VI. VUN NỀN PHƯỚC HUỆ
Đàn tại
thánh tịnh Thanh Quang ngày 22-02 Đinh Sửu (03-4-1937), Đức Chí Tôn dạy:
Trước lo tròn bớ con nam nữ
Nghe
Thầy chia phận sự mỗi con
Mỗi con lo liệu cho tròn
Quả công vì Đạo, sử còn tạc ghi.
Đàn tại
thánh tịnh Thanh Quang ngày 25-01 Mậu Dần (24-02-1938), Đức Nhị Trấn Oai Nghiêm
Quan Âm Bồ Tát dạy:
Biển khổ sóng khua lã chã reo
Từ đây Nam Hải đã gay chèo
Buồm trương thẳng bến bờ đông độ
Bớ các hiền ân chóng bước theo!
Tín nữ ôi! Những lời kim thạch ta đây, khá
nhớ chạm lòng, rồi mới mong ngày tới đây Ta sẽ độ rỗi cho.
Đàn tại
thánh tịnh Thanh Quang ngày 25-02 Mậu Dần (26-3-1938), Đức Mẹ Diêu Trì dạy:
Giờ nầy về sau, Mẹ khuyên nữ phái các con,
chị em chung tâm hiệp trí để độ dẫn cho nhau, kết nên đoàn thể hầu ra độ dẫn
chúng sanh. Lo lập công cho kịp kỳ Long Vân Đệ Bát đó con.
Bớ trẻ mau chơn chớ thõng thừa
Ngày giờ thấm thoát tợ thoi đưa
Buổi mai chưa ngót chiều xoay đến
Gần hội Long Hoa trẻ rõ chưa?
Đàn tại
thánh tịnh Thanh Quang ngày 23-9 Mậu Dần (14-11-1938), Đức Trưng Trắc Thánh
Nương dạy:
Non sông khí tượng đúc anh tài
Phong hóa suy đồi hỏi tại ai?
Gái chẳng xử xong rồi phận gái
Trai còn không đáng mặt làm trai
Râu mày lem luốc anh hùng lợt
Son phấn bồi tô nữ liệt phai
Hồng Lạc hỡi ai, ai đó nhỉ?
Miếu đường ai chống vững lâu dài?
TRƯNG TRẮC THÁNH NƯƠNG
Thánh chào chư Thiên mạng, chư tín nữ.
Chư tín nữ ôi! Trào lưu tân tiến, bồng bột
nổi sôi. Ôi, nhơn sanh ơi! Phụ nữ rất tệ rất hư. Luồng gió văn minh càng độc ác
dữ kia, từ Âu Mỹ, từ Tây phương thổi đổ phong trào Đông phương đạo đức. Đời ở
vào thế kỷ 20, nhơn loại vì miếng đỉnh chung cấu xé giựt giành mà phải đến nỗi
chém giết lẫn nhau, chẳng chút lòng ghê gớm.
THI
Nhơn
loại than ôi, khó nỗi than
Văn
minh phong hóa sắp điêu tàn
Tàn
linh phải chịu cơn lao lý
Lụy
đổ dầm dề khó nỗi than.
Thánh
rất đau lòng, rất thống khổ cho phận nữ lưu. Kể lại hai thời kỳ, như thời kỳ
thế kỷ 18 sắp sau, Đông phương đạo đức học, thì phận gái ở vào một khuôn khổ là
tùng phụ, tùng phu, tùng tử. Ôi, tùng cho đến nỗi mãn thân nô lệ mà tùng chưa
hết tùng! Cho đến chết mất, luân hồi cũng chuyển thân vì nghiệp cũ. Vì thế mà
văn minh cải cách nhơn loại duy tân, bày ra giải phóng bình quyền. Cho đến nỗi
trai bỏ vợ, gái bỏ chồng, ngổn ngang dồn dập, má phấn môi son, lũ bảy đàn năm.
Đời như thế có ai gọi rằng văn minh đó nhỉ? Ôi, tệ thay! Tệ thay!
Ôi, gái
ôi! Con Lạc cháu Hồng, móng nhà non sông đúc nắn, đời mãi kiếp làm thân phụ nữ,
khôn ngoan mấy cũng đàn bà. Đời có vui thú chi, có quý trọng chi mà toan lớn
tiếng cao lời, mong để kẻ bẩm chào, người kính trọng. Ôi! Ba ông táo chưa ra
ngoài khỏi, có ra gì mà giải phóng bình quyền. Rất tệ hại cho hai chữ nữ quyền.
Ít nữa một hạng người thượng lưu trí thức chưa chắc hiểu được, thế mà nhơn sanh
thường dụng, mở miệng bình quyền. Ôi!
THI
Xem
gái nhà Nam khó nín cười
Đầu
người hình thú có chi vui
Than
ôi! Nước đổ nhà xiêu thế
Thế
cũng vì hư lại trách Trời.
Tội
nghiệp cho đến một hạng người hang sâu cùng ngõ, chân lấm tay bùn, thế mà hở
môi cũng muốn bình quyền. Mà hỏi lại hai chữ bình quyền thì chỉ biết mắng chủ
chửi chồng, ai cũng có một quyền đặc biệt. Ôi, đời như thế! Nước non như thế!
Phận
gái là phận tề gia. Nếu gia bất tề thì làm sao mà đại đồng xã hội, hỡi ai? Thế
thì phải cậy một tôn giáo để cứu rỗi cho người biết lẽ phải, không thì họa may
đời mới sót lại một đôi người đạo đức. Vì cớ mà Việt Nam ta nhờ chư Thánh Thần
Việt Nam cầu khẩn mà đặng một nền chơn đạo quảng truyền thì một dịp ngàn năm có
một. Lẽ đâu nữ phái đành làm ngơ đó ư?
THI
Cơ
hội trăm năm đặng một lần
Quyết
mà tìm đến ở nguyên nhân
Nhà
Nam phong hóa tô bồi lại
Cậy
phái nữ lưu sớm bước lần.
Giờ
nầy Thánh rất mừng vì đắc lịnh lập Nữ Phái Liên Đoàn.
Than
ôi! Vì nghĩa vụ mà Thánh xin mượn tay đồng tử để trực tiếp với các nữ lưu. Sau
nầy nữ phái lo tổ chức cơ quan, Thánh sẽ nguyện lãnh lấy một phận sự. Vậy chư
tín nữ bằng lòng chăng? Nếu bằng lòng sẽ chia cho Thánh một phận sự nghe. Thôi,
vì gấp quá, lịnh sắc Mẫu Hoàng, Thánh phải lui. Khá thành tâm khử trược chỉnh
tề tiếp giá nghe.
Thánh
chào các vị. Thánh lui.
TIẾP ĐIỂN
DIÊU
TRÌ KIM MẪU VÔ CỰC TỪ TÔN
Mẹ
mừng các con. Các con nữ phái ôi!
THI
Trăm
chiều ruột đứt chẳng đành than
Than
nỗi con ôi, Nữ Phái Đoàn
Đoàn
Nữ nếu mà không sớm lập
Sau
này chẳng khỏi hiệp rồi tan.
Các
con an tọa.
Các
con nữ phái ôi! Mười mấy năm nay rồi, Mẹ quyết lập nền chơn đạo, sẽ tầm hết
phương mà độ rỗi các con, nâng cao trình độ nữ lưu đặng như các Thánh Thần,
Tiên Phật.
Ôi, con
ôi! Thế mà đã mấy phen, nào là Nữ Chung Hòa Phái, Nữ Đạo Hòa Minh, cho đến Nữ
Phái Liên Đoàn. Thế mà mẹ coi lại tuổi tên thì nhiều chớ kỳ trung người đâu
chưa thấy. Các con ôi! Nếu cứ bỏ qua lơ lửng, việc khó không làm thì bao giờ mà
nên được hả các con? Hai chữ Liên Đoàn ngày hôm nay là chỉ để nói suông ngoài
miệng, cho biết là nữ phái có Liên Đoàn, rồi phải liên đoàn đến quốc gia, xã
hội mình mới lớn lao chớ!
Con
ôi! Nói qua phải lo làm. Làm phải chịu cực khổ. Đây rồi một phận sự của mình đối với đời.
Một phận sự mình rồi thì ngước lên chẳng hổ với Thánh Thần, cúi xuống không
thẹn cùng cỏ cây, cầm thú đó con.
Giờ
một điều quan hệ là nữ phái thất học, phải chịu quê mùa, rồi ra lý tưởng chẳng
đủ đầy. Người phải nghe đâu tin đó, nào dị đoan, nào là mê tín. Thứ nhất là lũ
tà quái hay gạt gẫm nữ lưu. Các con vì những cớ đó mà trình độ nữ phái ngày nay
càng thấp hèn, càng bữa càng hư tệ. Mẹ rất đau đớn bèn lập Nữ Phái Liên Đoàn là
để dạy dỗ các con có hai điều mà thôi:
Một
là chị em biết thương yêu nhau. Hai là chống lại cái nạn thất học cho nữ lưu
đặng bước lên con đường tối tân đạo đức đó con. Thế mà, một hai năm nay, ra
lệnh nhiều lần song mà việc hành vi chưa có chi kết quả. Nay đây một lần nữa Mẹ
quyết định lập cho rồi. Các con nên tận tâm với Mẹ, nghe các con!
THI
Đã
lắm phen rồi đó bớ con!
Dạy
ra phận sự trẻ chưa tròn
Làm
sao nữ phái chưa thành lập
Con
hỡi hay chăng đó hỡi con?
Giờ
các con phải thực hành như thế nầy: Nơi Thanh Quang cũng còn mượn để lo tổ chức
cơ quan. Còn trong Nữ Phái Liên Đoàn có chia ra làm nhiều chi nhánh. Cần nhất
là tín đồ nơi nào phải rõ ràng tên họ thuộc vào thánh thất ấy. Mỗi thánh thất
có một chi nhánh Nữ Phái Liên Đoàn, trong đó có hai người quan hệ: Một là Hội
Trưởng, hai là Thư Ký. Còn ngoài ra liệu lấy mà đặt, như Thủ Bổn, v.v...
Mỗi
nơi đều có một cơ quan thực hành lo phần tài chánh. Tài chánh thì nơi nào để
nơi ấy giữ. Và tùy phương tiện mà làm ra, công, nông, thương tự ý. Nơi cơ quan
Tổng Hội thì không cần những điều ấy, song mà cũng phải đặt một Ban Hành Sự cho
đủ. Nếu như khi nào có sắm điều gì, thì phải yêu cầu nơi các chi phái rõ ràng
rành rẽ xuất phát ra mà cứu cánh.
Còn
lại cơ quan Tổng Hội một tháng hội một lần. Một lần đó chỉ quan hệ với mỗi chi
phái. Phải có hai người về họp, hai người ấy là Hội Trưởng và Thư Ký. Tùy tiện
có khi trở sự phải có người thay mặt.
Còn
các chi nhánh, mỗi tháng nhóm bốn lần để lo bàn bạc việc hành sự của chi nhánh
mình.
Nơi
cơ quan có một tòa soạn nghĩa là cho có chỗ để kinh sách, thư từ nơi đến, để có
người chưởng quản. Giờ chưa có ai để cậy nam phái. Trác thay mặt dùng tòa soạn
đó ở Trung Thành vì phương tiện hành sự.
Nơi
tòa soạn mỗi tháng phải lập ra bốn vấn đề gì cần hỏi, cần làm.
BÀI
Cung
Diêu Mẹ đau lòng lắm trẻ
Ghé
lại đàn chỉ vẽ cho con
Con
ôi, lòng sắt dạ son
Quyết lo nữ phái cho tròn phận tu
Đời các con ví dù danh vọng
Cũng chưa ai khỏi hỏng hờ đâu
Con ôi, muôn kiếp dãi dầu
Mảnh thân lịu địu khó hầu mang đi
Hỡi nầy con thời kỳ sắp đặt
Đặt Liên Đoàn dìu dắt chị em
Chi chi trên chống dưới kèm
Chị lo phần chị thì em sẽ rồi
Ôi, con ôi, đành ngồi vậy ngó
Ngó cho đành con có rõ chưa
Hềm vì phận gái thớt thưa
Liễu bồ dãi gió dầm mưa chưa tường
Đời khổ nỗi vui mừng chi trẻ
Trẻ con này, Mẹ kẽ cặn rồi
Chẳng nghe thì chớ, đành thôi
Chẳng nghe, con chớ trách Trời, nghe con!
Thôi, Mẹ ban ơn các con. Mẹ thăng.
Hội
Thánh không thể chậm trễ thành lập Nữ Đoàn. Giáo Sư Nguyễn Quang Châu lo sắp
xếp nhân sự cho Liên Đoàn Trung Ương; ngày 09-9 Mậu Dần (31-10-1938) dâng lên
Ơn Trên danh sách gồm có:
Chánh
Hội Trưởng: Lê Chơn Giác (cụ bà Lê Trí Hiển)
Phó
Hội Trưởng: Lê Thị Tịnh (Xã Nho)
Chánh
Thư Ký: Trương Thị Ngọc Dung (Cửu Đô)
Thủ
Bổn: Phan Thị Chuyển (Chánh Diệm, cụ bà thân mẫu Giáo Sư Nguyễn Quang Châu)
Nghị
Viên: Nguyễn Thị Hiến (bà Trần Công Ban)
Liên
Giao: Trần Thị Tuyết
Phụ
Tá Phó Hội Trưởng: Nguyễn Diêu Trinh (Thanh Sang từ Minh Chơn Đạo), Võ Thị Yến
Cuối
năm, các chi đoàn ở tám thánh thất được thành lập và cắt đặt người trách nhiệm
trị sự:
1.
Thánh tịnh Thanh Quang: Phan Thị Chuyển
2.
Thánh thất Nam Trung Hòa: Lê Chơn Giác, bà Cửu Diễn
3.
Thánh thất Từ Quang: Lê Thị Tịnh
4.
Thánh thất Linh Bửu: Bà Phó Huỳnh, bà Chánh Tiềm
5.
Thánh thất Trung Quang: Bà Xã Ngại, bà Xã Hoài
6.
Thánh thất Trung An: Võ Phi Yến, Trần Doãn Cơ, Trần Chơn Bảo, Trần Thục Cơ,
Phan Thị Hòe, Võ Thị Tuế
7.
Thánh thất Trung Hòa: Bà Cử Quỳnh, Nguyễn Chơn Hóa
8. Thánh thất Trung Thành: Thanh Sang
Đàn tại thánh thất Trung Thành, ngày
14-10 Mậu Dần (05-12-1938), Đức Vân Hương Thánh Mẫu dạy:
Bần
Nữ thọ mạng Diêu Cung đến đây tỏ đôi hàng cùng chư tín nữ. Tín nữ à! Liên Đoàn
Nữ Phái, Bần Nữ rất mừng vì cũng đã thành lập. Vậy từ đây chư tín nữ khá tiến
hành cho kịp lời Ơn Trên đã dạy như mấy đàn trước. Chư tín nữ ráng tận tâm tận
lực sẽ có Trưng Trắc Thánh Nương giúp tay cùng chư tín nữ.
Cùng đàn cơ này Đức Trưng Trắc Thánh
Nương dạy:
Giờ
này Ta đến đây để tỏ qua vài câu chuyện. Chư hiền nữ ôi! Ta đã dạy rồi mà chư
tín nữ có người nào bằng lòng cho ta chung sức lập Liên Đoàn Nữ Phái chăng?
Cười… Sao?
Phận
gái linh đinh giếng nước bèo
Lớn
ròng muôn kiếp vẫn đeo theo
Thảm
thương, bánh méo vì khuôn méo
Chẳng
đặng con lân bởi mẹ mèo.
Phần đông phái nữ sống ở miền quê, ít học
hành. Từ khi tiếp xúc thánh ngôn, thánh giáo, họ dấy lên phong trào tu học, để
cùng chung bước với phái nam trên sứ mạng độ đời.
Đàn tại thánh tịnh Thanh Quang ngày 03-01
Kỷ Mão (21-02-1939), Đức Trưng Trắc Thánh Nương dạy:
THI
Trăm
hoa đua nở, cảnh trời xuân
Nghìn
tía khoe tươi rộn rã mừng
Mừng
gặp Tam Kỳ cơn mạt kiếp
Mừng
nay Nam Việt hết gian truân
Mừng
câu bác ái tràn ba cõi
Mừng
tiếng Cao Đài khắp bốn phương
Hỡi
kẻ độ đời mau bước chóng
Có về
nhắn hỏi khách Đông Quân
Hỡi
khách Đông Quân thấu nỗi lòng
Liên
Đoàn liên mãi, mãi chưa xong
Ngày
nào Nam Bắc Trung hòa hiệp
Hai
chữ Liên Đoàn khỏi tiếng suông.
Chào
chư hiền nữ. Văng vẳng bên tai cái tên Liên Đoàn Nữ Phái đã lan chảy Trung Kỳ.
Hỡi
chư hành sự Liên Đoàn Nữ Phái ơi! May mắn chư hiền nữ gặp Đức Cao Đài lập nền
chơn đạo nơi nước Việt nầy. Hôm nay chư hiền nữ đã bước một bước khá cao trên
nấc thang tôn giáo.
Nói
đến hai chữ Liên Đoàn ta rất ngậm ngùi đau xót trên hai năm trường có lẻ, mà
hôm nay cái danh với cái thực chẳng chung đường, rồi làm sao đây?
Cơ
quan Tổng Hội cũng vẫn thiếu nhân tài, biết ngày nào chư tín nữ thực hành theo
bản ý Đức Mẫu Hoàng giữa cõi đời trường học tiến hóa này, dù gái hay trai cũng
phải đương nhân bất nhượng.
THI
Hồ
thỉ kiếm cung gái há không
Ai
kia nợ nước lại ơn chồng
Chị
em đua mãi tuồng son phấn
Quần
vận yếm mang nhục nhã chung.
BÀI
Thân
cá chậu khó bề lặn lội
Phận
chim lồng khó nỗi nghinh ngang
Lỡ bề
sinh phận hồng nhan
Cam
bề dưới trướng trong màn tối tăm
Xét
suy kỹ tủi thầm cho phận
Gẫm
nhân tình mà giận cho duyên
Sinh
chi cái phận thiền quyên
Trọn
đời nô lệ dưới quyền nam nhân
Nghĩ
mà tủi cho thân nhi nữ
Nghĩ
mà đau kìa chữ tam tùng
Vì
đâu phụ nữ chịu chung
Hết
tùng cha mẹ lại tùng chồng con
Suốt
đời phải cúi lòn xó tối
Việc
sơn hà thây thối mặc ai
Biết
đâu gái cũng như trai
Cũng
con Thượng Đế, hai vai cũng đồng
Cũng
gánh nổi non sông Tổ Quốc
Cũng
cứu cơn dân tộc trầm luân
Kiên
trinh đáng mặt tề quân
Công
dung ngôn hạnh đáng trang nữ hiền
Đặng
như thế nữ quyền khỏi tệ
Thoát
ngoài vòng hạn chế nam nhân
Như
vầy ai dám khinh lờn
Không
còn phải xướng bình quyền đầu môi
Cuộc
dâu bể đổi dời non nước
Sóng
văn minh đảo ngược tinh thần
Tân
thời, tân tiến, tân văn
Bình
quyền bình đẳng lăng xăng nhộn nhàng
Trong
gia đạo dọc ngang lấn lướt
Hà
hiếp chồng trái ngược luân thường
Dạy
con chẳng giữ giá gương
Gia
đình xáo trộn chẳng nhường chẳng kiêng
Cũng
vì bởi bình quyền mà hỏng
Cũng
vì nơi giải phóng mà hư
Hai
mươi lăm triệu có dư
Dung
hình tiều tụy phong tư tiêu mòn
Người
thế ấy nước non buồn bã
Chừ
ai ra luyện đá vá trời
Nước
non cây cỏ ngậm ngùi
Cũng
vì chia rẽ phanh phui tinh thần
Lời
cặn kẽ phân trần hơn thiệt
Khuyên
nữ lưu hãy biết lấy mình
Trời
chiều bóng đã xế chinh
Ai
người nữ sĩ hy sinh độ đời
Biết
bao kẻ chơi vơi bể ái
Cậy
Liên Đoàn Nữ Phái ra công
Lo
toan chủ nghĩa đại đồng
Giàu
sang nghèo khó cũng đồng mới nên
Vậy
mới đáng nêu tên thanh sử
Vậy
mới rằng danh dự quần thoa
Nước non vẫn nước non nhà
Liên Đoàn Nữ Phái mau ra với cùng
Cả tiếng kêu nầy Trung nầy Bắc
Nầy là Nam dìu dắt lẫn nhau
Dưới trên hòa thuận một màu
Hy sinh cương quyết cùng nhau độ đời.
Chào chư hiền nữ, Ta lui.
Thơ tiên
ý thánh đã vang dội vào tâm hồn phái nữ, giục lòng ngoan đạo. Họ cùng nhau sắp
mình vào khuôn khổ giới luật của đoàn thể, phát huy tinh thần chung tu, chung học
của nữ phái nhà đạo. Danh xưng Liên Đoàn Nữ Phái đổi thành Tân Nữ Lưu Đạo Đức
Đoàn.
Cuối năm
Kỷ Mão (1939), Ơn Trên cho mở một khóa học gọi là khóa Chơn Giác. Nề nếp sinh
hoạt tu học vững mạnh nhưng chưa phát huy được ở các địa phương.
Đàn tại
thánh thất Trung Thành ngày 20-11 Kỷ Mão (30-12-1939), Đức Trần Hưng Đạo dạy:
THI
Tiếng khóc đêm đông thấu giật mình
Họa tràn thế giới gẫm mà kinh
Đạo đời hai nẻo chia đôi ngả
Nhân loại hay chăng nỗi bất bình?
BÀI
Tay Tạo Hóa dày công un đúc
Cõi dinh hoàn ra cuộc trò chơi
Nấu nung chi cái loài người
Cho thêm chọc nước khuấy trời lăng xăng
Có thân phải lo ăn lo mặc
Vì thân mà sanh ghét sanh thương
Có thân thân phải đoạn trường
Vì thân cam chịu trăm đường lao lung
Nhưng thân đã đứng trong vũ trụ
Nợ non sông chừ phú cho ai
Oằn oằn nặng trịu đôi vai
Trả xong cái nợ râu mày cho xong
Đời phải lúc Tây Đông quyết liệt
Đời phải cơn chém giết lẫn nhau
Nước non thay dạng đổi màu
Người đau ta há chẳng đau đớn cùng?
Cuộc chiến tranh nổ bùng năm cõi
Sóng bất bình óng dậy mười phương
Chông gai để bước lên đường
Kiếm cung hồ thỉ can trường nấu nung
Quyết tranh đấu cho càng phấn đấu
Đoạt huyền công cho thấu Hóa Công
Tấn tuồng xương núi máu sông
Rồi ra cỏ loáng đồng không, không người
Nào ai thế vén trời vạch đất
Nào trí mưu đổi vật thay người
Mảnh thân mài miệt trong đời
Rồi ra cũng một trận cười mà thôi
Miếng đỉnh chung xúi người nô lệ
Phẩm nhân luân vì thế rã rời
Không phương giáo dục cho người
Quốc
phong, gia tộc tơi bời phong nghi
Vận
nước phải suy vi tan tác
Hồn
dân còn trụy lạc tả tơi
Phải
cơn nước lửa tơi bời
Cam
lồ rưới tắt, Đạo Trời mở tung
Chuông
khử ám gióng rung inh ỏi
Trống
truy hồn kêu gọi mười phương
Đưa
tay dắt khách lên đường
Tuốt
gươm dứt sạch cái màn vô minh
Cho
mình biết thân mình nghiệt khổ
Cho
đời hay đời chỗ hý trường
Không
còn ghét chẳng còn thương
Nhân
sanh đã bước lên đường tự do
Người
sống chung trong lò Tạo Hóa
Đời
hưởng chung trên đóa thiên luân
Tâm
không muôn vật đều không
Chung
nhau hưởng phước đại đồng nơi nơi
Dưới
chế độ hết người nô lệ
Ngoài
dã lâm không kẻ quan cô
Mênh
mông bốn bể năm hồ
Trời là chủ tể, cơ đồ là dân
Trước tất phải bảo thân nhân loại
Sau tìm phương kêu gọi quốc dân
Quốc dân nung đúc tinh thần
Tinh thần tráng kiện, thể thân điều hòa
Nhưng than ôi! Đời đà cay nghiệt
Hỡi than ôi! Đời thiệt dở dang
Mải
mê trong cuộc dinh hoàn
Say
sưa trong giấc mộng tràng mà thôi
Đánh
thức dậy, thức rồi ngơ ngẩn
Kêu
hồn về, hồn vẫn mê man
Từng
phen tiếng thở tiếng than
Tiếng
cười tiếng khóc, tiếng bàn tiếng khuyên
Nền
chánh đạo thất điên bát đảo
Mười
bốn năm kẻ tảo người tần
Xuôi
chiều chi phái phân vân
Ai
toan đồ bá, ai phần định vương?
Vì
vương bá gây trường chinh chiến
Vì
định đồ sanh chuyện cạnh tranh
Gương
treo trước mặt rành rành
Ai
còn rước giặc vào thành làm chi
Đạo
phải lúc khuynh nguy nhiều nỗi
Đời
gặp cơn thay đổi lắm chiều
Cậy
ai sớm dắt tối dìu
Phất
cờ giục trống hầu kêu nhau cùng
Xướng
rát cổ, xướng không ai họa
Kêu
hao hơi, kêu chả người ơi
Toan
lên, lên hỏi thăm Trời
Việt
Nam há lại không người vĩ nhân?
Kìa
cẩm tú giang sơn một khoảnh
Kìa
danh lam thắng cảnh ba kỳ
Sơn
hà anh khí phương phi
Đất
linh há đúc người gì không linh?
Ngũ
Phụng Lĩnh phụng trình đơn quyện
Cửu
Long Giang long biến hồng vân
Nam
phương xưa cũng Thánh Thần
Anh
hào nay há trong trần không ai?
Sông
Nhị Hà nước xoay cuồn cuộn
Núi
Tản Viên mây cuốn tầng tầng
Ngũ
Hành Sơn vẻ Thiên công
Bắc
Trung, à cũng giống dòng Nam ta
Bức
phong cảnh xem qua vài đoạn
Ngẫm
non sông mà ngán nhân tình
Hồn
dân, dân hỡi có linh
Thương
đời giúp đạo quên mình hỡi ai
Dù
cho gái hay trai cũng vậy
Tâm
thương đời tâm ấy vẫn chung
Mày
râu đắp vẽ non sông
Phấn
son tô điểm sắt đồng nấu nung
Toan
lấp bể gọi hồn Tinh Vệ
Tính
dời non học chí Ngu Công
Muốn
cho thế giới đại đồng
Thảy
đều một dạ đắp trồng cho xinh
Mưu
cái cuộc hòa bình thế giới
Thảy
không còn chia mối chia manh
Quy
nguyên Đại Đạo ngày thành
Đại
đồng tôn giáo mở tranh thái bình
Nầy
nầy, nầy hỡi nhân sinh!
Thăng.
Vì tình thế quá chộn rộn, Đạo
Đức Đoàn cố gắng duy trì sinh hoạt trong thầm lặng với tinh thần thuần chơn vô
ngã, thuần túy đạo đức. Năm Tân Tỵ (1941), Đoàn lại đổi tên là Thanh Xuân Tân
Sinh Hoạt Đoàn; mỗi đoàn viên gọi là Nữ Thanh Tân.
Năm 1941 khởi đầu giai đoạn gian truân
của đạo Cao Đài. Các hướng đạo bị chính quyền Nam triều bắt bớ, giam cầm; thánh
sở bị đóng cửa; hầu như mọi sinh hoạt tu học bị ngừng lại, liên lạc giữa các
nơi bị cách ngăn.
Một nhân vật tiêu biểu của Thanh Xuân Tân
Sinh Hoạt Đoàn là Trần Doãn Cơ đột ngột quy thiên. Người chị cả của Đoàn là
Chơn Giác cũng tạm nghỉ để lo chăm sóc bịnh tình cụ Hiệp Lý Lê Trí Hiển và cuối
cùng là tang lễ của cụ. Đoàn viên Nguyễn Thị Lang thọ tử trong pháp nạn tại
Quảng Ngãi, gây hoang mang khiếp sợ. Do chiến tranh, bổn đạo Đà Nẵng, Quảng Nam
di cư lập sở nông Phước Hội (Quế Sơn, Quảng Nam). Hoàn cảnh quá khó khăn làm
cho Thanh Xuân Tân Sinh Hoạt Đoàn hầu như tan rã.
Đàn tại sở nông Phước Hội ngày 13-02 Đinh
Hợi (05-3-1947), Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
Chị em thử mau mau tỉnh ngộ
Tu cho cần tận độ về quê
Hiện nay có cuộc gớm ghê
Trong
cơn bát loạn khó bề an thân
Ai có
phước, Thánh Thần hộ mạng
Ai có
duyên, ngọc bảng đề danh
Ngôi
xưa Thầy Mẹ sẵn dành
Tại
sao đạo dức tu hành lảng lơ?
Cùng đàn nầy Đức Lý Trần Hưng Đạo dạy:
Tổ
Quốc đương hồi nạn ngoại xâm
Ai
không đau xót, lụy không cầm
Đạo đời há chẳng chung lo nghĩ
Trải mấy nghìn năm nổi tiếng tăm.
Chư hướng đạo cùng đạo hữu ôi! Cái số mạng
quốc gia gặp phải hồi rối rắm. Ai là người cùng chung một dòng máu đỏ, một sắc
da vàng không sao nguôi dứt mối căm hờn mà để mặc cho cơ thành bại. Phương chi
với chúng ta đây cũng đã hấp thu nền giáo pháp của Thầy trên hai mươi mấy năm,
không được quét sạch chông gai thì cũng tâm tâm niệm niệm cùng Thầy ban ơn cho
Tổ Quốc chúng ta qua cơn khói lửa.
Đàn tại
thánh thất Trung An ngày 14-7 Đinh Hợi (29-8-1947), Đức Từ Hàng Phổ Độ dạy:
Trần ai cuộc sống mảnh hồng nhan
Nhi nữ sanh ra luống ngỡ ngàng
Quần vận dẫu nên thân cá chậu
Yếm mang dù phải kiếp chim lồng
Chung
phần nam tử phần tai mắt
Đồng
phận nhân loài phận nước non
Thời
mới đã nên nhân thế mới
Chạnh
lòng nhi nữ phải thon von.
Các
em ôi! Cái danh từ Thanh Xuân Tân Sinh Hoạt Đoàn đã bao hàm ý tứ văn minh đó.
Thanh Tân là một tuổi xuân mới mẻ cho các em đó, cũng là nơi các em tranh đua
tài đức đó.
Cũng
tai mắt, mặt mày như nam giới, cũng đầu đội trời, chân đạp đất, cũng giang san
thổ võ như người, các em chẳng phải nhi nữ đê tiện như ai.
Các
em cũng có đủ sở năng tiến thủ, có đủ nghị lực phô bày, sao cho nữ giới cũng
được một giá trị như nam giới, một cốt cách như con người, thì Bần Đạo không gì
sung sướng hơn.
Tân
Sinh Hoạt mới hợp với trào lưu hiện tại, cũng là việc nên làm. Nhưng các em
sinh hoạt bằng cách gì? Há phải có mưu mẹo cho giỏi, trí khôn cho lắm, để rồi
sinh hoạt với thời đại văn minh nầy chăng? Các em phải nhớ rằng sinh hoạt nghĩa
là làm cho đủ mọi công việc, cho kiếp sống được có giá trị, và các em tìm cách
tháo vát về công việc, đoan trang về dung mạo, bặt thiệp về ngôn ngữ, nết na về
đức hạnh, đó mới là sinh hoạt vậy.
Được lời Thánh phủ dụ, phái nữ cùng nhau
gầy dựng lại Đoàn, thúc đẩy mở mang, phát triển sinh hoạt trong lúc vẫn phải
khéo léo lách khỏi nghịch cảnh bên ngoài. Đoàn viên được kết nạp ở các thánh
thất Hưng Đông, Từ Vân, Trung Nguyên.
Trong giai đoạn nầy đứng đầu điều hành
Đoàn là Lễ Sanh Võ Phi Yến. Có bốn Lễ Sanh Phan Thị Hòe, Trần Thục Cơ, Triệu
Thị Huyên chung tâm góp sức để củng cố và phát triển Đoàn ở các thánh thất
trong bốn tỉnh Nam, Ngãi, Bình, Phú.
Qua giai đoạn Chỉnh Cơ (1950-1955) Ơn
Trên thăng bốn nữ Lễ Sanh điều hành lên Giáo Hữu và phong ba mươi Lễ Sanh ở các
thánh thất trong bốn tỉnh Nam, Ngãi, Bình, Phú.
Giai đoạn Chỉnh Cơ sắp hoàn tất, tiến qua
giai đoạn Khai Cơ, xây dựng Đền Thánh (Trung Hưng Bửu Tòa) và thành lập Hội
Thánh Truyền Giáo Cao Đài. Bốn nữ Giáo Hữu lãnh đạo nữ đoàn quyết noi chí
“không gọi người dưng là cha mẹ” của bậc đàn chị Trần Doãn Cơ. Cũng noi gương
ấy, đông đảo chị em khác cùng phát nguyện theo đường tu đồng chơn giải thoát
(không lập gia đình). Thay mặt chi hội Phước Thiện, Giáo Sư Ngọc Tín Thanh đỡ
đầu, lập Nữ Đoàn Giải Thoát, và được Cơ Quan Truyền Giáo dâng cáo trình lên Ơn
Trên.
Đàn tại thánh thất Thái Hòa ngày 15-9 Ất
Mùi (30-10-1955), Đức Diêu Trì Kim Mẫu dạy:
DIÊU
Điện ngồi lâu mỏi đợi chờ
TRÌ
môn đứng ngóng lũ con thơ
KIM
Bàn những tưởng khi cười nói
MẪU
tử tình thâm chẳng bến bờ
Đã
mấy mươi năm Mẹ hết tình
Thương
đàn con dại nỗi linh đinh
Ngày
lo đêm sợ lòng non nớt
Rủi
phải sa cơ phạm luật hình.
(…)
Các
con hôm nay đã thành lập Nữ Đoàn Giải Thoát, Mẹ chi xiết vui mừng. Mừng các con
nêu cao hai chữ giải thoát lên trên quyền lợi cá nhân. Ôi, quý hóa thay hai chữ
giải thoát! Danh dự thay hai chữ giải thoát!
Có
giải thoát mới gọi là người. Người có giải thoát thì người mới khỏi nô lệ cho
miếng ăn tấm mặc, cho danh dự tài sắc ở đời. Có giải thoát thì thân mới thoát
ra kiếp ngựa trâu, thân nô tỳ, mới làm chủ được sáu dục bảy tình. Mà làm chủ
được sáu dục bảy tình thì sai khiến được mắt, tai, mũi, lưỡi, miệng, thân, thì
đâu còn khổ, còn nhục, còn hèn hạ tấm thân. Thân được tự do, thắng cả ngoại
giới, nội tâm, thì thân tâm thanh tịnh, tình ý lặng trong, sức khỏe ngày một
tăng lên, tinh thần ngày thêm sáng suốt, hào quang chiếu diệu mười phương, trí
tuệ cảm thông trời đất.
Quý
hóa thay cái công phu giải thoát! Nó làm cho phàm hóa Thánh, Phật hiện ma tiêu.
Người tự nhiên mà bay bổng lên chín tầng mây, không bị một mảy trần dính bợn.
Ma nào cản, quỷ nào ngăn? Mặc ý bốn phương đi lại.
Ôi,
quý hóa thay! Trọng thay! Con nào là đứa con gương mẫu, đứa con làm được? Hiểu
chưa? Con làm được là đại chí anh hùng.
Thật
thế. Dù cho dưới đời, kẻ có sức có tài đánh Đông dẹp Bắc, thôn tính mười
phương, ngang trời dọc đất, uy linh chói lọi hoàn cầu mà cũng phải làm nô lệ
cho vật chất lợi danh, tài sắc, thân, ý hằng ngày, thì sao gọi tự do? Sao gọi
là anh hùng quán xứ?
Vậy
Mẹ mong và đặt tin tưởng nơi nguyện lực của các con. Các con có làm được thì
ngày mai mới tạo thành cho nữ phái một Cơ Quan Hội Thánh. Có hình thành Hội
Thánh mới đủ tự do, mới mong cứu đời độ chúng mà lập công tu đức cho ngôi vị
nơi cõi đời đời.
Các
con làm được. Chỉ có hòa, tín và thương yêu lẫn nhau. Vậy các con gắng lên.
Mẹ
ban ơn mỗi con. Mẹ thăng.
Nữ Đoàn Giải Thoát được thành lập, ban
hành sự gồm có:
1. Đoàn Trưởng kiêm Trưởng Thanh Chánh
Ban: Giáo Hữu Võ Hương Yến.
2. Phó Đoàn Trưởng kiêm Trưởng Minh Chánh
Ban: Giáo Hữu Triệu Hương Huyên.
3. Thư ký kiêm Trưởng Hương Liên Ban:
Giáo Hữu Phan Hương Hòe.
4. Ủy Viên kiêm Trưởng Ngọc Định Ban:
Giáo Hữu Trần Hương Thục.
Đàn tại thánh thất Kim Quang Minh Đài
ngày 10-12 Ất Mùi (22-01-1956), Đức Mẹ dạy:
Con
ôi! Nữ phái tiến lên
Công
phu, công quả xây nền thánh nhi
Đời
giữa lúc khuynh nguy khốc liệt
Đạo
đương hồi phân biệt giả chơn
Các con mau lẹ phản huờn
Đừng nên do dự gặp cơn não phiền
Cơ lập pháp ban truyền khắp cõi
Mẹ khuyên con bước giỏi kịp kỳ
Kệ kinh, công quả vào thi
Thi tâm đức đủ pháp nghi Đạo nhà
Chị em con phải hòa phải mến
Phải giúp nhau đến bến đến bờ
Đường tu nương níu đợi chờ
Đừng vì ghen ghét lảng lơ phụ phàng
Trong
gia thất lo toan phận sự
Giúp
chồng con vẹn chữ nghĩa tình
Chồng lo gánh nợ quần sinh
Con lo xếp đặt gia đình dạy con
Lo kinh kệ cho tròn chiều sớm
Lo sửa mình can đảm tiến lên
Hằng ngày đạo đức đừng quên
Giờ làm giờ nghỉ con nên xử tròn
Giờ làm để nuôi con giúp Đạo
Lo
thay chồng hoài bão gia nghi
Tiếp
giao giữa bạn tu trì
Ra
người lịch duyệt phòng khi hóa người
Lúc
nghỉ đến thăm chơi nhà bạn
Để
cùng nhau thông cảm nỗi tình
Để
nhau giúp đỡ phẩm bình
Cho
thêm sáng suốt sửa mình đoan trang
Đến
thánh thất, Thiên Bàn chầu lễ
Hội
họp nhau tìm kế dựng xây
Phong trào nữ giới lo quây
Pháp quyền giữ vững góp tay tô bồi
Đừng nhàn rỗi xúm ngồi đùa bỡn
Kiệm những giờ chơi giỡn lập công
Con ôi! Quả phúc lo trồng
Con ôi! Khuya sớm dọn lòng thờ Cha
Ngày mai có sẵn Bửu Tòa
Các con phải được đứng ra chấp hành
Ngày mai Hội Thánh hoàn thành
Ngày nay nữ phái tu hành cho mau.
Tuy
đã có Ban Hành Sự, nhưng mãi hơn cả năm trời mà Nữ Đoàn vẫn còn rời rạc, hàng
ngũ chưa đâu ra đâu trong khi Trung Hưng Bửu Tòa đã xây dựng xong, Hội Thánh
Truyền Giáo Cao Đài đã hình thành, tiến vào mùa xuân Khai Cơ Giáo Pháp (xuân
Đinh Dậu).
Đàn tại Trung Hưng Bửu Tòa ngày 15-01 Đinh Dậu
(14-02-1957), Đức Bảo Thọ Nương Nương dạy:
BẢO nhau cùng bước nhịp theo xuân
THỌ lãnh hồng ân cứu vạn dân
NƯƠNG giữ pháp quyền cầu giải thoát
NƯƠNG cùng Hội Thánh chỉnh tâm thân.
(…)
Vậy Tiểu Nương thừa lịnh đến đây bảo chị
em cùng nhau xây dựng thân tâm và xây dựng cơ sở nữ phái để có nơi sớm chiều
nương núp cơn sóng to gió lớn bất kỳ. Không còn đợi ngày giờ nào nữa và cũng
không nài nạnh ai đâu. Phải tự nhiệm lấy quyền pháp mà đứng lên hò hét khúc
xuân thiên, tiến lên cho kịp kỳ Long Hoa đại hội.
Bảo
Thọ Nương Nương hay Bảo Thọ Thánh Nương là quả vị của nữ tu Trần Doãn Cơ
(1912-1944), thế danh Trần Thị Tín, là cháu gọi Hộ Đạo Thiên Quân (Hiệp Lý Trần
Nguyên Chất) bằng chú ruột, và là chị của Bảo Nguơn Chơn Tiên Trần Nguyên Chí.
Lúc
sanh tiền tiền bối Doãn Cơ ít học nhưng rất thông minh, tính tình khảng khái
như nam nhi, quyết lập chí tu hành đồng chơn, không theo đường thế tục. Người
từng nói: “Tôi không dám nói như bà Triệu Thị Trinh cỡi cơn gió mạnh, đạp luồng
sóng dữ, chém cá tràng kinh ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang
sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp cho người. Nhưng tôi
đã thực hành được đoạn chót ở câu nói của bà, và tôi mong học theo tinh thần ý
chí bà để phụng sự Đạo Trời. Tôi quyết lập thân lập chí, thượng đẳng nữ lưu bất
hố tha nhân phụ mẫu.”
Ngày
29-4 Nhâm Thìn (22-5-1952) Đức Phổ Đà Bồ Tát đưa chơn linh Trần Doãn Cơ về đàn
tại thánh thất Hưng Đông, cho biết người đã đắc quả vị là Bảo Thọ Thánh Nương.
Khi
Đức Thượng Đế thâu các tiền bối hướng đạo Trung Kỳ về Tiên giới đứng vào hàng
Thiên Đồ Trung Bảo để hộ trì các cơ quan Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài thì Đức
Bảo Thọ Thánh Nương hộ trì nữ phái.
Đàn
ngày 15-8 Đinh Dậu (08-9-1957), Đức Bảo Thọ Thánh Nương dạy phái nữ:
Chị em nên biết rằng sống giữa buổi đời
mạt pháp may gặp chơn truyền, ráng mà tu tránh tai tránh họa. Ta xét coi người
ở thế nầy có khác chi gà ở trong giỏ, bị tréo cánh cột chân đem ra giữa chợ,
vào chảo nước sôi chưa biết giờ nào, mà chúng thấy gì đâu! Hễ thấy lúa bỏ vào,
thì đua giành nhau. Thóc đầy diều mà cắn xé hơn thua từng hột. Khổ thay! Chắc
chị em mình không như thế được. Ta phải ngó xa xa tí nữa để lánh cõi điêu tàn.
Một kiếp không tu muôn đời đọa lạc.
Hôm nay Hội Thánh đã giúp đỡ chị em đi đến
ngày thành lập. Ráng chung lo với nhau. Đừng nói chỗ nầy chỗ nọ, người dở người
hay, vị thân vị kỷ, mà phải đi trên mục đích của Pháp Chánh Truyền thành lập mà
thôi.
Lẽ thiệt hư khó biết. Hư hóa thiệt, thiệt
hóa hư là then chốt âm dương biến hóa để lọc lừa thánh đức, ngăn che phàm phu.
Ta nhớ đừng cao ngôn phạm thượng.
Song
hành với Đức Bảo Thọ Nương Nương còn có Đức Chơn Giác Nương Nương cùng hợp điển
lực dìu dẫn, hộ trì nữ phái, Nữ Đoàn.
Đàn
tại Trung Hưng Bửu Tòa ngày 13-01 Mậu Tuất (02-3-1958) Đức Chơn Giác Nương
Nương dạy:
CHƠN tâm tu học nguyện từ đây
GIÁC tỉnh lòng ta tưởng nhớ Thầy
NƯƠNG cửa từ bi trau hạnh đức
NƯƠNG đoàn giải thoát thẳng cung mây.
Bản Nương chào chư Thiên ân, chư hiền nữ.
Giờ nầy Bản Nương hân hạnh được thọ ký
thánh ân phục kỳ sứ mạng, được về gặp cùng chị em, tưởng còn chi vui mừng hơn
nữa.
(…)
Chị em ôi! Từ ngày tôi liễu giải tấm thân
về chầu Từ Mẫu, được sống liền trong khối vô cực bao la. Sớm động tiên, chiều
cảnh thánh, qua Nam Hải lại Đào Nguyên, nương gió cỡi mây say sưa cùng ý thánh
lòng tiên. Trông lại cảnh trần hoàn chật hẹp, biển khổ đào độn, lắm lượn sóng
xô xát nhau, hằn học chụp nhận con người trầm luân vĩnh kiếp.
Người ở đời là ở trong sông mê bể khổ,
chịu mãi đau thương. Bờ giác bên kia, nếu không hồi đầu làm sao thoát ra ao sầu
vũng khổ?
Đời là khổ. Có thân có khổ, từ lúc chào
đời. Thân bởi nhân duyên giả hợp, do thức quy tụ mà có. Thân tàng trữ những ý
tình tham dục, xúi người đi đến cội rễ đau thương.
Hôm nay đã gặp Đạo, được Thầy Trời soi
dẫn, Hội Thánh đưa đường, chúng ta đã giác tỉnh đi trên đường giải thoát thì cứ
đi tới, đừng nghi gì, lo gì, tính gì lộn xộn rồi bị ý thức lôi cuốn, rồi sa ngã
vực sâu của bể khổ, khó ngày trở lại.
Bản Nương nhờ đức tin và lòng hồi hướng,
lúc đầu tuy công quả không bao lăm, công phu chưa được mấy, nhưng buổi đại xá
Thầy ban ơn tận độ Bản Nương được về cựu vị.
Nay Giáo Hội trung hưng chánh pháp, nữ
phái nơi nầy được hồng ân có sứ mạng Chỉnh Cơ tiến sang ngày Giáo Pháp. Thầy mẹ
giao trách nhiệm dìu dẫn chị em cho Bản Nương. Nhưng Bản Nương tự thấy tài đức
còn non, quyền pháp chưa tỏ, chưa đúng phẩm hướng đạo ngày nay. Vì vậy Bản
Nương xin lập công trong giai đoạn Chỉnh Cơ. Ngày Hội Thánh nữ phái thành hình
nhượng cho bực tài đức cao quyền lớn pháp, còn chị Bảo Thọ từ đây làm phần dìu
dắt đoàn nữ giải thoát trên phương diện tu học.
Cùng
đàn ấy, tiếp theo có Đức Bảo Thọ Thánh Nương giáng dạy:
Vì vậy nữ phái y Pháp Chánh Truyền, quyền
hành nhiệm vụ của mình nên biết. Còn việc tương thù tương tiếp ở Pháp Chánh
Truyền từ Đầu Sư phân ra thì quyền hành minh bạch. Có như thế mới ngăn ngừa
được cơ xáo lộn. Từ đây đẳng đẳng nữ phái y tuân:
1. Cũng cố hàng ngũ chức sắc, chức việc và
chọn người tài đức sung bổ thay đổi kẻ thiếu tâm, thiếu nguyện.
2. Thắt chặt hàng ngũ đạo hữu gây lòng tin
và giữ đạo.
3. Phát triển pháp môn giải thoát. Xây
dựng cơ sở giải thoát.
4. Tạo điều kiện để đạo tâm có đủ công
phu, công quả tịnh dưỡng tu học.
Vì Nữ Đoàn Giải Thoát, chị em đã phát
nguyện. Làm được việc ấy là một bước tiến bộ. Sau cần kế hoạch Bản Nương sẽ chỉ
dẫn. Bây giờ hàng ngũ chức sắc cần cảo chọn, thải loại những vị phạm vào quyền
pháp để bảo tồn danh nghĩa của đạo. Nhưng cơ tận độ, chị em khéo léo, cảm dụ
lòng dạ ấy được sớm hồi tâm giác ngộ để phục quyền an vị.
Còn việc có người để giao tiếp đoàn chức
sắc ở các phái chi đến ta hỏi về chánh pháp, nữ phái được quyền lập Hội Thánh
thì pháp môn ấy chưa được lý giải bao nhiêu. Nếu có lệnh Lý Giáo Tông cho thành
lập thì sẽ giải chương TỐN, LY, KHÔN, ĐOÀI, bốn phần âm trong Bát Quái.
Về đạo hữu, từ nay không nên mở khóa, y
theo Tân Luật.
Việc làm nhiêu đó, các chị em đi ra hay ở
Cơ Quan cũng cẩn tắc đốc thực, sau có Diêu Trì Thánh Mẫu dạy thêm.
Theo
lời dạy của Đức Bảo Thọ Thánh Nương, phái nữ chăm lo phát triển pháp môn giải
thoát, xây dựng cơ sở nhà tu giải thoát. Ngay bước đầu đã gây được hưởng ứng
khá đông đảo, noi theo chí hướng của tiền bối Trần Doãn Cơ lúc sanh tiền: Nữ
lưu thượng đẳng không gọi người dưng là cha mẹ. (Thượng đẳng nữ lưu bất hố tha
nhân phụ mẫu.) Nhiều chị em đã có đính hôn cũng xin từ hôn để phế đời, gia nhập
đoàn giải thoát. Lễ xuất gia được tổ chức ở nhiều họ đạo rất trang trọng, cũng
chúc mừng, tặng quà tiễn chân các chị.
Đức
Mẹ Diêu Trì, Đức Bảo Thọ Thánh Nương liên tục giáng đàn dạy dỗ, củng cố nguyện
lực, vạch đường lối xây dựng tổ chức, tiến đến lập dòng tu, nhà tu. Hội Thánh
vâng thánh ý lập dòng tu nữ giải thoát lấy tên là dòng tu Bảo Thọ, nhà tu Phước
Huệ Đàn, và đặt tại Tam Kỳ, thuộc tỉnh đạo Quảng Tín (nay là Quảng Nam).
Đàn
ngày 06-02 Kỷ Hợi (14-3-1959), Đức Mẹ dạy:
Mẹ mừng các con.
THI
VÔ vi thanh tịnh nhẹ lòng con
CỰC nhọc quả công gắng chí bòn
TỪ thuở khai thiên nay một hội
TÔN ty em chị giới quy tròn.
(…)
Các lễ long trọng chỉ có lễ xuất gia là
hơn cả. Xuất gia để tìm lấy một nguồn sống êm đềm, một cảnh đời vinh quang chân
hạnh phúc, rồi đưa nhân sanh đến cùng chung hưởng cái lạc thú vô sinh bình đẳng
ấy, loài người thoát khỏi oan trái khổ đau.
Không phải xuất gia để tránh cái bổn phận
làm người trong xã hội, làm con trong gia đình, làm dân của một nước. Mà cũng
không phải bị tình duyên bạc đãi, thất vọng với nỗi nọ điều kia. Mà xuất gia
với một trách nhiệm tương lai giải phóng nhân quần ra ngoài ảo vọng cạnh tranh
khổ đau trong trường thế sự. Thế thì xuất gia đầy thơ mộng yêu đương, đầy nhiệt
tâm độ thế.
Có xuất gia mới được lẽ Đạo bao hàm, xô
thành kiến chật hẹp, dẹp bản ngã thấp hèn, bỏ tự tư tham dục, ngoài ái ân tình
cảm nhỏ nhen, để lòng mình không một chướng ngại ngăn che, một mối trái oan nào
ràng buộc. Thân được tự do, tâm được sáng suốt, thì việc làm mới minh chính,
lời nói mới chân thật, phán đoán được công bình. Người giải thoát chưa nói là
Thần Thánh đi nữa, lòng cũng chứng điển cao đẳng linh thông. Vì vậy mà phần
thưởng trên Thiên Đình chỉ dành cho người giải thoát hơn cả.
Người giải thoát là đại hùng chiến thắng
ma nghiệp, can đảm hơn cả, mãnh lực vô cùng. Thật thế, chỉ có hàng giải thoát
mới không bị nô lệ cho ma danh quỷ lợi, ái ân yêu tà. Người giải thoát không
hẹp chật tình thương, không nhỏ nhen sự sống, không ích kỷ hạnh phúc riêng mình,
mà đứng ngoài thế gian, lo cho thế gian những phần hy vọng, không con ràng
chồng buộc, không lợi khiến danh sai. Ở trần muôn kẻ mất tự do mà chỉ mình
thong dong tiêu nhàn, không bị một vật gì ngăn trở thì người giải thoát không
hơn sao được?
Thử hỏi ai dưới thế nầy không đắm sắc mê
duyên, say tình luyến lợi. Con con cháu cháu, lắm phải tồi tàn. Con mình sanh
con mình nuôi, dạy khôn chỉ khéo, đổ sức trút thần vào xây đắp nó. Lẽ ra nó
phải hết phận đền bù, thế mà dưới trần mấy ai ngưỡng lên, mà bao nhiêu đều trút
xuống. Bởi thương xuống mà phạm tội bất hiếu, bất nhân. Cha mẹ đâu bằng con. Ông
bà đâu bằng cháu. Ôi, loạn nghịch đạo lý nên gây biết bao nhiêu oan trái trả
vay! Nợ ấy cấu hợp còn nhiều, thì tử sanh luân hồi mãi mãi.
Đời nầy nói nhơn đạo, chưa mấy người biết
trung biết hiếu. Vì thế mà luân thường sụp đổ. Đã sụp đổ, con người vụ lợi quên
nghĩa, nên cần phải xây dựng đời, lập nên thế đạo lành mạnh.
Muốn có nền thế đạo lành mạnh thì ai là
người phải lo đóng góp, đương đầu việc nầy? Ai cũng bận lo cho thân mình, con
cháu mình, vợ chồng mình, thì việc đời tới đâu hay đó. Suy đổ rồi! Nguy cấp đến
nơi rồi! Nên gánh nợ quần sinh thì chỉ có người rảnh thân mới làm được, không
nhà mới lo được. Vì vậy mà nền đạo cứu đời đòi hỏi kẻ giáo sĩ là người xuất
gia.
Người xuất gia có hai hạng. Hạng có gia
đình rồi, vợ con rồi, mà đành đoạn cắt mối thân ái, phế cả lợi danh vì tiền đồ
nhân loại mà lên đường hành đạo. Hạng nầy cũng anh hùng có gan. Nhưng hạng đồng
chơn chưa nhúng mùi đời là xứng đáng. Vì ai đến đây mà không nhiễm. Kẻ bị nhiễm
mà biết cởi mở cũng ít người. Vì vậy trong nền Đạo hai hạng nầy làm quân khu
tiền phong, an bang tế thế.
Đã được danh dự nhất trong đời, dù chưa có
công đức với chánh pháp nhơn sanh, lúc chung liễu cũng chứng được ngũ đẳng linh
thần, huống là mang một sứ mạng, có một trách nhiệm, lòng lại giác ngộ, về ngôi
trên, cửu phẩm cũng được dự phần.
Có một điều Mẹ lo. Nguyện chưa quyết, chí
chưa lập, tình ý còn ngóng đó trông kia. Ngoài thì lành lẽ trơn tru, mà trong
lòng bẩn hôi chất chứa. Nếu không dốc tình đoạn tuyệt, thì lâu mau nó cũng kéo
tới trì lui. Đời con mãi lẩn quẩn không ra khỏi vòng oan khiên nghiệp chướng,
tối tăm phiền não.
Con phải có gan. Tuy đau nhưng chỉ đau một
hồi, chứ để mãi thì liên tiếp chập chồng khốn khổ. Về đoàn, sống tập đoàn, các
con nên bỏ hẳn cái thói nữ nhi thường tình phụ nhơn nan hóa, mà lấy lòng vô tư
ăn ở với nhau. Đừng hẹp chật ganh tương rồi đi đến ngày tan vỡ.
Mẹ cũng cho các con biết rằng số đã xuất
gia nầy một ngày kia không phải được trọn vẹn, nhưng lòng từ bi độ được bước
nào mừng bước nấy. Các con cố gắng và cẩn thận giữ mình, nên luôn luôn cầu
nguyện.
Mẹ cầu xin Lý Bạch lập cho con một nhà tu,
vừa luyện trí quy thần, vừa chế ngự cảm tình, ngăn phần tư dục. Nên tại tu xá
cần được đòi hỏi một số giáo sĩ để xây dựng Hội Thánh nữ phái. Nên mở một kỳ
học tập đủ các khoa học, chính trị học, để mở đường trí thức cho các con, ổn
định phần tâm linh, chế kiềm bớt tư dục. Rồi đây con lên đường hành đạo lập
công, lượm lặt ít nhiều nhơn duyên trong quần chúng.
(…)
PHÊ y tâm nguyện trẻ mong cầu
CHUẨN tắc nơi đây chớ nhắm đâu
NỮ hạnh quyết tâm lo lánh tục
ĐOÀN viên dốc chí sự đương đầu
GIẢI mê sanh chúng toan tu học
THOÁT khỏi trần hồng phải tựa nhau
THÀNH bại đứng ngoài toan giải quyết
LẬP nền Phước Huệ nhớ cho sâu.
Nhà
tu Phước Huệ Đàn được Đức Mẹ phê chuẩn, đặt tại Tam Kỳ dưới sự bảo hộ của ba vị
Giáo Sư Cửu Trùng Đài, một vị đại diện Hiệp Thiên Đài. Hội Thánh dâng cáo trình
lên Ơn Trên.
Đàn
ngày 08-02 Kỷ Hợi (16-3-1959), Đức Giáo Tông Lý Thái Bạch dạy:
LÝ tình hai mối biện phân rành
THÁI độ người tu phải nhiệt thành
BẠCH bạch phân minh quyền pháp rõ
GIÁNG thăng đừng để lệch công bình.
Bần Đạo chào chư Thiên phong, chư đạo tâm
nam nữ, chư đệ, chư muội an tọa.
Hôm nay Hội Thánh Truyền Giáo được thành
lập tu xá cho Nữ Đoàn Giải Thoát vào tu học, là một ân phước cho nhân sanh, mà
cũng hồng ân to tát của chư hiền trong Kỳ Ba tận độ.
Bần Đạo đến để chứng minh sự hiện diện và
lòng nhiệt thành của đoàn viên có chí xuất gia tìm về lẽ thật, hầu ngày mai đem
sở đắc trên đường công phu thọ chứng mà đền đáp lại bao nhiêu sự lo lắng của
toàn đạo. Mà ngày mai có thành công cũng do nhiều trợ duyên mới đủ phương tiện
vượt qua muôn trùng khó khăn trắc trở.
Chư hiền đạo tâm đã giác ngộ trên đường
đạo pháp bằng sự kết duyên giữa nhau, với sự xây đắp lẫn nhau. Xưa thời của
pháp Phật sáng suốt bằng sự cứu độ chúng sinh, nên Phật đã gây duyên nhiều
kiếp. Khi Phật ra đời, chúng sinh được vui mừng đón tiếp lấy nguồn chơn lý một
cách dễ dàng. Giữa Phật pháp cùng chúng sanh chia vui sớt khổ, lân mẫn trên
việc thi ân bố đức cho đời. Nên Phật trải qua mấy mươi thế kỷ mà còn được bền
vững. Ánh sáng oai đức của Người trở nên mãnh liệt trong lòng nhân loại. Phật
pháp đã sẵn nền công đức vô ngã vị tha, chư tăng noi đấy mà vượt lên vững chắc,
hằng lo thế pháp hóa duyên, kết mối thiêng liêng giữa người và Phật pháp.
Chúng sanh thì mê muội, phải làm cho chúng
sanh giác ngộ. Không phải một sớm một chiều mà cả một công trình hóa độ. Bữa
bữa lui tới dạy khuyên, hoặc bằng lời lẽ, bằng dung nghi, bằng quyền pháp, hoặc
bằng công sức để cảm dụ độ người.
Làm như vậy cũng chưa dễ thành tựu cho
người, mà người phải cúng dường cho Phật, bố thí cho tăng, tin cầu chánh pháp.
Nên chúng sanh nhờ nhiều lần phát tâm từ thiện, phát lòng kính Phật trọng tăng.
Tuy một tháng một ngày bằng dâng cơm cúng vải, xây chùa đúc Phật, đúc chuông mà
duyên ấy khởi, lòng ấy sanh, giống bồ đề nứt nở, nên sự sáng suốt càng được
tăng huy.
Cũng như hôm nay nền tân pháp, tuy trong
hàng chức sắc không đi khất thực hóa trai, không đến chia vui sớt khổ, nhưng tổ
chức đã lan rộng, quyền pháp được rải gieo. Hội Thánh lúc nào cũng nghĩ đến
nhơn sanh, nỗi nọ điều kia, đen tối về tinh thần, khổ nhục về xác thịt, mà ra
lệnh đồng đạo giúp lẫn nhau, nhơn sanh đóng góp công quả vào sự chi thu, vào
việc tế tự, vào việc ăn mặc đi lại của hàng Thiên ân chức sắc, chức việc.
Thiên ân chức sắc, chức việc được gây
duyên cùng toàn đạo, kết duyên cùng Hội Thánh và nhơn sanh, nên cái duyên được
hòa lẫn tương quan xa cũng có, gần cũng có. Vì thế mà thiện duyên đã xây đắp
một nền phước đức lâu dài. Người nầy lo cho kẻ kia, kẻ kia lo cho người nọ. Ai
cũng có tâm lo, ai cũng có nghĩ đến con đường cứu cánh lẫn nhau, thì việc tổ
chức ngày nhập tu xá nầy chư đoàn viên vào học. Học để mà tu, tu để tìm lẽ
thật. Đem cái lẽ thật mà thay vào cảnh giả tạm ảo hoặc thế gian, vào trong lẽ
thật, hưởng lấy đời sống đời đời, tình thương bất diệt.
Lẽ thật không phải ai tìm cũng ra, ai muốn
cũng được, mà phải có lòng thanh tịnh giác ngộ. Vứt bỏ quyền lợi ái ân kia,
phải ở một người có chí nguyện, người đứng ngoài tham muốn, đứng ngoài vòng nhà
cửa chồng con. Người ấy lòng không bận nghĩ cơm ngon áo lành, con no chồng
sướng. Không nhúng tay trong việc thị phi, thì người không bận nợ đời, không
chứa của riêng, không lo tư thất thì người rảnh rang. Lòng không bận rộn thì
tình ý mới lắng trong. Chừng đó lương tri phát hiện, lương năng đủ đầy, trực
giác cảm thấu lẽ mầu nhiệm, mà đạt thành lẽ thật là chân lý vậy.
Người ấy là ai? Người giải thoát vậy. Thế
thì giúp đỡ cho người giải thoát cũng là một công đức chính đáng, dù người ấy
không trở lại gieo chơn lý cho đời cũng cứu được phần hồn họ trở về tịnh cảnh.
Đã nói sự bố thí công đức lớn. Tiền bạc
đem ra bố thí cho muôn người được sống đầy đủ cũng không bằng cho một người có
chí hành đạo. Cho một người có chí hành đạo không bằng cho một người thật tâm
giải thoát tìm lẽ thật cho đời.
Vậy ai là kẻ cản trở bước tu là người phạm
vào sơ nhất điều trong giới cấm. Mà kẻ không tự chủ cũng chịu dưới quyền tà
quái đời đời.
Hôm nay Bần Đạo đến đây là một quyền pháp
để chứng minh tất cả quyền hành nữ phái bởi trong tay Bần Đạo ban ra.
Bần Đạo đã lập thành Hội Thánh nữ phái thì
lẽ tất nhiên hàng Thiên ân trong Hội Thánh đều nhứt nhứt tuân hành, nếu ai trái
phạm lời Bần Đạo thì cửa Thiên môn bởi tay Bần Đạo đóng chặt.
Về Nữ Đoàn Giải Thoát, phần đã làm lễ xuất
gia, hôm nay nghe Bần Đạo hỏi: Chư hiền nữ đã lượng được sức mình chưa? Quyết
tâm giải thoát chưa? Có chịu được thiên ma bách chiết không? Còn lướng vướng
mối manh nào chưa dứt được?
Đàn
tái cầu có Đức Ngô giáng:
Thanh
thanh không bận nợ trần gian
Nhẹ
gót đến nơi Phước Huệ Đàn
Chỉ
điểm môn đồ tu chánh pháp
NGÔ
TIÊN chủ tọa điểm huyền quan.
Chào
chư hiền đồ, chư đạo tâm nam nữ.
Nơi
đây được hồng ân dưới quyền pháp Lý Giáo Tông hướng đạo. Người lại cho Phước
Huệ Đàn làm nơi học đạo.
Bần
Đạo cũng vui mừng mà thể lòng từ bi chỉ qua một vài yếu quyết. Chư nữ đồ còn
non nớt đức tin, lòng phàm chưa gọt sạch, công phu công quả chẳng được bao
nhiêu. Vì vậy Bần Đạo có thương cũng không tránh được nhiều phen khảo thí. Ma
có khảo, đạo mới thành. Ngặt một điều là chư nữ đồ chưa thanh tịnh, nên khó
ngừa ma tặc nơi lòng, làm cho vọng loạn tâm thần. Vì thế mà không đón ngự được
ngoại giới tung hoành.
Muốn
bước lên con đường thiên đạo phải dọn mình hằng bữa. Công dày hạnh đáng thì sự
khảo thí cũng là phần giúp cho bước tu thêm dày dặn vững chắc. Sợ công non
nghiệp lớn khi gặp khảo thí khó kiên trì, mà tình ý xui nên phải cởi đạo y,
buông chuỗi hạt.
Bần
Đạo muốn sao chư nữ đồ lập thêm công hạnh, lòng thường duy nhất, một điểm chơn
tâm, đóng sáu cửa, ngăn ba nghiệp tham, sân, si để khử ám hồi minh, tiến lên
con đường thiên đạo.
Nơi
đây đã được lập thành tu xá. Tu xá nầy về đạo pháp thì chưa khế ứng địa hình,
nhưng tạm có nơi di dưỡng tâm thần. Cũng nên phân biệt nhà tu, nhà ở, tránh ồn
ào lộn xộn mới được truyền thụ pháp môn. Mà chư nữ đồ muốn thọ pháp phải thiết
tha cầu khẩn. Không phải dễ gì làm một môn đệ nhà Tiên dưới ân oai Giáo Chủ.
Nhứt nhứt tôn trọng quyền pháp. Ví như chưa cho ngồi không được ngồi, chưa cho
ra không được ra. Mặc lòng quá bữa xót lòng, nhiều đêm mỏi mắt, thành Tiên
không dễ, chứng Thánh rất gay, thử thách đủ điều, hành hạ vô song. Nên không
hờn không giận, nét mặt hân hoan. Con người tinh tấn mới mong cướp được cơ huyền,
rõ đường siêu đọa,
Vậy
chư hiền đồ bây giờ muốn thọ giáo cùng Bần Đạo về đường huyền pháp thần công,
tu cho đạt chứng viên minh, cướp lấy Thiên cơ Tạo Hóa, không còn sanh tử luân
hồi, gọi là trường sanh liễu tử.
Bây
giờ mở cho một con đường đi tới để thọ truyền bí pháp là từ nay nơi tu xá nầy
có một đàn cơ dạy về pháp môn giải thoát. Chư nữ đồ học lấy pháp môn nầy để mở
lần căn trí, ngày công phu tịnh định để an dưỡng tinh thần, tâm linh sáng suốt,
quang năng được mở mà thông thấu huyền cơ. Chớ nói đến pháp môn vô vi là một
điều khó. Tu nhứt kiếp ngộ nhứt thời. Nghĩa là một kiếp tu không thấy gì, ngồi
mãi chờ cho được chứng lục thông, khai cửu khiếu. Nhưng có khi mười năm, hai
mươi năm hoặc năm bảy mươi năm. Một giờ chứng ngộ mà phi thăng chớ không phải bữa
nào công phu, bữa nào cũng chứng ngộ.
Tại
sao vậy? Nếu pháp tu mà ấn chứng dễ dàng thì tà thuyết ngoại đạo. Chư hiền nữ
cũng thấy sáu năm dưới gốc bồ đề Đức Phật Thích Ca thành đạo trong một giờ.
Cũng như mấy mươi năm tu hành A Nan đã chứng túc mạng thông một khắc, thì dễ
sao được. Vậy cứ thế mà phát nguyện.
Dòng tu Bảo Thọ được chính thức thành lập
ngày 08-02 Kỷ Hợi (16-3-1959).
Về
mặt vô hình: Phần quyền pháp lãnh đạo có Đức Giáo Tông Vô
Vi. Phần huấn đạo chỉ điểm pháp môn tu học có Đức Ngô Tôn Sư. Phần dìu dắt, hộ
đạo có Đức Bảo Thọ Thánh Nương.
Về
mặt hữu hình: Dưới quyền pháp lãnh đạo của Hội Thánh. Dòng
tu có một gia trưởng và một gia phó chịu trách nhiệm điều hành.
Nhà
tu Phước Huệ Đàn tại Tam Kỳ là nhà tu trung ương gồm các tu sĩ Quảng Nam, Đà Nẵng.
Còn dòng tu tại các tỉnh cũng được thành lập riêng. Tổng cộng số tu sĩ toàn Hội
Thánh là chín mươi hai người, trong đó hàng chức sắc giáo phẩm cũng đăng đàn
hồng thệ cùng với Hội Thánh.
PHẠM VĂN LIÊM