên gạch phải đặt vào đâu? Nơi đâu được đặt xuống? Ôi! Bao
nhiêu câu hỏi quẩn quanh, song việc làm chỉ được hay không là ở lòng người tất
cả.
Vậy hôm nay Bản Giác đến để báo tin cho chư
hiền hữu. Ngày gần đây, Thầy sẽ mở một kỳ thi, chọn lấy một nơi đặt gạch. (...)
Nhân loại đương đòi hỏi, đương trông chờ, đương khổ đau cần có thầy có thuốc.
Vậy sứ mạng trung hưng đã đặc biệt đứng trên cương vị thuần chơn vô ngã, bất
thiên bất ỷ. Xây mối đại đồng đâu nói chỗ này mà ra, chỗ kia mà lập. Vì rút
được tinh ba đạo pháp, nối lại hai mối xuất nhập của Đạo Trời, thế đạo lập, thiên
đạo thành. Lập là mầm sống hiện sanh để cõi thế thành Bồng Lai tại thế, an
hưởng đại đồng. Lòng đạo không còn tham, sân, si, mạn, thì đó là pháp môn liễu
giải tử sanh, mở đường cho cơ siêu rỗi.
Vậy nơi đây các hiền hữu muốn làm việc lớn,
trước phải lo việc nhỏ. Việc nhỏ là việc trong nhà, giữa anh em bậu bạn với
nhau, phải được đồng chí đồng đức như Lưu, Quan, Trương. Được vậy sau mới có Từ
Thứ, Khổng Minh, Phụng Sồ, Tử Long, Mạnh Đạt. Có Lưu, Quan, Trương là có sự
nghiệp nhà Hán, có đất có dân. Dân có không phải có như của trong nhà, mà có
nhơn kiệt anh hùng thì có dân có nước.
Đạo pháp cũng vậy. Bây giờ chưa có dân có
nước, có bạn thánh tôi hiền, là chưa có hướng đạo trung kiên. Chưa có tấm lòng
của Lưu, Quan, Trương ngày trước, thì dù có dân, dân cũng bỏ mình. Dù có nước,
người cũng chiếm.
Vậy sự gặp nhau đây cốt để làm chi? Cũng phải
có một mục đích một chủ trương. Không lẽ ngán đời mà ẩn dật. Nếu lập thân tu
học thì phải có một chương trình kín đáo, ý nhị khác hơn. Bằng có chi giúp đạo
cứu đời, thì sao không có một đường lối với nhau mà đi tới. Đi đường nào cho
phải? Cứ như Lưu, Quan, Trương, lúc còn hàn vi. Chỗ nào cũng chỗ dung thân của
quân tử, cốt để đợi thời, đâu lấy đó làm vinh, đâu nhận đây là chính.
Cũng vậy đó, Tiên Thiên, Tây Ninh, Chiếu Minh
đâu phải là cứu cánh của loài người, vì đó là cái danh từ. Danh từ thì có chi
mà chấp. Cần tiến sâu một bước nữa, để sáng tỏ mối chơn truyền. Nhưng được sáng
tỏ rồi, phải làm sao cho đêm tối trong loài người được sáng soi, cho lòng mình
và lòng bạn không hai, để hòa với một.
Bây giờ và lúc nầy, cả một sự quan trọng vô
cùng. Xuân hoa không kết, thu quả đâu có. Lúc nầy không tiến lên thì lúc nào mà
được đặng. Ở trong nội đàn nầy chưa quyết vào đâu, tuổi tên chưa có. Song chẳng
mấy người mà chẳng biết người nào là chủ thì việc làm mới định liệu làm sao?
Bây giờ nên chọn một người làm chủ, hay bạn nào đứng ra lãnh lấy nhiệm vụ người
chủ để có người dẫn đạo, có người phải theo. Có chủ thì mọi việc ở Trời có chỗ
ban trao. (...) Lớp có thầy, trường có hiệu trưởng, nhà có cha, trại có chủ,
khách đến mới biết hỏi ai. (...) Vậy bạn nào chịu gánh thì quyền pháp mới ban.
Khi được ơn dày thì dầu muốn dầu không, buộc toàn hội phải nghe theo không được
cãi.
(…)
Việc xin đi thọ bá nhựt thì không gì trở
ngại. Ngại là việc nỗi lòng của hiền hữu Liên Hoa. Lòng chưa quyết, vì những lý
do đạo pháp ngừa giữ cho bước ngày mai. Song người môn đệ Chiếu Minh nắm chặt
khuôn hình, không hay biến hóa thì hai đàng chắc chẳng gặp nhau. Song còn có
nơi Thầy; việc nào Thầy tính thì được cả.
Về việc đi thọ truyền bí pháp thì giữa lúc
khảo đảo nầy tùy sự nhận thức và bảo đảm cho nền móng ngày mai thì cũng do các
hiền ngó xa mà quyết định.
Về đây Bản Giác thấy rõ con đường trung đạo,
mỗi vị nhận thức mỗi cách, cách nào cũng hay. Song cái hay chưa kết cấu thành
hình mà đó chỉ hay bằng tiếng khen tiếng gọi.
Đã vượt
qua kỳ trúc cơ bá nhựt, các vị vào hành trì ba năm tám tháng để vượt qua Nhứt
Bộ. Các vị luôn đặt thân trong tĩnh lặng, tâm trong chánh niệm, y hành theo
thao tác và kinh chú trong tứ thời. Các vị cố gắng duy trì đàn cơ thông công để
nhận huấn đạo của Ơn Trên. Do theo chỗ các vị chí thành cầu pháp, cầu tu để
chuộc lại lỗi lầm, tiếp tục sứ mạng trung hưng chánh pháp, các Đấng đã ban ân
điển vận chuyển lộ trình tu chứng cho thánh chúng thuận tùng.
Đàn ngày
01-5 Nhâm Dần (02-6-1962), Đức Thượng Chánh Phối Sư Trần Hưng Đạo dạy (trích):
Hôm nay đến đây muốn đặt lại một chương trình
để chuộc lại sứ mạng, cứu lấy đoàn người hữu công thiện chí và mong sự cố gắng
để hoàn thành chánh pháp, khai hội Long Hoa, Bản Thánh không đủ thời giờ nói
qua lý do tái lập cơ trung hưng, lần lượt sẽ hướng dẫn chư hiền đến một trình
độ đạo đức khả dĩ thành công.
Bản Thánh giờ nầy vâng lệnh Giáo Tông đến gắn
cho các hiền một nhiệm vụ mới, một chương trình mới, để các hiền cùng nhau
chung sức mà hoàn thành, chung lòng mà tu học cho nên người giác ngộ.
Sự nghiệp trung hưng chánh pháp đã tạm rút
gọn vào đây, một hình thái đơn thuần vừa tiêu biểu pháp quyền, vừa dọn đường
giải thoát cho bản thân cá nhân. Quyền pháp được tiêu biểu cho một nền đạo mới,
gốc ở người Thiên ân trọn lòng thánh đức, nên cần phải tu chứng pháp môn, tâm
minh trí sáng, cảm được lòng Trời ý Thánh, thấu được sự lý nhơn tình, để đưa
rước người lập lại an ninh cho bốn biển.
Bản Thánh đặt vào hai việc. Các hiền gắng
tuân theo.
Về phần thông công. Trong lúc nầy để được vừa
tu vừa học, thể lòng cầu xin của Liên Hoa, nên sứ mạng giáo pháp tạm thời ban
cho Tá Cơ một nửa để cùng Liên Hoa hoàn thành công cuộc xương minh đạo đức.
Về xây đắp một nền giáo pháp, chia ra hai
phần. Phần chấp hành thì dĩ nhiên ở các hiền thường trụ tại cơ sở nầy để xuất
phát cơ mưu cho hàng hộ trì giáo pháp. Hàng hộ trì giáo pháp là người được chọn
làm nền tảng trung kiên cho sự thành hình cơ chỉ chánh truyền. Nên hàng người
ấy cần có một tinh thần tu kỷ ái tha, luôn đặt mình lên hàng Thiên Thần để được
xứng mặt khâm mạng cho quyền pháp. Nên số nầy lấy mười hai người; mỗi người cố
gắng tìm thêm hai người của mình để có một đoàn, có một chương trình vừa tu vừa
học. Đoàn nầy xây dựng thành an lạc địa một nền giáo pháp tượng trưng cho danh
nghĩa Trung Hưng. Nếu sứ mạng này được biểu hiện ở việc làm thuần nhứt của chư
hiền, trên con người thuần hòa độ lượng, lời nói chất phác chơn thành, toàn đạo
sống trong cảnh hòa thân, thi thiết trên chương trình Phước Thiện. Vậy muốn có
một Ban Giáo Pháp được ban quyền, thì trước chọn người và củng cố đoàn hộ trì,
rồi sẽ ban cho một đàn cơ đặc biệt.
Đàn ngày
02-5 Nhâm Dần (03-6-1962), Đức Cao Đài Tiên Ông giáng dạy (trích):
Thời u ám cậy nguời thánh đức
Đời loạn ly nhờ sức thần thông
Đem nhau tới cảnh đại đồng
Đem nhau về tới Non Bồng mới vui
Song trước phải có người giác ngộ
Phất đạo kỳ hướng lộ nhơn gian
Nơi đây thành một đạo tràng
Thành ngôi bát nhã mở đàng vô vi.
Thầy muốn cho các con sớm kịp kỳ thi mà buộc
lòng phải đưa ra nhiều bài vở mắc. Hối con học, bảo con ôn, may ra được đứng
trong số chọn, thì sự mong mỏi của Thầy, phần cố gắng của con tưởng cũng thỏa
nguyện lắm.
Con ôi! Đường nào cũng chọn lấy một mà thôi
để có một chương trình tiến tu trong công vụ. Công vụ cần đòi hỏi con người
giác ngộ nhận lấy một phần trong công tác. Không nên để cho vô minh ám ảnh rồi
việc gì cũng không dứt khoát. Nói rõ cho con làm, con học, con tu. Làm mà đừng
xen cái ngã mạn để cho sứ mạng trọn ở vô vi. Học để cảm thấu sứ mạng trọn ở
chánh pháp hiện nay đặt ở trên con người chơn tu giải thoát. Tu để tìm lại cái
sở hữu đã có, tìm về với lòng vô ngã thuần chơn, thiệt tâm cầu lấy chánh pháp.
Thầy sẽ ban cho một chuỗi hồng ân. Mà phải tu
như vậy mới khỏi hoài công, khỏi phụ ơn Thầy giáo hóa. Các con cứ khư khư câu
chấp vào sứ mạng trung hưng. Phải nghĩ cách này cách kia đặng cứu đời cứu đạo.
Thầy nói thiệt, không cứu được mình đừng mong cứu được ai. Con người của các con
còn tham sân dục vọng, thì có đương nhiệm một việc gì cũng là một cái họa giết
người. Giết bằng cách tinh xảo hơn kẻ cầm gươm nắm súng.
Các con thiệt tu, gắng tu, thì sự nghiệp và
công đức này còn để cho hậu thế, còn gởi gắm tình thương lẽ sống ở đồng đạo bao
kỷ niệm mỹ miều. Bằng các con lớ xớ mãn ngày bàn chuyện người, tính chuyện đạo
mà sân tâm dục ý khởi lên, sao tiếp được hồng ân pháp đạo? Thanh tịnh sẽ được
chuỗi đạo pháp giải thoát, chứng được quả vô lậu niết bàn. Giác ngộ sẽ gặp lại
con đường vô vi trung hưng chánh pháp.
Trước
khi thăng, Thầy dặn ngày mùn 8 lập đàn để Thầy dạy tiếp. Nhưng đàn lập tại Tịnh
Đường ngày 08-5 Nhâm Dần (09-6-1962) thì Thầy không giá ngự, mà là Đức Lý Thái
Bạch:
Đường trào ngày tháng chuộng thơ văn
Gác mối lợi danh ngắm gió trăng
Chén rượu vần thơ quên thế sự
Trăm năm chi nữa thú thanh nhàn.
Chào chư hiền đệ, hiền muội.
Lội qua mới biết thấu chơn tình
Phải phải không không cũng đáng khinh
Quay lại cảnh xưa lòng nhẹ nhẹ
Khoác màu thanh đạm thấy linh linh.
Đức Lý dạy
tiếp (trích):
Đến đây gọi chút dặn dò
Trên đường sứ mệnh cam go gắng thành
Đừng lơ lửng thân danh mai một
Đừng trù trừ dịp tốt trôi qua
Gia
công tu học thiết tha
Thương
yêu lấy chúng, thuận hòa giữa nhau.
Sau 118 câu thơ, qua phần tản văn Đức Lý
dạy (trích):
Vậy
các đệ gắng làm vô vi, gắng thi thiết thanh tịnh, gắng tính gắng lo các pháp
bình đẳng, hòa sống cùng mọi người, vạch một chương trình tu học. Từ đây Thầy
sẽ mở một đạo tràng dẫn bước cho người làm Thánh. Xây dựng có một số Thánh số
Hiền để phân phối công vụ quyền pháp, hầu rao truyền sứ mạng, hoằng pháp lợi
sanh. Xây dựng một nhà tu, đặt lại vấn đề tổ chức, chỉnh lại các lệch lạc bởi người
và hoàn cảnh uốn nhồi. Nối chắp các mối chưa được gặp nhau. Mở một con đường
bốn biển cùng đi, pháp quyền cùng một, nguyên lý cùng chung. Giáo pháp trong
Tam Giáo Cửu Lưu cũng không ngoài không khác. Lúc đó con đường trung đạo sẽ
hiện ra. Hiện ra với một sự bất ngờ, ai biết ai hay. Mà chính các đệ đây là
người trong sứ mạng cũng không sao thấy được người như thế nào, hoặc nhận như
vầy như khác.
Con
đường sứ mạng muốn được nối tiếp cần phải dốc chí lập thân làm những con người thánh
hiền, quân tử. Có làm được thánh hiền, quân tử mới xứng đáng đương vi trọng
nhiệm, mới xứng vị đứng trước muôn người, mới xứng tài ngồi trên sân trào chỉ
huy văn ban võ bá. Có quân tử mới dẹp được bầy tiểu nhân, có thánh hiền mới an
bang tế thế. Đã là học thánh hiền thì đừng nệ, đừng chấp nhứt nhỏ nhen. Phải có
đức khoan hòa, phải có lòng trung chính, phải có chí nhẫn nhục cương kiện.
Không vì một bầy ó, một đàn quạ mà chim hồng, chim hộc phải xuống đua tranh
giành chỗ đứng, miếng mồi. Quạ diều đâu có vượt cánh khỏi mây, còn hồng hộc ở
tận trời xanh, cần gì sợ lũ cỏn con là đà dưới đất.
Vậy
mọi việc cần xây dựng có một nề nếp vừa xứng bên trong vừa thứ tự bên ngoài.
Trong có kẻ trên người dưới, lễ kỉnh làm đầu. Ăn ở được quyền pháp hóa, có bữa
đúng thời. Không nghe nhảm nói nhàm, trợ cho vọng tâm mà tổn tinh tán khí. Tu
đặt ra năm bậc để hướng lần, chọn lấy khí tiết người làm Thánh làm Hiền.
Con
đường trung đạo mở ra thì cơ khảo thí về hữu vi và về vô vi cũng không sao
tránh được. Nên từ đây lần hồi chỉnh đốn về thờ phượng, về lễ bái, về tu tịnh,
dưỡng luyện, ôn học cho thâm bác, rồi lúc đi ra, lúc gặp bạn có được một tôn
chỉ hẳn hòi. Bây giờ trước hết phải lãnh lấy một chương trình giữa nhau cần bàn
kỹ lại. Bằng lòng thì lập nguyện dâng lên, bằng không thì cũng cho các đệ một
nguồn ân để tu, an vui với ngày tháng.
Sau bao nhiêu thời gian trông chờ cầu
khẩn, được thánh huấn của Đức Trần Tổng Lý và Đức Lý Giáo Tông, các vị Thiên ân
cảm thấy cơ đạo như mở ra cửa ngõ cho việc Ơn Trên tái ban sứ mạng. Nhất là đã
qua một trăm ngày trúc cơ, các vị quyết tâm vượt lên mọi trở lực, chuyên tu
mạnh mẽ, tìm an vui trong pháp đạo nhiệm mầu để mong đón ngày nối tiếp sự
nghiệp. Các vị được các Đấng ban điển lực giáo pháp dạy khuyên.
Đàn ngày 08-6 Nhâm Dần (09-7-1962), Đức
Hà Tiên Cô giáng dạy (trích):
Hôm
nay nơi đây đã thành một đạo tràng, Bần Nữ cũng để lòng mừng.
(…) Sở
dĩ có cái hân hạnh nầy là bởi lòng biết hồi minh khử ám, giải thoát trần tình,
cầu lấy cái Đạo vô vi, để thân tâm hòa đồng cùng càn khôn tạo hóa.
Bần Nữ
cầu chúc cho chư hướng đạo tiến lên qua bước thứ nhì, mình và các Đấng thiêng liêng
gặp nhau ở Nam môn Càn đạo, mà đàm đạo với nhau dễ dàng hơn dùng cơ bút. Muốn
gặp bằng cách ấy là phải thanh khiết thân tâm, thân thường thiền định. Định cho
định để nghe lọt vào tai những tiếng nhiệm mầu. Thiền cho thuần để mở các then
khóa trong bầu tạo hóa.
Vậy
từ đây bắt đầu đạo tràng dạy về thiên đạo. Các hiền cố gắng.
Đàn ngày 13-6 Nhâm Dần (14-7-1962), Đức
Trần Hưng Đạo giáng dạy về việc xây dựng thánh thất kiểu mẫu Trung Thành (trích):
Toàn đạo
nơi thánh thất Trung Thành đã có một cơ duyên sâu đậm với nền chánh pháp của
Thầy, nên nay mới có sự gặp gỡ ở chỗ thiên thời, địa lợi, nhơn hòa. Thật Ta xét
kỹ tinh thần đạo đức chưa có nơi nào được như nơi nầy. Bây giờ Ta vạch cho chư
hiền một đường lối để xây dựng một cơ sở thánh thất kiểu mẫu để tượng trưng cho
một địa bàn của nền chánh pháp.
Tuy thánh
thất Trung Thành từ nay về phần tu tiến khá đấy, nhưng về phần tổ chức còn phải
xây dựng rất nhiều. Về phần Đầu Họ phải cố gắng trụ định tinh thần tỏ ra mình
là người hiền nhơn quân tử. Luôn luôn bình tĩnh, sáng suốt nhận định mọi việc
để cho chức sắc, chức việc làm theo. Mọi tư tưởng, việc làm đều cốt ở lòng
thanh tịnh. Việc làm mà thanh tịnh thì phước đức mới được vô lượng vô biên. Con
đường chánh pháp của Thầy đã rõ ràng, ta tu hành lập công bồi đức cũng mong đến
đó là cùng. Nếu không đi con đường ấy thì không còn con đường nào nữa. Quyết tu
theo con đường ấy dù phải trải qua mọi nỗi gian lao, khổ sở, ta sẵn có tấm lòng
thành thì sẽ được chứng ngộ. Hễ có nhơn thì ắt có quả. Không nên trù trừ do dự
làm mất cơ hội ngàn năm một thuở. Người Đầu Họ với bốn cơ quan cũng như thân
thể với tay chân phải liền lĩ, mạnh lành, mới mong làm nên được sự nghiệp. Ngay
bây giờ Hành Chánh, Phước Thiện, Minh Tra, Phổ Tế phải lo chỉnh đốn lại.
Về
Hành Chánh, công việc phải thông suốt từ trên xuống dưới, như dòng nước lưu
thông không hề ngưng đọng.
Về
Minh Tra, bộ máy phải kiện toàn, đem tình thương sự sống và công bình chan trải
khắp nơi nơi. Không một việc gì xảy ra mà mình không biết. Minh Tra là một thứ
nhựa để hàn gắn, để bể cho ra lành, không những lành mà lại còn tốt đẹp.
Phổ
Tế là tiếng nói diệu huyền của Thầy ban rưới, khác nào như giọt nước mưa xuân
cho cỏ hoa được tươi tốt. Mưa là món ăn của cây cỏ. Ăn phải có chỗ có thời,
thường luôn luôn đổi món. Bởi vậy cho nên người nhân viên Phổ Tế phải thay đổi
chỗ nấy qua chỗ khác, không nên cố định một nơi nào. Món ăn dầu ngon nhưng ăn
mãi cũng hóa ra nhàm. Mà khi đã nhàm rồi thì không còn quý nữa. Người Phổ Tế
gieo giống ra phải hòng gặt được lúa. Nghĩa là phải hằng kiểm điểm việc tu học
của từng đạo hữu một.
1. Đã
hiểu giáo lý được những gì?
2. Có
thực hành được những điều đã học chưa?
3.
Trong hàng đạo đồ có người nào còn dốt nát đã tìm phương giáo hóa cho họ chưa?
Có
như thế thì việc làm mới nắm được phần kết quả. Hằng tháng phải thăm viếng,
nhắc nhở về phương tu lẽ đạo cho người người. Phải luôn luôn thay đổi những gì
mới lạ để thích hợp với sự ưa muốn của người. Được như thế thì cơ đạo làm sao
không tiến được. Hiện nay ta thấy còn lắm phần chênh lệch, kẻ tinh tiến thì
hằng bữa đến chùa, còn người lơ là thì hằng năm hãy còn ngủ gật. Bây giờ phải
lo tìm cách xây dựng cho được đồng đều.
Về
Phước Thiện, phải thực hiện nền sơ bộ đại đồng, bắt đầu củng cố các thiện gia.
Phải xây dựng ở hạ tầng cơ sở. Không nên vì sự háo vọng theo những chương trình
to lớn. Việc chưa thể làm được thì nên gác lại. Cái mà ta có thể làm được thì
phải cố gắng mà làm, làm cho kỳ được, không vì việc nhỏ bỏ qua. Cũng như công
việc tế khổ trợ nghèo dù không được tiền trăm bạc nghìn, chớ việc thăm viếng,
đi lại, an ủi, cùng bày vẽ, nhắc nhở, sắp đặt nề nếp cho mọi người, thì Phước
Thiện nên làm cho chu chí. Ta có thể tổ chức những việc như cho nhà nghèo một
manh áo, người bệnh một quả cam, cũng đã thực hiện được tấm lòng làm nhơn làm
thiện. Những việc ấy làm xong rồi, đủ điều kiện ta làm nhà tu cho kẻ xuất gia
nương náu, làm trường học để dạy dỗ con em. Làm nhà thương để giúp người bệnh
tật. Ôi! Mọi việc Phước Thiện phải lo phải làm. Từ nhỏ đến lớn, việc gì cũng
cần thiết cả. Thế mà sức người có hạn, cơ đạo phải hồi chao đảo, thiệt cũng khó
lòng mà thực hiện một thánh thất kiểu mẫu như ý muốn được.
Con đường giáo pháp thực sự đã mở ra, cơ
duyên tốt đẹp với chư môn sinh thật thấm đậm. Các đàn cơ cứ chừng mỗi tháng hai
kỳ. Những người chí tâm tu, trọn lòng vì đạo đã quy thiên, đắc quả, cùng với
các Đấng thiêng liêng giáng đàn giáo pháp khuyến tu.
Đàn Tý thời ngày 23-6 Nhâm Dần (24-7-1962),
tiền bối Nguyễn Tuệ Minh về cơ:
Đường
cứu thế Đức Ngô đã vạch
Mọi
người đều tìm cách chen chưn
Bước
đi dụ dự ngập ngừng
Thì ta phải bị sa chưn hố hầm
Ta phải biết kiếm tầm chơn lý
Chơn lý tầm huyền bí diệu tâm
Đạo mầu diệu viễn thậm thâm
Có duyên sẽ gặp, kiếm tầm đâu xa
Của kia đã đến nhà rồi đó
Lo giữ gìn chớ bỏ mất đi
Mất đi phải bị khốn nguy
Thân mình bị bỏ có gì mà mong
Tệ Sĩ đã hết lòng bày tỏ
Chư Thiên ân gắn bó nghe lời
Để mà được hưởng muôn đời
Gia tài quý báu của Trời đã cho.
Đàn Tý
thời ngày 08-7 Nhâm Dần (07-8-1962), Đức Đại Giác Chơn Tiên khuyên nhủ:
Trên đường tầm đạo dễ chi
Trải bao gian khổ hiểm nguy lắm mà
Nhớ câu tự giác, giác tha
Đừng nên dễ dãi làm ma dẫn đường.
(…)
Muốn thành đạo chánh đẳng chánh giác thì đầu
tiên phải lấy sự yên lặng làm chỗ trụ. Yên lặng là tịch tịnh. Tịch tịnh cần có
quán chiếu. Quán chiếu để tìm cái nguyên nhân, đòi lại bản nguyên mà diệt phàm
dưỡng thánh.
Đàn ngày
21-7 Nhâm Dần (20-8-1962), Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
Con đường đạo pháp đã trao
Thì ta chớ để lọt vào tay ai
Vào tay thiếu đức thiếu tài
Làm cho chánh pháp lợt phai chơn truyền
Đường ta ta cứ thẳng đi
Dầu ai lôi kéo, níu trì không buông.
Người tu không để cái gì trói buộc cả. Ta có
ở ngoài vòng buộc trói thì thân tâm mới được thảnh thơi, vui sống trong vòng
đạo pháp, nay đây mai đó, trọn hưởng thú thanh nhàn, cùng nhau sống với bao
nhiêu người đồng tâm, đồng chí, đồng học, đồng tu. Dù đời sống vật chất có đơn
sơ nhưng tinh thần vẫn luôn luôn vui sướng, như thế cũng là Thần Tiên tại thế
đi rồi.
Đàn ngày
23-7 Nhâm Dần (22-8-1962), Thần Nữ Nguyễn Thị Ngại khuyên nữ phái:
Khuyên đừng có tính nọ kia
Làm cho sứt mẻ xa lìa tình thương
Bước tu chánh pháp một đường
Cùng nhau em chị náu nương bảo bày
Mùi đời chớ có đắm say
Đường tu ta phải ngày ngày chăm lo.
Sau đó,
Đức Lê Sơn Thánh Mẫu giáng, điểm danh một số tịnh viên tại Tịnh Đường và nhắc
nhở:
Từ đây công việc đạo, các con cố gắng lập
công nghe theo sự chỉ dẫn của Huệ Minh Đức mà tiến lên. Về việc kết bạn phải
gấp tiến hành, nghĩa là phải làm sao không còn một người đứng ngoài tổ chức.
Đàn giờ Tý
ngày 08-8 Nhâm Dần (06-9-1962), Đức Đại Giác Chơn Tiên giáng cho một bài thi
lục bát dài, có điểm danh ba vị Tuyến, Hậu và Toàn. Trích phần cuối:
Vì câu sứ mạng bận lòng mình
Hồng thệ còn ghi lắm ngại kinh
Nội bộ bất đồng đương gắn bó
Gắn cho liền một phải chơn tình
Tình thương lẽ sống đã khô khan
Quyền pháp trung hưng muốn nguội tàn
Chuộc lại ơn xưa tu ngã chấp
Lòng
thương thanh tịnh sẽ bình an
An
bài đâu đó chỉnh tu chung
Quyền
pháp chung xây xã đại đồng
Đồng
chịu, đồng lo, đồng trách nhiệm
Nhiệm
hơn gốc biết giữ tu công.
Đàn giờ Hợi ngày 23-8 Nhâm Dần (21-9-1962),
Đức Vô Lượng Thọ Quang cho bài giáo pháp (trích đoạn cuối):
Chúng
sanh mê đắm dục tình
Trò
đem gương sáng của mình để soi
Trò
làm vật tốt người coi
Coi
trò tất cả mọi loài mến thương
Ấy là
cờ Đạo đã trương
Chúng
sanh sẽ có con đường cùng đi
Phần tản văn, có đoạn dạy:
Các
trò nên biết rằng kỳ đại xá lần ba nầy Thầy Trời đã dùng đủ pháp môn phương tiện
để độ đời, tùy theo căn cơ của mỗi người mà dẫn dắt. Chỉ có kẻ nào chống trái
hay bất tín thì mới lọt ra ngoài sự cứu độ mà thôi. Hoặc có kẻ tu chứng rồi mới
ra độ đời. Cũng có kẻ lập công trước rồi sau mới nhờ được duyên lành mà đắc đạo.
Cũng có kẻ vừa tu kỷ vừa độ tha, nhưng dù cho phương tiện nào cũng cốt ở tâm
thành chí nguyện.
Đàn Tý thời ngày 23-10 Nhâm Dần (19-11-1962),
Đức Hiệp Thiên Đại Đế dạy (trích):
Nền đạo
Trung Tông Thầy đã vạch định rõ ràng là giữa công truyền và tâm truyền không
thể thiếu một được. Nếu trong hai phần ấy mà không giữ được trọn vẹn thì không
còn cái nghĩa của hai chữ Trung Tông nữa.
Cơ đạo
đến đây Thầy đã kết liền làm một, quyết không để canh cải rẽ chia. Nếu trong
hai phần đó thiếu đi một phần thì nền đạo của Thầy không thể thành tựu được.
Đạo
thành là cốt ở nơi người thanh tịnh. Thanh tịnh là đầu mối xây nên vũ trụ vạn
vật. Vạn vật trở về với nguyên thủy cũng cốt ở chỗ thanh tịnh mà thôi. Người mà
thanh tịnh thì trời đất cũng hiệp về. Sự thanh tịnh ở đâu, cơ mầu nhiệm của trời
đất cũng ở đó, mà lòng người cũng hướng về. Nên Lão Quân đã nói “Nhơn năng
thường thanh tĩnh, thiên địa tất giai quy” là ý nghĩa đó vậy. Kẻ nào không
thanh tịnh, dù cho có tài năng trí lực đến đâu cũng chỉ là vật vô dụng cho đời
mà thôi. Không thanh tịnh cứu cho mình còn không được, mong gì cứu cho đời.
Đàn Tý thời ngày 08-11 Nhâm Dần (04-12-1962):
THI
NGỌC
chẩm lần qua đến đỉnh đầu
HOÀNG
môn mới thấy báu linh châu
THƯỢNG
thừa khuyên trẻ tâm vô ngại
ĐẾ
Đạo chừng nên có dễ đâu.
BÀI
Đêm
thanh rảo bước đến đàn
Nhắc
chừng các trẻ vững vàng bước tu
Lần
qua một đợt công phu
Gặp
bao thử thách dãi dầu khó khăn
Sớm
chiều ôn tập chăn chăn
Thong
dong thanh thoát mà phăng lẽ Trời
Lòng
không, trối mặc trò đời
Thị
phi danh lợi dễ dời được đâu
Xét
cho kỹ, nghĩ cho sâu
Mới
trông thấy chỗ nhiệm mầu cao siêu
Biết
rồi ngày tháng tiêu diêu
Càn
khôn một túi nâng niu làm tình
Giữa
thời nam bắc giao chinh
Giữa
cơn nội bộ bất bình chẳng thông
Mười
phương hết chỗ cậy trông
Nhơn
sanh ngơ ngác buồn lòng dựa nương
Ai
người còn chút tình thương
Còn
đôi lẽ thật lo đương pháp quyền
Muốn
đầy sự sống thiêng liêng
Dọn
lòng trống rỗng làm duyên nối hàng
Muốn lo lòng chớ có toan
Muốn toan trước phải đủ gan Thánh Thần
Thánh Thần đủ đức cứu dân
Nhờ nương ở pháp xá thân làm đầu
Vô vi bất luận ở đâu
Cũng dung chứa được, gồm thâu mọi loài
Tứ thời tâm tịnh thường soi
Vào trong, lóng lấy tiếng còi giác mê
Thân tâm đâu đấy đề huề
Chín cung mở rộng đơn khuê kết thành
Vô vi là mẹ vô danh
Vô danh làm lũy làm thành vô vi
Vô vi không có thị phi
Thị phi đâu biết vô vi thế nào
Vô vi không luận thấp cao
Không cao mà lại trùm bao đất trời
Vô vi không thốt một lời
Một lời không thốt mà trời đất theo
Vô vi chịu lấy chữ nghèo
Chữ nghèo mà đạo khó theo khó bì
Nhiệm mầu là đạo vô vi
Nên Thầy khuyên trẻ gắng đi đến cùng
Vô vi mới đủ thủy chung
Vô vi mới được sống cùng nhơn dân
Vô vi là phép lành thân
Là an lạc quốc, là Thần tự do
Tuy
là thấy rút thấy co
Thu
hình cho được nhỏ to khó gì
Khuyên
con hành đạo vô vi
Độc
tôn đệ nhứt Tam Kỳ pháp môn
Con
đừng tính dại tính khôn
Mà
xen phàm ý khó tồn Tiên đơn
Gặp
Thầy thì đó là ơn
Đem
ơn gieo rải chúng nhơn cậy nhờ
Các
con muốn thấy huyền cơ
Thì
lo giải thoát qua bờ bên kia
Bên
nầy ganh ghét rẽ chia
Sanh
đau già chết không lìa chúng sanh
Bên
này mãi mãi bất bình
Hữu
hình hữu hoại nghĩa tình bán buôn
Đời
người đóng chặt trong khuôn
Méo
tròn phải chịu tấn tuồng trả vay
Bên kia là cảnh Bồng Lai
Thung dung tự tại, hòa hài thương yêu
Bên kia bình đẳng cao siêu
Bên kia ngày tháng tiêu diêu lắm mà
Bên kia phải ở đâu xa
Ở trong lòng trẻ dung hòa từ bi
Ở
trong lòng trẻ vô vi
Muôn
điều giải thoát sân si chẳng còn
Vô vi
muôn hạnh được tròn
Muốn
tròn bỏ nó có còn được chi
Lòng
con phải được vô vi
Nên
hư đâu nhọc thị phi đâu phiền
Con
yên quyền pháp mới yên
Con
yên đâu đó chẳng riêng chẳng mờ.
THI
Đường
tu Thầy đã vẽ vời cho
Ngày
tháng thanh nhàn thủng thỉnh lo
Có
Thánh có Thần, đời có mắt
Mắt
đời được mở bởi nguyên do
Duyên
do chánh pháp được thành hình
Phải
kết nhiều phần đủ Thánh linh
Cốt ở
chúng nhơn thành quả đạo
Đạo
lành hiển hiện thế hàm ninh
Đinh
ninh dặn trẻ một lòng tu
Chiều
sớm kiền kiền lấy chữ tu
Tu
được cho thân thân đắc đạo
Đạo
nên đời trị ở công tu
Công tu con được đủ rồi
Pháp quyền sứ mạng thay Trời phò nguy
Bây giờ con có tính chi
Tính chi đâu trúng vô vi ý Trời
Tu đi là biết nghe lời
Biết nghe lời được thì trời đất thương
Nếu còn mong muốn chủ trương
Làm cho khí động lấp đường vô vi
Thầy khuyên con trẻ tu đi
Quên quên tất cả, ly ly mọi điều
Cho lòng hết sức là nghèo
Không phương tính toán là điều Thầy ưng
Ưng
con giữ lấy mực chừng
Lo
điều nhỏ nhặt chớ đừng tranh đua
Đua
tranh cho được để làm chi
Tính
toán hóa thành chuyện thị phi
Được
cái thân rồi là sự quý
Lời
vàng Thầy dạy trẻ nên ghi.
Thôi,
mọi việc không ngoài tâm pháp vô vi. Các con hành kiền pháp vô vi là hành pháp
cứu cánh cho muôn họ.
Chánh
pháp ở đâu? Ở cơ bút ư? Ở lời nói ư? Nếu các con hiểu lầm như thế mãi thì con
đường giáo hóa bị ngăn lấp, cơ cứu chuộc khó hoàn thành.
Chúa
Thánh có tôi lành mới đủ tài kinh tế, đủ đức an dân. Vị Giáo Chủ toàn giác toàn
chân mà không có môn đồ đắc đạo cũng không phương mở đường cứu độ, an trụ chánh
pháp nhiều ngày. Vậy, muốn làm gì phải tu cái đã.
Đàn 08-11 Nhâm Dần (04-12-1962), Đức Nam
Cực Tiên Ông khuyên dạy:
Tu
hành cốt phải làm sao
Làm sao cho trọn cho cao cho lành
Một là học chữ vô danh
Vô công gắng dạ để dành vô vi
Vô vi phát hạnh từ bi
Chở che bảo bọc thi vi cùng người
Hai là đời sống cho tươi
Hoa thơm trái ngọt để người hưởng chung
Cảnh
nào lòng cũng thung dung
Có
vui hay khổ không rung chuyển tình
Ba là cùng với vạn linh
Không phân ranh giới để mình lẻ loi
Tu hành nhứt dạ lòng soi
Diệt lòng tham dục, tập noi Thánh Hiền
Công phu, công quả cho siêng
Coi nhau là một đừng riêng xa gần
Bốn đừng nhận giặc làm thân
Phải lo ngăn đón tham sân lộng hành
Lóng
lòng cho tịnh cho thanh
Được
thanh được tịnh là thành kim đơn
Từ
đây quyền pháp để chơn
Giữ
còn sứ mạng đón ơn Nước Trời.
Đàn Tý thời ngày 09-01 Quý Mẹo (02-02-1963),
Đức Quan Thế Âm giáng:
Bần
Đạo thừa phụng Thánh ân đến với chư hiền một niềm xuân hư linh bất muội.
THI
Xuân
trưởng thành cho vật dưới trời
Bò,
bay, máy, cựa, cỏ, hoa tươi
Sáu
phàm bốn thánh, xuân là cội
Sự
sống tình thương để độ đời.
(…)
Gắng
nhau mà giữ một chữ tiềm. Tiềm với tàng, hai chữ thường có đôi, nhưng bỏ một
thì có ngày được hiện.([1])
Đã ngót hai năm, các vị chí chăm đường tu
tâm pháp vô vi theo vận chuyển của Ơn Trên để chuộc lại sứ mạng. Đồng tử Liên
Hoa dần dần bớt thủ cơ mà giao cho Huệ Minh Đức (Tá Cơ Quân Đặng Nhâm). Điển
huệ Thiêng Liêng vẫn liên tục dạy tu cho phía các vị nhà tịnh hành trì thuần
túy về vô vi tâm pháp để có người đạt chứng mới mong chuộc lại sứ mạng.
PHẠM VĂN LIÊM