Hà Nội: Nhà xuất bản TÔN
GIÁO, 2016
SÁU
Bắt đầu ngày mồng 2 Tết Đinh Dậu (Thứ Sáu
01-02-1957) là năm hồng ân Khai Cơ Giáo Pháp, trong vòng một tháng Ơn Trên liên
tục giáng đàn minh định cơ chế, huấn đạo về các cơ quan. Các chức sắc cốt cán
của Hội Thánh cảm thấy có một thứ lửa trong khối linh sơn thật ấm áp đang nhen
truyền. Đó là các bậc tiền bối hướng đạo buổi đầu của cơ đạo miền Trung quá
vãng, sau khi đắc quả vị thiêng liêng đã trở về với trách nhiệm giáo hóa từng
mỗi buớc đi cho “cơ đạo đại hành” trên lộ trình truyền giáo, đưa nhân sinh vào
ơn tận độ.
Tuy nhiên thực lực về nhân sự đảm đương trách vụ trong guồng máy của cơ chế
Hội Thánh còn
chưa chặt chẽ, vai trò
chủ trưởng chưa thực sự tại vị, vai trò đồng tử Thanh Long đã chuyển cho Tiếp Cơ Quân Liên
Hoa rồi đến các bộ phận phò loan mới.
Về quyền pháp bốn cơ quan thì cơ
quan Minh Tra chưa
định hình rõ rệt. Trong hàng ngũ chức sắc, sự nhận thức thánh ý còn hạn chế,
chưa đồng bộ, sinh ra ngờ vực, nhất là đối với Tiếp Cơ Quân Liên Hoa. Có nhiều
lời ra tiếng vào, e ngại rằng việc thông công của Tiếp Cơ Quân Liên Hoa dắt dẫn
Hội Thánh lệch ra ngoài khuôn khổ trung đạo. Về tướng pháp thì nhiếp theo sự
canh cải của Tây Ninh với đạo luật Mậu Dần. Về tâm pháp thì ép mình vào việc tu
tịnh, tuân thủ và hành trì pháp môn theo huớng Chiếu Minh. Như vậy là đi ngoài
lập trường không chi phái của Trung Hưng.
Bao nhiêu ngờ vực, bao nhiêu vấn nạn đã trở thành những mong mỏi được
Thiêng Liêng giải tỏa để quyền pháp Hội Thánh được sáng tỏ, thuyền đạo được đi
đúng hướng.
Tại
Trung Hưng Bửu Tòa ngày 07-02 Đinh Dậu (Thứ Sáu 08-3-1957), Đức Trần Nguyên
Hiệp Lý giáng cơ minh giải:
Nếu tâm nguyện chưa đúng mức,
lòng chưa vô tư thanh tịnh, thân chưa thể hiện bằng quyền pháp thì tất nhiên
nội bộ vì đó mà ngờ nghi nhau, sanh lòng chia rẽ. Trường hợp những người cùng nhau
một chí hướng có đôi lúc chống nhau, có khi bất bình xô xát, không phải ngờ
ghét chi nhau mà vì chỗ thấy đôi bên mỗi người mỗi khác. Cái khác của hai phần,
phần nào cũng có cái lý vững vàng. Tựu trung đều làm cho tỏ sáng mục đích. Hoặc
người đi sâu, người mở rộng; kẻ giữ sớm, người lo chiều. Rộng nhờ sâu mà đuợc,
sâu nhờ rộng mà bền. Không sớm sao có chiều? Muốn được buổi chiều, lo giải
quyết những điều trong buổi sớm. Sớm không vì chiều cho nên việc, thì sớm có
được gì! Vì vậy mà ta cần hiểu nhau để rồi an tâm mưu đồ công việc chung cho
vạn đại.
Đức Tổng
Lý Hưng Đạo thừa lệnh Đức Giáo Tông Vô Vi chưởng quyền hành chánh, lâm cơ giải
quyết mấy vấn đề đang khúc mắc, nhất là việc đồng tử Liên Hoa xin nghỉ thủ cơ
mà chuyển hẳn cho cặp phò loan Thanh, Thọ (Huệ Linh, Huệ Thành).
Đàn tại Trung Hưng Bửu
Tòa ngày 22-02 Đinh Dậu (Thứ Bảy 23-3-1957), Huệ Linh và Huệ Thành phò loan. Đức Tổng Lý dạy:
Đàn lệ hàng tháng thì Thanh, Thọ
[Huệ Linh, Huệ Thành] thủ cơ. Đàn lý giải thì trách
nhiệm nơi Liên Hoa. Năm nay là năm hoàn thành Chỉnh Cơ
Lập Pháp. Điểm trọng yếu về phần cơ bút thì chuyển riêng về lý giải đạo pháp
rất nhiều. Chư liệt đệ nên bình tĩnh, lần lần biểu Liên Hoa thủ cơ cho thánh ý
tiếp các đàn đã dạy trong mấy năm qua (Bửu Chương Pháp Đạo).
Bản Thánh được Đông Phuơng
Lão Tổ cho biết thì Liên Hoa nó hay thối thác trên công việc và xin nghỉ mãi. Thánh ý không biết giải quyết
như thế nào, nhưng xét kỹ thì cũng có một duyên cớ trở ngại ở nơi đây là về
phần nhơn sự. Các hiền chung chung chưa trọng danh đồng tử và giữa nhau chưa
đắc nhơn tâm, nên nó buồn muốn lơ là việc đạo. Tuy biết rằng nó làm vậy là có
lỗi với Hội Thánh thiêng liêng, hữu hình. Nhưng các đệ làm người đứng ra gây
chuyện cũng phải chịu một phần khuyết điểm.
Đức Tổng
Lý bảo rằng cơ đạo Trung Tông thiếu Liên Hoa thì không ai có thể thủ cơ chấp
bút cho việc hoàn thành cơ lập pháp sang giáo pháp:
Tiện đây Bản Thánh cũng cho
biết trước một phần về việc sắp tới đây. Năm giáo pháp khai cơ thành đạo sẽ có
nhiều trắc trở về nội bộ, mà chúng ta không ngờ đó các đệ ạ! Tương lai của Đạo
cần những tay dày công học hỏi nơi Thánh
Chúa Ngôi Hai [Ngô Văn Chiêu] hay
những người được truyền tâm pháp,
am hiểu đạo pháp vô vi. Nhưng
nơi đây nó là một, cũng nên tôn trọng và chú ý đến đôi phần, dù gì cũng một đệ
tử Ngô Cao Tiên. Chúng ta nên dè dặt một lẽ nữa: Người Hiệp Thiên Đài [đồng tử]
là cơ quan bí mật thì mỗi mỗi đều bí mật. Các hiền không nên đi vào chỗ ngôn
ngữ, hành động mà làm trở ngại đường tu.
Đức Tổng Lý lại cho biết Hội Thánh chuẩn bị ngày 08-4 Đinh Dậu (Thứ Ba 07-5-1957)
vào khóa tịnh.
Ngày 14-3
Đinh Dậu (Thứ Bảy 13-4-1957), Đức Giáo Tông dạy:
Hôm nay bước đạo đã tiến sang
giai đoạn thành hình. Giai đoạn quyền pháp ứng lập nơi nầy để tạo thế, khai
thế. Nhưng phần đông chư chức sắc còn bị hoàn cảnh chuyển thiên, quyền pháp uốn
mềm theo lòng ưa thích của phàm phu. Với quyền pháp cũng chưa đủ năng lực mà
chuyển phàm phu ra thánh đức. Vì vậy mà cơ đạo nơi đây không khỏi một bước đảo
điên.
Cơ Trời phải vậy, người thế cam đành. Phải chi lòng nhơn của mỗi người sớm giác
ngộ, lấy công lấy của mà chuộc bớt tội tình, gắng học gắng tu để giữ yên thần
khí. Bởi vậy nên Bần Đạo phải xin Thầy đình đãi ngày Khai Cơ để hoàn thành lập
pháp.
Nhưng thời gian kỷ lục, máy Tạo không dời. Ôi phước ôi phần, phải ai nấy chịu! Cơ hoàn thành chỉnh pháp
mà mấy kẻ biết lo, chỉ lo khoe sắc chọn tài, điểm đích còn trống rỗng. Phải chi
Tòa Minh Tra được thành lập thì bước đạo ngày tới được tươi xinh. Các hiền đã
làm cản trở cho cơ hội quá nhiều nên tạm thời xây dựng.
Bần Đạo xin Thầy cho nơi giáo
hội Trung Hưng nhích nhứt hào dương quẻ Phục lên hào nhì cho đủ trung và chính. Vì quẻ Phục còn là tượng mà phát hiện giai đoạn Trung Hưng, được chính mà thiếu trung, nên cơ đạo gặp nhiều bước biến thiên bất nhứt. Tỉnh nầy làm
khác tỉnh kia, người nầy người kia không nhất trí. Hội Thánh không quyền, quyền
pháp không tôn, mệnh lệnh trên nói dưới không nghe, hành động dưới làm trên
cũng chẳng biết.
Mối loạn đã manh nha, nên
không sớm chỉnh đốn thì dù có khai cơ giáo pháp cũng có nên gì! Vì là nền tảng
còn mỏng manh, lầu đài có cao lớn, có ngày phải đổ. Vì vậy mà Nội Chánh phải
chiếu y quẻ Sư ([1]) mà an bài trật tự.
Quẻ Sư là hào dương của quẻ Phục biến thành, để cho có trung được chính. Chư Thiên phong chức sắc lưỡng đài
y tuân quẻ Địa Thủy Sư mà hành chánh trong giai đoạn Chỉnh Cơ Lập Pháp.
Sang giai đoạn Khai Cơ Giáo
Pháp, áp dụng vào cuộc cầu phong cũng quẻ Phục. Bần Đạo mượn dương hào của Phục
đem lên làm Địa Thủy Sư, mà cũng lấy hào dương cương ấy để trên làm quẻ Thủy Địa
Tỷ ([2]) cho Phước Thiện, Phổ Tế
gây mầm đạo hạnh.
Vậy các cơ quan áp dụng theo hai
quẻ ấy mà thi hành. Còn Hội Thánh lưỡng đài nên tuân chiếu theo quẻ Phục mà hành pháp, bảo pháp. Bần Đạo nói việc hoàn thành Chỉnh Cơ
Lập Pháp để chuẩn bị Khai Cơ phong quan định vị.
Việc nhập tịnh tu có đàn
riêng trước đó ít hôm. Để Ngô Cao Tiên chỉ dẫn. Bần Đạo chào và ban ơn.
Theo lệnh Đức Tổng Lý, khóa tu tịnh sẽ tổ chức vào ngày 08-4 Đinh Dậu (Thứ
Ba 07-5-1957). Thời gian còn hơn ba tuần lễ, Hội Thánh đã đưa bộ phận phò loan
vào Phú Yên thăm thánh thất Minh Trung mới xây dựng, rồi trở ra Bình Định thăm tịnh
thất Ngọc Linh Đài mới hoàn tất phần nhị đài. Ở mỗi nơi đều được Thầy và Đức
Tổng Lý giáng cơ dạy đạo.
Đàn tại
Minh Trung, Tý thời ngày 22-3 Đinh Dậu (Chủ Nhật
21-4-1957), Thầy dạy:
Ngọc quý con lo giữ lấy nhau
Hoàng môn chờ đợi pháp truyền trao
Thượng hòa hạ mục nương nhau bước
Đế Đạo ngày gần độ Ngũ Châu.
(…) Ngôi thánh đường các con
tạo lập là do lòng ưng muốn mà có. Ưng thì dù khó cũng làm được, muốn thì dù
nguy hiểm cũng thắng được. Muốn đạt được, không khó khăn; ưng thì làm đâu mệt
nhọc. Các con nhờ đồng tâm cộng sức mà nên. Nếu thiếu chữ hòa và lòng tin thì
đâu nên công đức. Các con gắng nhớ lời Thầy. Con đường hạnh phúc ngày mai cho
các con và chung nhơn loại là con đường hòa thân yêu ái.
Tại Ngọc
Linh Đài, Tý thời ngày 25-3 Đinh Dậu (Thứ Năm 24-4-1957), Thầy dạy:
Ngọc quý con thường bữa bữa trau
Hoàng cung ước đợi trẻ hòa nhau
Thượng thừa năng bước trên quyền pháp
Đế Đạo lần ba lắm nhiệm mầu.
(…) Con ôi! Cái gì cũng giả
dối cả, chỉ có phương tu giải thoát là đi đến lẽ thật mà thôi. Dù cho Thầy có
ban cho con một ông hoàng, là người bậc nhất trong thiên hạ rồi cũng là ảo
vọng, mà còn kết cấu nghiệp quả kéo dài, sao sánh được phương tu mở mắt trông
ngoài vạn vật, để tai nghe suốt càn khôn, chơi với Phật Tiên, sống liền cùng Tạo
Hóa. Cái phương tu nó chắc chắn mà ít người làm theo. Vì thiếu căn duyên, hoặc
không gặp Đạo.
Hôm nay Thầy đã đến cùng các
con, lấy điển quang bao bọc, truyền thần trực xạ vào cõi tâm giới hư linh. Các
con có chí, có tin và muốn là được. Nhưng các con phần đông lại tham vọng cái
giả cảnh của đời.
Đừng tưởng cái ngai vàng nó
vững chắc chắn đâu, bè đảng tin cậy đâu, sức mạnh tài khôn đủ bảo vệ được đâu,
lời nói việc làm đủ cho người ta tin đâu. Tất cả cái giả cảnh, giả trá là đều
bị tiêu diệt cả.
Ngày mai dương cương chánh
pháp hiện, âm nhu tà thuyết đều tiêu. Dù cho các con ở trong đạo mà có cái niệm
không lành, các ngũ quan tà ác cũng đều tiêu diệt cả. Thầy hứa chắc rằng nguơn
tiêu diệt sẽ bước qua nguơn tái tạo. Tất cả cái gì không chơn thật đều bị sụp
đổ. Cái gì chơn thật mới được tồn tại.
Vậy Thầy khuyên con giữ trật
tự luật pháp mà tu học, nuôi đức tin mà theo Thầy. Đừng vì một lý do nào con
chọn cái sống giả, bỏ cái sống thật; chuộng cái khỏe tạm, bỏ cái khỏe đời đời;
sợ cái đau khổ chốc lát, quên cái vui hạnh phúc trường cửu.
Các con ạ! Đạo tạm ví như tấm
gương trong. Thầy đặt trên đài, Thầy tráng thủy để thành sức sáng con soi, mọi
người cùng soi. Gương ấy phải năng lau chùi bụi bặm. Nếu kẻ nào đem cả bẩn thỉu
bôi vào cũng chẳng hại gì đến gương. Hễ có dơ, có ngày rửa sạch. Chỉ sợ tróc
thủy nơi trong, trông vào không sáng, hay bị vỡ đi, khó thể ráp liền. Mà làm
sao ai dám phạm đến? Chỉ có quyền làm được là quỷ vương. Mà Thầy chỉ cho phép
chúng nó cạo thủy, bôi lem, chứ không quyền đánh vỡ. Thủy ở trong khó cạo, cạo
được là tại con. Ngoài dễ bôi lem nhưng cũng dễ lau chùi mau sạch.
Các con ở tỉnh đạo Bình Định
lòng tu được trổi hơn về điểm chơn thành, cũng đáng mừng. Cái mừng của Thầy ban
cho hay của người khác tặng, con thấy thì có hại, không có lợi. Vì sao? Vì thấy
nên sanh hữu tâm, vị hữu ngã, mà bị ngã chấp là bị vô minh.
Vậy các con muốn diệt vô minh
là không thấy cái tốt đẹp của mình đem lòng kiêu ngạo. Mà nên tìm cái khuyết
điểm để lo sửa chữa, xây dựng cho thành. Ấy là bước tu sẽ lần lần mở cơ tận độ được.
Đi thăm hai họ đạo ở Phú Yên và Bình Định vừa xây dựng
nhà thánh, cũng là thăm hai tỉnh có tín đồ gốc Tây Ninh, Tiên Thiên, Cầu Kho,
Minh Chơn Lý. Bổn đạo hai tỉnh nầy đã hiệp chung nguồn với cơ đạo miền Trung từ
trước năm Ất Mùi (1955), do sự hướng dẫn của Ngọc Giáo Sư Nguyễn Khoa Trường và
Bảo Cơ Quân Huỳnh Thanh. Dịp thăm viếng nầy cũng thúc đẩy các Lễ Sanh Đầu Họ
Đạo về Trung Hưng Bửu Tòa tham dự khóa tu vào ngày 08-4 Đinh Dậu (Thứ Ba 07-5-1957).
*
Khóa tu được tổ chức đúng ngày 08-4 Đinh Dậu theo lời dạy của Đức Tổng Lý.
Về Trung Hưng Bửu Tòa tham dự có bốn mươi mốt Lễ Sanh trong thời gian mười tám
ngày. Phần hướng dẫn, hộ tịnh do hai mươi chức sắc, chức việc Hội Thánh đảm
trách.
Giáng cơ dạy đạo trong khóa tu có Đức Ngô Cao Tiên, Đức Lý Giáo Tông, Đức Phổ Hiền
Bồ Tát, Đức Hưng Đạo Vương,
Đức Bạch Phụng và Đức Liên Hương.
Vào giờ
Tý ngày 08-4 Đinh Dậu, Đức Ngô Cao Tiên giáng đàn ban lịnh khai khóa:
Ngô tâm hằng niệm độ quần dân
Cao thượng toan lo thoát dục trần
Tiên Phật muốn thành công quả vẹn
Giáng thăng đạo pháp tiếp hồng ân.
Giờ phút thiêng liêng trọng đại đã bắt đầu. Các vị
Lễ Sanh Đầu Họ các thánh thất được lần lần vén tấm màn bí mật trong cõi đạo
pháp vô biên.
Cơ bí mật đã trao ráng bước
Đường thiêng liêng ân phước lần đi
Ngàn năm có được mấy kỳ
Một phen ngộ Đạo quản gì khó khăn.
Đức Ngô Cao Tiên ban các quy định: Tu học trong khóa 108 giờ, khẩu khuyết
36 giờ, học thật thấu đáo về Tứ Bửu, hành pháp, cách làm phép, thiết lễ cầu
nguyện. Ngoài ra phải đọc sách, học tập, an dưỡng và công phu cúng tế. Sau bảy
ngày nhập khóa phải luyện Tam Bảo Hoàn Châu…
Đàn tái
cầu, Đức Lý Giáo Tông dạy:
Lý quả nhờ vun cội vững bền
Bạch tâm vô ngã được làm nên
Giáo truyền đạo pháp công tu dưỡng
Tông chỉ khai cơ vững móng nền.
Qua thánh giáo này Đức Lý cho biết ngày khai cơ giáo pháp không còn bao lâu
nữa mà việc hoàn thành nhiệm vụ chỉnh pháp chưa xong, vì nội bộ còn ngổn ngang,
trên dưới chia lìa. Chức sắc Hội Thánh giữa nhau chưa hòa, chưa thành một khối.
Hàng ngũ chức sắc địa phương chưa thấy trọng trách lớn lao của cấp thừa hành,
chưa thực sự đưa ơn cứu độ đến tận nhơn sanh. Trong khi xây dựng cơ sở mà cơ sở
thiếu phương tiện, không được cứng chắc. Cũng như có cát, sạn, xi măng mà thiếu
nước để làm cho liền nhau là một điều đáng tiếc. Nếu chỉnh cơ chưa rồi, lập
pháp chưa được, thì quyền Hội Thánh không minh, tước Hội Thánh không trọng,
người Hội Thánh chưa xứng, tâm Hội Thánh chưa yên. Đức Lý dạy Hội Thánh chỉnh
đốn lại gấp, ai ai cũng phải quên thân vì nhiệm vụ, phải đồng nguyện thì quyền
điều khiển của Đức Lý mới đến với Hội Thánh.
Vào Tý
thời ngày 16-4 Đinh Dậu (Thứ Tư 15-5-1957) Hội Thánh lập đàn. Đức Phổ Hiền Bồ
Tát giáng lâm điểm công hạnh và phủ dụ từng tịnh viên, chúc lành cho toàn khóa.
Sau đó Đức Ngô giáng lâm ban trao khẩu khuyết, yếu ước pháp môn để cho các tịnh
viên bảo toàn thân tâm tứ bửu. Đức Ngô còn dạy về nhiệm vụ người Đầu Họ:
Ngô khai tâm pháp độ quần mê
Cao hạ trần ai nguyện được về
Tiên Phật muốn thành công quả lập
Giáng thăng pháp đạo luyện đơn khuê.
Bần Đạo chào chư Thiên ân,
chư hiền sĩ. Giờ nầy Bần Đạo đến đây điểm qua thời gian thất nhật tịnh cơ của
chư hiền sĩ trong khóa mười tám ngày.
Chư hiền sĩ bước tu còn ngớ
nghếch lắm, chưa dứt sạch lòng phàm tục, tâm còn xao động, công hạnh chưa viên.
Bên cạnh số khá còn có một số ít thiếu cố gắng.
Lần nhập tịnh nầy là lần đầu
tiên trong bước nhập môn, nên Bần Đạo cũng vui mà trao ban quyền pháp cho, để
chư hiền sĩ độ mình, độ người trong kỳ mạt tận.
Chư hiền sĩ đã được vào tịnh
đường tức là vào nơi cải tạo, ví như sắt vào lò để rèn đúc. Vào tịnh thất tức
là vào nơi huyền cơ mật khuyết để được khải thị, thì Bần Đạo cũng nói qua cho
chư tịnh chúng được biết.
Người tu học đã nhập môn cầu
đạo mà không được khẩu khuyết trao truyền thì làm sao rõ thông đường siêu nẻo
đọa. Vì vậy mỗi người vào mật thất được trao truyền khẩu khuyết để khải thị
khai tâm. Truyền khẩu khuyết là truyền cái gì? Truyền cái yếu nhiệm then chốt
của cơ Tạo Hóa để tạo Tiên tác Phật. Có làm được Tiên Phật mới độ dẫn được
chúng sanh.
Các hiền đây là người Lễ Sanh
Đầu Họ, người được Hội Thánh chia cắt coi giữ một địa hạt, trông nom một số đạo
đồ, làm Đầu Họ nơi ấy. Người Đầu Họ là người rất quan trọng, được Thầy ban
quyền ban pháp, chăm nom trực tiếp đàn chiên. Quyền hành ấy rất là trọng hệ,
phải có pháp để độ mình, độ người. Pháp đó phải nương nơi quyền, quyền được tỏ
sáng là bởi ở tâm hạnh mà ra. Tâm hạnh muốn được nở tươi xanh, phải lập trụ ở
phần trúc cơ khẩu khuyết. Mà
pháp đã trao là cơ bí mật tự nhiên hé lần, cũng như tấm màn được cuốn.
Vậy hôm nay Bần Đạo trao cho
khẩu khuyết yếu ước pháp môn, để bảo toàn thân tâm tứ bửu. Sự trao truyền pháp
không vì cá nhân, mà vì một số lớn nhơn sanh đang núp dưới quyền pháp. Người
muốn đạt cơ mầu nhiệm là phải tâm hạnh viên dung.
Sự trao đây cũng như trao cái
chìa khóa mở các kho tàng mầu nhiệm của Tạo Hóa. Nhưng trao cho, không phải
trao cái chìa cho người tịnh viên nắm giữ, mà trao bằng khẩu khuyết chỉ để nhớ
là đủ.
Nghĩa là khóa nầy không chìa
mà khóa nầy bằng số, hay chữ. Khóa
chữ thì truyền chữ để mở, khóa số thì mở bằng số. Người được truyền là người đã
được tin cậy. Vậy nghĩa của sự trao khẩu khuyết là thế.
Nói vậy các hiền cũng chưa rõ. Để rõ hơn là yếu khuyết vào tịnh hôm nay có hai phần: tâm
pháp và tướng pháp. Tướng mà tâm là Tứ Bửu; tâm mà tướng là Huyền Quan.
Vậy pháp Tứ Bửu đã trao cho
người chức sắc có quyền từ Giáo Hữu trở lên mà đặc biệt là người làm đầu trong họ,
coi một thánh thất.
Người Đầu Họ thánh thất có đủ
bốn pháp. Bốn pháp đã nói rõ, đặt cái tên rất rõ. Tên ấy có hai phần công dụng:
Một là pháp thể; hai là pháp dụng. Thể dụng như thế nào sẽ có khẩu truyền trong
đợt tịnh.
Bây
giờ Bần Đạo nói qua nhiệm vụ của người Đầu Họ có sứ mạng trong giai đoạn hoàn
thành Chỉnh Cơ Lập Pháp để tiếp ân Khai Cơ Giáo Pháp.
Người
Đầu Họ cầm giữ bộ đạo, bộ đời thì cái hồn nhơn sanh đã gởi vào tay quyền pháp
của người chức sắc có sứ mạng. Người chức sắc ấy
được hồng ân thiên tứ quyền pháp tối linh là Tứ Bửu.
Hội
Thánh đã chia quyền chăm nom sửa trị nền đạo một nơi thì nhơn sanh còn mất, vui
khổ bởi người. Toàn đạo đều núp dưới ân oai quyền pháp của người. Đạo hữu chết,
người có quyền cầu xin siêu độ. Sanh, đau, già, khổ đều do người thay Thầy và
Hội Thánh mà cứu. Đạo hữu trong họ thuộc trọn quyền người xin tha xin phạt. Nếu
đau, người cho phép chữa bệnh; tai nạn nghiệp chướng, người cho phép giải
oan; lầm lỗi, người tẩy tịnh; khờ dại, người khai đàn; biết
tùy sự, tùy khả năng mà phân công an vị; giáo hóa giác ngộ là trấn
thần; cứu đói trợ nghèo, chia đau sớt buồn, xây dựng quyền sống thế gian là
chẩn bạt, chẩn bạt cho phần hồn mới liễu kiếp. Nên quyền pháp người Đầu Họ
trở nên quan trọng.
Đầu
Họ mới có quyền thay cho Hội Thánh mà quyền ấy lại có bốn pháp, nên hay độ được người. Nếu có pháp có quyền mà không lo an dưỡng tu
học thì trái lại rất nguy hiểm. Đã đành hư thân phạm vào tam khổ, mà còn làm
cho bao nhiêu người bị xa lìa pháp đạo, lạc đọa trầm luân.
Chuồng
chiên đã giao cho chăn giữ không nên nhốt chiên mãi trong chuồng, bỏ tù, phạt
đói (nỗi sợ mất đạo) hoặc thả đi rong cương, không theo
coi chừng chăm sóc, hướng dẫn nơi ăn chỗ núp (phó mặc đạo hữu).
Cũng
như các con chiên bị bịnh không đi ăn được mà không cỏ nuôi thân (chẩn tế)
nhiều con bị ghẻ chốc lở lói không kiếm thuốc đắp dặt cho lành (trị bịnh), đám chiên nhơ bẩn bùn lầy không lo tắm rửa (tẩy tịnh) thì nào khác chi đạo
hữu trong họ đạo nhiều kẻ nhơ bẩn phạm phải quy giới, đạo pháp mà không làm các pháp trên để cứu độ về phần hồn cũng như
đời sống. Dù có làm các pháp ấy đi nữa cũng chỉ làm cái mộng mê tín chứ không làm được cái đức tin quyền pháp, cái lực
cứu thế trong quyền pháp giữa mọi người cùng Thượng Đế.
Vậy các hiền trong khóa tịnh
nầy nên ghi nhớ lời Bần Đạo để được cứu. Ngày gần đây các đệ cũng như mọi người
cùng trong cảnh khổ. Nhưng cái khổ của thế gian nó kết quả trầm mê, chớ cái khổ
của người trong quyền pháp nó vui tươi không thể ai thấy. Vậy danh lợi chi mà
cầu xin, của cải chi mà ham muốn. Vợ con, nhà cửa, bạn bè đều là nghiệp oan
dính dáng. Vui sướng cũng là mưu chước phỉnh phờ. Khổ đau cũng là phương châm
hành phạt. Nhiều người chức sắc còn quá luyến mến gia đình; rủi con chết, vợ
chết sinh lòng đảo điên, không làm chủ được tâm thanh tịnh nên không làm gương
hướng đạo cho toàn thể tín đồ.
Các hiền đệ tịnh kỳ nầy gắng
đạt lấy đầu đề mà Bần Đạo dặn dò. Nếu được thì lần hai sẽ trao khẩu khuyết bí
pháp nữa.
Bây giờ đây đã sáng rồi, Bần
Đạo chỉ ra lịnh Liên Hoa coi lại bài thánh giáo trước ([3]) để khẩu truyền Tam Bảo
Hoàn Châu và coi lại pháp môn Tứ Bửu rồi có dịp sẽ dạy thêm. Tối nay Thanh [Huệ
Linh] tiếp bài điểm danh các tịnh viên. Giờ nầy được nghỉ. Bần Đạo chào chư hiền.
Đàn Tý
thời ngày 17-4 Đinh Dậu (Thứ Năm 16-5-1957) Đức Phổ Hiền Bồ Tát giáng cơ điểm
danh tiếp các tịnh viên. Tổng cộng số được điểm danh cả hai kỳ đàn là bốn mươi
mốt người. Sau cùng, Đức Phổ Hiền dạy:
Chư đệ từ đây phải giữ đúng
theo lời chỉ bảo của ban giám thị. Luôn luôn bớt nói, bớt nghe, không được xúm
nhau trò chuyện. Đi đứng cho đoan chính, ngồi tịnh phải tôn nghiêm, nhứt nhứt
điều chi phải thi hành cho đúng. Bảy ngày qua, các đệ đã xao động nhiều lắm
rồi. Vì hoàn cảnh chật hẹp một ít, các đệ gắng lên.
Đến đây phải lo học từ ấn, quyết, chú. Phải học cho đúng, cho tinh, không phải dễ gì. Sau đợt nầy chư đệ không còn
làm sai nữa. Điều nầy phải học tận tường nơi kẻ được truyền.
Ban giám thị nên cố gắng giúp
cho tròn đợt nầy. Trông ra thì tội lắm! Về tinh thần thì ít người giúp đỡ, về
vật chất thì thiếu mọi điều, phần thì đông, khí hậu nóng. Vậy chư hiền khá chú
ý một chút.
Khóa nầy chỉ chú trọng về
khoa ôn dưỡng. Cao Tiên có dạy rồi. Coi mà làm theo.
Đàn Tý
thời ngày 20-4 Đinh Dậu (Chủ Nhật 19-5-1957),
Đức Trần Tổng Lý dạy:
Hưng khởi thời trung pháp đạo ban
Đạo ban quyền sống cứu trần hoàn
Đại công đại hạnh thông thời cuộc
Vương thổ huờn nguyên tiếp thánh ân.
Bản Thánh chào chư vị. Giờ
nầy Bản Thánh đến cùng chư vị để nói qua đôi điều về thánh ý.
Chư hiền Thiên ân trong Hội
Thánh còn thiếu tâm thanh tịnh nên chưa đón tiếp được cơ lưu hành của thời khai pháp, làm cho Hội Thánh
thiếu phần uy nghi tôn kính.
Thời buổi Càn nguyên khai nhứt tự là lúc mà Khôn
nhu đã biến thể, tượng nên dương
hào của quẻ Phục, thì mầm sanh, chồi
nứt. Vì dương cương phát động làm cho thân hình rung chuyển, cơ thể phải chịu
đau thương. Vạn vật ban sơ cũng do đó mà tiến lên.
Vật đã biến hình thì hình
thái của vật kia phải chịu khờ mệt ngây ngất đi để cho thể nầy biến sang thể
khác. Vật ấy không còn mang theo cái lốt hình cũ kỹ mà trong thể chất cũng biến
thay nhiều. Vì vậy mà vật đã vô tình tự khắc thấy mình trở nên khác lạ.
Vật đã biến đổi một phen, hay
nhiều kiếp để trở thành bản nguyên sơ khởi. Ví
như con tằm là do trứng bướm mà ra. Bướm đã nên tằm để làm bao nhiêu phận sự
của nó là nhả tơ, cuốn kén để rồi trở lại con bướm.
Có một điều ta nên chú ý là
tằm sống bằng dâu. Ngoài dâu ra tằm không hề ăn đến một vật gì khác nữa. Mất dâu thì tằm chết thôi. Dâu là sự sống của tằm, tằm nương lấy sự sống để
kéo nên tơ chỉ. Lúc tằm đã ươm thì thân hình trong trắng như gương, các vật
khác không hề sánh được. Vì tằm thỉ chung đều bám vào sự sống là dâu mà trở nên
thân hình trong sạch.
Thử hỏi chư Thiên ân và chư đạo
hữu đã tự sánh mình được chung thỉ như tằm không? Phải đạo không? Nghĩ đến
người môn sanh có ai còn vơ vẩn quẩn quanh những mồi danh bả lợi tanh hôi
không?
Nếu ta chưa làm được như thế
thì không làm nên Tiên Phật. Sự sống còn của hàng môn sanh thánh đức là sống
bằng nhơn nghĩa đạo lý, ngoài ra không lấy gì làm ưa thích. Vì vật ăn để nuôi
thân sống, chỉ có nhân nghĩa đạo đức là vật rất trong sạch bổ khỏe mà thôi. Còn
toàn bằng hôi tanh độc hại. Nên người quân tử rất thanh cao để cầu đạo lý.
Vật phi nghĩa bất thủ, nhơn
phi nghĩa bất giao.([4]) Người xưa không hề đồng tâm danh lợi, thanh cao như Sào Phủ, Hứa
Do. Đặc biệt hơn là khi cuốc đất gặp vàng, mà vàng ấy không phải của mình thì
họ bèn lấp lại, bỏ đi. Ôi! Ước mong sao trong giáo quyền của ta, chư hướng đạo
làm được cái người ấy để làm gương, đừng khuất phục trước oai quyền danh lợi,
nuôi mộng thanh cao trung chính.
Bản Thánh nói cũng dông dài.
Nhắc lại hào dương trong quẻ Phục. Hào dương mới tượng
là hào dương kết tụ nhiều thiện duyên được cấu thành trong Khôn quái biến phân hóa thành Phục. Phục là Địa Lôi Phục. Lôi là sấm sét, Địa là đất. Đất bị sấm sét,
hay sấm sét ở nơi đất làm cho đất rung chuyển mà cây cỏ vạn vật trên đất phải
rúng động. Vật bị rúng động, hoặc phải hoảng hốt mà lưu tán, hay phi tẩu đến
một nơi, hay cùng đi bằng cách âm thầm không quyến rũ.
Tình trạng hiện nay trong Giáo
Hội có khác gì. Hào dương cương là sức sống còn lờ mờ, kẻ không thánh tâm biết đâu mà
tìm được. Đã lờ mờ trong tâm giới, thì làm sao thấy được lằn quang tuyến của nó
trụ phát nơi đâu. Vì trong tâm giới là nơi trong, mà mắt người lại trông ra ngoài,
sao thấy được. Muốn thấy được nó, bây giờ ta phải ngược lại, trông vào. Để tai
lóng bên trong tâm khảm nghe được nó nói, thấy được nó làm. Nếu không chịu hồi
quang phản chiếu vào trong, mong gì gặp được dương thần sơ động.
Dương thần là gì? Dương thần
là chơn chưởng thuần nhiên vô niệm thanh tịnh, trái ngược với âm thần. Âm thần
là hữu niệm, vọng tình tham sân ái dục. Nên cái chỗ lờ mờ mà Bản Thánh nói là
nơi Hỗn Độn Tiên Thiên Đại Đạo, là chơn không thuần nhiên hạo hạo. Để cho Thiên
ân làm đuốc đưa đường, gắng tu thân, lập hạnh để cầu thánh ân, phước huệ. Việc
mà Đức Giáo Tông đòi hỏi đó là việc như thế cả.
Bây giờ cần xây dựng các bộ
phận, như thánh thất tổ chức lại.
(…)
Còn việc cầu phong chưa đúng
với thể lệ nội luật và xa thánh ý nên không được chấp nhận. Đã bảo y theo quẻ Sư
thì phong người có công đức. Ai có công đức là được, không chấp khả năng. Mà
người khôn ngoan ranh mãnh là người ít nhiệt tâm. Vả lại họ cũng mới mẻ chưa
công cán bao nhiêu nên chưa dự vào được thánh ân.
Người chết sống với Đạo mười
lăm, mười bảy năm qua, đường tu không gián đoạn, công trình khó nhọc với phận
sự từ lâu, phụ trách mọi việc không bị khuy khuyết, thì nên phong vào hàng
Thiên ân hàm vị. Còn từ năm Đại Đạo 29 [1954] về sau cũng tùy tâm nguyện khả năng. Định
việc cho họ lập công để chờ ngày vào hàng Thiên tước, trừ ra Thầy giáng cơ
phong thưởng.
Về
cầu phong sắc hành chánh, dựa theo quẻ Phục. Nghĩa là
dựa theo tâm đức. Sơ hào quẻ phát triển lần lần lên nhị hào, tam hào, lần lần
lên đến thuần dương. Nghĩa là coi con người có thể gánh vác việc nặng những khi
khó nhọc. Người có tài về ngôn ngữ, văn hóa, nghệ thuật thì cử vào nhơn viên
nội chánh. Lập bản đệ lên chuẩn phong, chờ khi nào tâm đức vững sẽ được đưa qua
làm Lễ Sanh hay Giáo Hữu. Vì phải căn cứ bài thánh giáo trước dạy về Thiên
phong là tài phải theo đức, đức phải nương tài. Các hiền coi đó mà xếp đặt. Nếu không được thì Bản Thánh sửa chữa.
Việc
đi lập đàn cho khóa, để trái thánh ý thì hỏng cả mọi việc khác, nghĩa là không
quá ngoài sự định của thánh ý.
Về
Thiên phong thì cầu nguyện mà đón tiếp, không nên nôn nóng thành ra dục vọng,
có hại cho cơ cuộc trung hưng. Bản Thánh chào.
Hôm nay tôi thừa lệnh Ngô Cao
Tiên lâm đàn nói qua ít việc. Chư tịnh huynh đã cầu nguyện xin truyền pháp để
tu. Được một số người còn một số chưa được. Cao Tiếp Quân có đến Cao Tiên xin
thêm để kịp kỳ hồng ân tận cứu. Vậy tôi vâng lệnh nói rõ, chư tịnh huynh giờ
nầy phải cầu nguyện xin keo thêm
để tiện việc truyền đạo. Một số chưa được sẽ chờ ở lần sau.
Đàn đêm
24-4 Đinh Dậu (Thứ Năm 23-5-1957), Đức Bạch Phụng Đồng Tử giáng:
Bạch Ngọc chín từng cửa rộng khai
Phụng vâng Thiên lệnh độ trần ai
Đồng tâm hiệp sức xây nền Đạo
Tử đệ ráng tu luyện đảnh đài.
(…)
Nguồn đạo pháp chung tay xây
đắp
Hòa hiệp nhau tạo lập thánh đường
Chung tay phổ độ mười phương
Chung nhau cất bước lên đường quang minh.
Đầu Họ Đạo cần tinh quyền
pháp
Phải rõ đường đọa lạc siêu thăng
Vận hành huyền lực linh năng
Lãnh phần bày dạy khuyên răn tín đồ.
Lòng phải cho thanh cao hòa
ái
Tâm phải luôn vô ngại não
phiền
Trong người
có đức Thần Tiên
Ngoài ra phải có căn duyên giúp đời.
Lãnh tín đồ một nơi khuyên
nhắc
Làm người anh dìu dắt con Thầy
Chư hiền cả thảy nơi đây
Ráng lo học hỏi đủ đầy đức tin.
Thôi, Tiểu Thánh không được
nói nhiều. Chư hiền thành tâm tiếp bạn của Tiểu Thánh đến.
TIẾP ĐIỂN
Liên hoa ướm nở đợi người Tiên
Hương vị Bồng Lai sạch não phiền
Đồng đạo an nhàn vui cảnh Thánh
Tử tôn tu tánh độ trần miền.
Tiểu Thánh chào chư vị. Mời chư vị an tọa.
Hôm nay nhắc lại công trình
quá vãng của tôi và chư Thiên ân trong thời kỳ hưng Trung phổ độ. Từ khi tôi lãnh sứ mạng ra đây để giúp cho chư Thiên ân
trên công tác cũng như tinh thần, để nơi đây lần đầu tiên có đủ người chung tay
lo đạo, rồi đến khi Tôn Sư của tôi đến đem tôi về, tôi cũng mãi lo phần chư
Thiên ân nơi đây thiếu tay gánh vác.
Thể lòng ưu tư của tôi nên
chư Phật bố điển khai tâm, giác trần ngộ pháp, nên bây giờ có một số người hiểu
được đôi phần pháp đạo. Đó là lý do.
Bây giờ chư Thiên ân hãy sắp
xếp công việc nơi Trung Hưng để tiếp kỳ Thánh ân khai tâm tịnh định (mười tám ngày).
Chư hiền luôn luôn cầu nguyện
đi, để có nhiều trợ duyên khi chư hiền hành công đạt đạo. Lâu nay tôi thường
đến đây để trông nom giúp đỡ về tư tưởng của chư hiền, nhưng chư hiền nào biết
được.
Khóa Lễ Sanh Đầu Họ sẽ được hồng ân của Cao Tiên vào một đàn xuất tịnh. Vậy ngày 26,([6]) ban giám thị lập một bản danh sách của các ban giúp công. Khóa Lễ Sanh
tân phong sắp đến chư hiền phải lo chuẩn bị.
Thôi, tiếp hiền hữu Cao Tiếp
Văn Pháp Quân. Tiểu Thánh chào.
TIẾP ĐIỂN
Cao thượng thậm thâm pháp đạo truyền
Tiếp thừa thiên điển chuyển huờn nguyên
Quân dân thấu hiệp lo nền đạo
Giáng hổ chờ cho hội đắc truyền.
Chào chư hiền hữu. Tiểu Thánh
được lệnh Cao Tiên đến đàn viếng đợt tịnh và hầu thăm quý hiền hữu trong Hội
Thánh Trung Hưng.
(…)
Giờ nầy Tiểu Thánh đến để ra
lịnh cho khóa công phu của chư vị Lễ Sanh tân phong. Khóa nầy khai mạc vào ngày
8 tháng 5.([7]) Chư đệ ôm ấp chuẩn bị để khóa nầy được hoàn toàn hơn. Khóa của Đầu
Họ còn một số chưa được truyền, chờ kỳ đàn xuất tịnh giải quyết.
Chư hiền hữu khỏi lo. Các
công việc sau nầy sẽ chỉ. Trần Tổng Lý có chuyển lời nhờ Tiểu Thánh nói lại
điều nầy và Giáo Tông sắc lịnh cho Hội Thánh. Hội Thánh phải nhận xét về các
điều kiện của thánh thất nào mới thành lập để dâng lên Người chuẩn y. Chư hiền
hữu chiếu y thánh ý thi hành. Thôi, mọi việc còn chờ lệnh, Tiểu Thánh chưa có
thể nói.
Hiệp Thiên Đài, chư hiền lo
phần bảo pháp. Các thánh giáo về nội vụ cũng như đàn nhập tịnh tuyệt đối không
một ai được biên chép. Về mật pháp còn quan trọng hơn. Dù ai đó là Giáo Sư,
Giáo Hữu cũng không được tự do.
Thôi, Bản Thánh chào chư
hiền. Thăng.
Y theo lịnh, sau mười tám ngày khóa tu tịnh của Lễ Sanh Đầu Họ Đạo khép
lại. Vào Tý thời ngày 27-4 Đinh Dậu (Chủ Nhật 26-5-1957) Hội Thánh lập đàn và
được Đức Ngô Cao Tiên ban ân giáo đạo:
Đại thể càn khôn thị hiện rồi
Đức lành ngày một được sinh sôi
Cao ban ân phước kỳ khai pháp
Tiên Phật làm nên quả đắp bồi.
Giờ chư hiền đồ xuất tịnh,
Bần Đạo đến có mấy lời khuyên. Mỗi cá nhân sau khi trở về với nhiệm vụ phải làm
thế nào cho toàn đạo nơi địa hạt cai quản được vui sướng kính nể, tự thấy nơi
địa phương mình đã đón được hồng ân, tin tưởng từ nay được sống dưới quyền pháp
uy linh của Cha Lành, luôn luôn tươi tỉnh, không còn ngờ nghi lo sợ.
Các hiền đồ sống cùng Bần Đạo
trong mười tám ngày dưới khoảnh khắc oai linh hồng từ Thượng Phụ, đã cùng tắm
gội trong ao Thất Bửu Liên Trì, thì bao nhiêu nghiệp thức tội tình cũng được
trôi chảy phần nào.
Mặc dù chưa hoàn toàn trong
sạch, nhưng nó cũng là bước đầu của đường tu để tiến sâu vào phương siêu phàm
nhập thánh. Nên trong lúc ra về cần gìn giữ cái thân tâm cho được trọn vẹn.
Đừng vì một lợi nhỏ mà bỏ lợi lớn. Vì sự sống giả tạm mà quên cái sống vĩnh cửu
miên trường, hay sống cá nhân mà quên sự sống cho toàn bộ.
Hôm nay chư hiền đồ được hồng
ân đã thọ nơi Thầy một quyền pháp đưa bước cho mình và cho đời tiến sang nơi
phước địa. Được tránh thoát cái họa hại ở cảnh địa phàm phu thì làm sao xứng
mình, xứng người. Đừng có một cử chỉ tầm thường, gây cho nhơn sanh phạm phải Thiên
điều, chạm nhầm luật pháp.
Chư hiền đồ ngày tới đây nếu
được công phu thuần thục liên tiếp không ngừng, thì điển huệ gội nhuần, tâm linh sáng suốt, hồn phách nhẹ nhàng. Trong giờ phút thanh cao yên lặng
có thể cùng Bần Đạo thường xuyên gặp gỡ, mà được đưa lên nhiều cõi cao thanh
hơn để học tu pháp lạ.
Vậy sau giờ nầy các hiền phải
làm gì để được xứng đáng cái ngày đã vào tịnh? Làm chi cũng không thiết cần
bằng xây dựng lấy bản thân đạo hạnh. Từ lời nói, việc làm đều e dè, mực thước.
Mọi cử chỉ, thái độ phải được khuôn mẫu, tươi vui.
Người anh trong lãnh vực đạo
đức không phải dễ gì. Làm sao cho vui đẹp lòng người là vui đẹp ý Thầy. Mọi
người biết kính mến tưởng tin, là những phẩm vật để cúng dường cho Thượng Đế.
Nên người Đầu Họ ở một thánh thất là người khâm sai trấn lãnh để an toàn địa
phận môn sanh. Kẻ đói người đau, phải cần lo liệu. Đứa
ngang đứa dọc, lỗi ấy về mình. Sự nghịch lẫn chia xé nhau trong họ mà khuyên nhủ
không nghe, dàn xếp không rồi, phải mau mau cầu nguyện. Đem mình đến trước điện
để sám hối mà xin toàn đạo chỉ bàn để lo tròn phận sự.
Người Thiên ân là người gương
mẫu, là hiện thân của Tiên Thánh, để làm cái hình cho mọi người trông vào, để
đúc nắn cái thước để đo. Bởi vậy việc làm của đàn anh đâu phải dễ. Anh của nhơn
sanh dưới thánh thất, mà em của chức sắc nơi Hội Thánh. Ở hạ tầng lại là gay go
hơn hết. Người trên sai sử, kẻ dưới trách hờn. Được việc đời thì trái cùng lẽ
đạo. Làm đúng phép lại bị đụng chạm đến quyền lợi, thân tình. Vậy tùy thuận mà
lo chiết trung để điều hòa cho Thiên nhơn tương tựu.
Đôi khi phàm phu không phải
nghịch hẳn với thánh ý nhưng quá chìu chuộng theo lòng người thì lại trái với
lẽ đạo. Mà hùa theo người thì vô tình để cho nghiệp thức che án lẽ phải, mở
rộng cửa đời. Vậy muốn làm đúng, nghĩ đúng, nói đúng, trông vào được đúng, nghe
đến rõ ràng, chỉ có cách là thanh tịnh vô tư, không còn để một màu sắc gì án
che mà giả chơn khó phân biệt. Nghĩa là không nên thấy người ngoài hình tướng,
mà thấy người tận chơn tâm.
Vậy khi trở về với nhiệm vụ:
1. Dọn mình công phu, để chế
luyện tâm thân cho trọn vẹn mà cúng dường.
2. Đem cả thân tâm làm bao
nhiêu công việc của sứ mạng đã giao phó.
3. Lấy sứ mạng và công phu để
xây dựng thánh hình, hầu trấn ngự tà quyền xâm lăng vào lĩnh vực Thánh Hội.
Nghĩa là ôn dưỡng pháp môn
rèn luyện thân tâm thuần khiết, nhóm khởi chủng duyên làm cơ sở truyền đạo, giữ
đạo. Nghĩa là hợp đồng bốn cơ quan cùng Chánh Phó Trị Sự, Thông Sự để liệu
phương giải quyết mọi việc cần cấp trong họ đạo, làm cho chánh pháp trôi chảy
khắp lòng đạo hữu.
Trong
lúc chỉnh cơ là lúc làm được đúng pháp dưới quyền Đầu Họ. Về phần trong có Ban
Cai Quản hành chánh, phần ngoài có Ban Trị Sự bảo vệ nhơn sanh. Trong ngoài ứng
dụng lưu hành là Phước Thiện, Phổ Tế để đẩy mạnh bước tu, gội lòng đen tối. Gần
bên cạnh thì Minh Tra nắm vững tình hình làm cây gậy để mọi người nương bước
nhẹ trên đường chông chênh khỏi nghiêng ngả. Vậy chư hiền đồ theo y.
Từ
nay cho đến ngày gặp lại, thời gian ấy còn lâu. Phải trì chí mà tu. Bước càng cao thì càng mệt
nhọc. Người có quyền thì gặp thế, có pháp thì gặp tài, nên cây cao chịu gió. Tề
Thiên là người có pháp thất thập nhị huyền công, ma quỷ nghe danh, bọn ấy cố
tìm gặp Tề Thiên đặng đấu tài đấu phép.
Các
hiền cẩn thận mà phải tin tưởng sức mình. Đã xăn tay áo nhảy lên võ đài, thì dù
hơn thua cũng không thể chối từ trước khán giả, trong lúc đôi bên địch thủ. Đã
là võ sĩ thì sao ngơ được trong lúc một hùm nghinh ngang giữa đàn chiên hiền
hậu. Là hướng đạo thì làm sao không đương đầu dẫn bước cho kẻ đi lạc loài. Vậy
trong tay có phép đổi dữ ra lành, trong tâm có Thầy hằng thúc giục làm những
việc độ nhơn cứu thế trị nhân. Lấy quyền pháp mà học lời Y Doãn ([8]): Chỉ có ta mới làm
được dân nầy trở nên đạo đức, vua nầy trở nên Nghiêu Thuấn.
Phần sau bài thánh giáo là kiểm pháp và kiểm tu.
([1]) Địa Thủy
Sư gồm trên Khôn
(đất, nhu thuận), dưới Khảm (nước,
hiểm trở, gian nan). Nước tụ lại trong đất: nhân sinh tụ về Giáo Hội. Lấy nhu
thuận giải trừ hiểm trở gian nan. Hào hai dương cương đắc trung ở nội quái là chủ quyền. Năm hào âm
nhu thuận tùng quyền. Vai trò nắm quyền phải xứng đáng, đừng để cho kẻ thiếu
tài đức dự vào.
([2]) Thủy Địa Tỷ gồm
trên Khảm (nước), dưới Khôn (đất). Nước trên đất sẽ
thấm xuống, đất hút lấy nước. Nước hợp với đất gầy dựng sự sống. Hào năm dương
cương đắc trung ở ngoại quái, đó là vị trí thủ lãnh. Đạo đồ tìm thầy cần thành
tín, trung chính, vì đạo pháp không cần danh lợi. Phải tự nguyện. Quẻ nầy mang
đạo lý của mối liên hệ: lãnh đạo trung ương phải hòa thân với cấp tỉnh, cấp
tỉnh phải thân ái với chúng sinh.
([5]) Liên Hương là đạo hiệu của tiền bối Bảo Pháp Trần Thảnh
Thơi (chức sắc Hiệp Thiên Đài thuộc Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên). Tiền bối là một nhà tu
chơn, trì thủ ở thánh tịnh Bát Bửu Điện, đã chăm lo việc khai khiếu cho Tứ Linh
Đồng Tử năm 1934. Năm 1937 tiền bối cùng với đồng tử Huỳnh Cần Kiệm phụng mạng
Thiêng Liêng chuyển ra Quảng Nam thánh lệnh “Nội Luật Thánh Tòa khai giáo Bắc
Trung”.
([8]) Y Doãn 伊尹: Một vị
hiền tướng, khai quốc công thần của triều đại nhà Thương, Trung Hoa. Lúc hàn vi
ông cày ruộng ở đất Sằn 莘. Về
sau Y Doãn có công giúp Thành Thang 成湯 tiêu diệt vua Kiệt 桀 bạo ngược của nhà Hạ 夏,
thành lập nhà Thương 商 (1711-1066 trước Công Nguyên) và phò nhà Thương (cũng gọi
nhà Ân, hay Ân Thương 殷商) ổn định trong thời gian đầu.
PHẠM VĂN
LIÊM