ÍCH LỢI CỦA VIỆC CÚNG KÍNH
Tân Luật của đạo Cao Đài gồm ba phần: Đạo Pháp (tám chương, ba mươi hai điều),
Thế Luật (hai mươi bốn điều), và Tịnh Thất (chín điều).
Trong phần Đạo Pháp:
- Chương II (Về người giữ Đạo), Điều Thứ
11 quy định: Người làm Đầu trong Họ hay
là chức sắc thay mặt cho mình phải đến làm lễ cúng khai đàn, trấn thần, an vị
cho người mới vào Đạo.
- Chương III (Về việc lập Họ), Điều Thứ
20 quy định: Chức sắc giữ thánh thất mỗi
ngày phải làm tiểu lễ bốn lần theo tứ thời: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu. (…) Đổ một hồi
chuông trước khi hành lễ trong mấy thời này, bổn đạo muốn đến tụng kinh tùy ý.
Những điều quy định trong Tân Luật cho
thấy người nhập môn vào Đạo cần thiết phải thượng tượng tại tư gia và cúng kính
hằng ngày vì có như vậy người tín đồ mới nhận được sự bảo hộ của Thiêng Liêng
theo nguyên tắc “Con Phật, Phật rước; con ma, ma dẫn”. Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
Nên
nhớ rằng, mỗi một người tu hành trong lúc này đều có một bậc Chơn Linh hoặc
Thiêng Liêng âm phò mặc trợ.([1]) Mỗi ngày nên tưởng niệm để nhắc nhở tâm
thức, liên lạc thông công với phần Thiêng Liêng hộ trì. Nếu để trống không, Bần
Sĩ e khó tránh khỏi những tà quái, ngạ quỷ ([2]) giựt giành. Hãy nhớ câu truyền khẩu từ xưa rằng: Buổi hạ nguơn mạt
kiếp, hễ con Phật, Phật rước; con ma, ma dẫn.([3])
Chức sắc
cùng bổn đạo phải thường xuyên cúng kính hằng ngày tại thánh thất, thánh tịnh
để tiếp nhận ân điển thiêng liêng và giúp cho người và vật chung quanh thánh sở
cũng được tiếp nhận ân lành, cỏ cây mùa màng được tốt tươi thạnh mậu, người
người được an cư lạc nghiệp, có thể tránh khỏi thiên tai chiến họa và làm ăn
phát đạt thành công.
Tiền
khai Hộ Pháp Phạm Công Tắc (1890-1959) lúc còn sinh tiền đã cho biết trong một
bài thuyết pháp của Ngài tại Ðền Thánh vào đêm 29-01 Mậu Tý (Thứ Ba 09-3-1948):
Qua đứng trên ngai, qua thấy trên Nê Hoàn
Cung của mấy em, nếu định tâm, thì có một hào quang xung lên đều đều. Mọi người
đều có cả hào quang đó. Có một vị Phật ôm hết đem vào Bát Quái Đài, hiệp với
đạo hào quang trong quả Càn Khôn, đoạn đem trở ra bao trùm chỗ ngồi của mấy em,
mà mấy em không thấy được. Cho nên, khi mấy em hầu lễ, nếu biết hưởng cái ơn
Thiêng Liêng ban cho đó, thì tinh thần được an tịnh. Hạnh phúc biết bao! ([4])
Ngoài
ra, việc cúng kính tứ thời còn có nhiều ích lợi khác.
Đức
Chí Tôn dạy:
Cúng tứ thời có ích cho các con lắm, chớ không phải
ích chi cho Thầy. Nếu cúng được thường, thì lòng dạ nở nang, tứ chi luân
chuyển, có nhiều khi tật bịnh tiêu trừ.([5])
Con người vốn có
tính vị kỷ (ích kỷ), thường chỉ nghĩ đến bản thân và gia đình mình. Nếu cúng
kính thường, hướng lòng mình về các Đấng trọn tốt trọn lành, tai lắng nghe những
lời kinh tiếng kệ, lòng dạ sẽ được nở nang tức là tâm sẽ được mở rộng hướng về
người khác, gia tăng lòng yêu thương mọi người (vậy là vị tha). Đó là ích lợi về
mặt tinh thần.
Còn về mặt thể chất,
mỗi khi cúng kính thì cúi lạy nên tứ chi luân chuyển (vận động) giúp cho máu
huyết được lưu thông đều khắp trong cơ thể, tốt cho sức khỏe.
Đức Quan Âm Bồ Tát
dạy:
- Một là cho Chơn Thần được gần gũi các Đấng
thiêng liêng cho đặng xán lạn.
- Hai là cầu khẩn với Đức Đại Từ Bi tha
thứ tội tình cho các em và cả chúng sanh.
- Bốn là tâm có cảm thì lòng bác ái mới mở
rộng, mà nhứt là khiếu lương tri lương năng của các em cũng nhờ đó mà lần hồi
thành ra mẫn huệ.([8]) Các em
nhớ à.([9])
Việc cúng kính còn giúp
cho chúng ta giải trừ được ba
nghiệp (thân, khẩu, ý) như lời Đức Chí Tôn dạy:
Sự cúng lạy con nên sốt sắng
Trừ nghiệp thân cho đặng tinh anh
Kệ kinh miệng đọc lòng thành
Để trừ nghiệp khẩu, khỏi sanh não phiền.
Để diệt trừ vọng niệm ý tà
Tứ thời trẻ ráng gần Cha
-
Thân có ba nghiệp ác là: sát sanh, tà dâm, trộm cắp.
-
Khẩu có bốn nghiệp ác là: vọng ngữ (nói dối), ác khẩu (nói lời ác độc khiến cho
người khác đau khổ, buồn tủi...), lưỡng thiệt (hai lưỡi: nói lời đâm thọc, ly
gián hai bên), ỷ ngữ (nói lời thêu dệt).
- Ý
có ba nghiệp ác là tham, sân, si.
Gộp
chung thân, khẩu, ý là mười nghiệp ác.
Thầy
còn nhắc chúng ta mỗi khi quỳ cúng hãy nhìn ngay Thiên Nhãn, bởi lẽ Thiên Nhãn
là Thần của vũ trụ, của Thượng Đế. Nhìn Thiên Nhãn lúc cúng kính sẽ tiếp nhận
được Thần của Thượng Đế, giúp cho Thần của chúng ta được minh linh sáng suốt.
Đức
Di Lạc Thiên Tôn dạy về tác dụng giải nghiệp của việc cúng kính như sau:
Sự lễ bái, cúng lạy, quỳ mọp ngoài ý nghĩa
trịnh trọng thi lễ với Phật Trời, lại còn có ý nghĩa câu thúc thân mình trong
sự khó khăn để trừ bớt nghiệp thân.
Tịnh khẩu hoặc niệm Phật tụng kinh để trừ
bớt nghiệp khẩu.
Nhắm mắt tham thiền hoặc ngó ngay vào
tượng Phật hoặc ngọn nhang hay ngọn đèn lưu ly là để trừ lần nghiệp
nhãn.
Tham thiền định ý khép chặt không tư tưởng
suy nghĩ vẩn vơ phóng túng để trừ lần nghiệp ý.
Thiền định không chấp nhận mọi tiếng động
vào tai để trừ lần nghiệp nhĩ.
Tóm lại, tất cả những điều ấy là những
phương pháp trợ cho người tu hành được yên ổn trả dứt nghiệp cũ, không gây
nghiệp mới và tạo thêm âm chất để làm vốn liếng, sản nghiệp([12]) vô hình cho kiếp lai sanh ([13]) hoặc cho ở bên kia thế giới.([14])
Đức
Quan Âm Bồ Tát dặn dò chúng ta cần phải lưu ý thực hành cúng kính trong tinh
thần chánh tín. Vì có nhiều tín hữu đến chùa thất cúng kính với mục đích cầu
xin may mắn, lợi lộc riêng tư cho bản thân mình và gia đình mình, nên Đức Quan
Âm Bồ Tát khuyên dạy:
Còn cúng lạy niệm danh chư Phật
Ở chùa chiền tịnh thất thường khi
Tứ thời bái sám làm chi
Niệm danh các Đấng làm gì nữa đây?
Có người niệm xin Thầy cùng Phật
Cho thánh đường, tịnh thất bình yên
Đó đây trên dưới chùa chiền
Đừng cho phá hoại, giữ yên mãi hoài.
Cho đàn con ứng thí thủ khoa
Và cho lớn bé trẻ già
Làm ăn thạnh mậu, cửa nhà sum
sê.
Tôi
sẽ nguyện đem về cho Phật
Hoa quả trà chồng chất đầy
bàn
Hương thơm, trầm tốt, trà
nhang
Rượu lê, trà cúc bĩ bàng
thiếu chi.
Xin
chư Phật từ bi gia hộ
Cho chồng tôi thi đỗ quan cao
Để cầm vận mạng phong trào
Đi đâu dân chúng chạy sau rần
rần.
Đó là tu theo phần mê tín
Phật Tiên đâu ưa nịnh ưa dua
Mà đem lễ vật đến chùa
Do
đó, Đức Quan Âm Bồ Tát dạy cho nhơn sanh ý nghĩa đúng đắn nhất của việc cúng
kính:
Tu phải cố trau giồi tâm tính
Phải trước tiên quyết định tu chi
Tụng kinh là để làm gì
Ăn chay niệm Phật ích chi cho mình?
Không phải Phật thiếu kinh thường dụng
Bảo chúng sanh đem tụng Phật nghe
Tụng kinh như thể nói vè
Nghĩa sâu không biết, lối lề không thông.
Chẳng khác nào nghe ong vò vẽ
Tiếng nhỏ to thỏ thẻ vu vu
Tụng nhiều mới gọi là tu
Đọc nhiều cho Phật, công phu mới nhiều.
Đó là tu theo chiều mê tín
Biết bao giờ tâm thánh mở mang
Sách kinh là đuốc rọi đàng
Vì lẽ đó cùng nhau ráng hiểu
Đọc kinh coi Phật biểu làm chi
Ráng làm ăn ở cho y
Tánh tình cùng những hành vi Phật Trời.
Đọc kinh rồi hiểu lời Phật dạy
Thì chớ làm trái lại sách kinh
Nếu khi mình đã thông minh
Do đó, tác dụng quan trọng
nhất của việc cúng kính chính là tu thân sửa mình theo lời kinh dạy để trở
thành người chí thiện chí mỹ, hầu có thể giải thoát kiếp phàm phu mà trở thành
hiền nhân, thánh nhân hay Thánh Thần Tiên Phật. Do đó, khi đọc kinh thì phải
chú tâm vào câu kinh, hiểu rõ ý nghĩa câu kinh để rồi thực hành đúng theo lời
kinh dạy.
Ví dụ:
* Bài Ngọc Hoàng Thiên Tôn
Bửu Cáo có các câu như:
- Đại La Thiên Đế.
Đại La là tấm lưới lớn, ám chỉ bầu trời rộng, che khắp,
ngụ ý bảo rằng “Lưới Trời lồng lộng, tuy thưa nhưng mảy lông khó lọt”, ám chỉ
luật Trời hay luật Thiên Điều thưởng phạt rất công minh. Mọi việc làm của con
người nơi thế gian đều không thể qua được luật Thiên Điều. Vậy, khi đọc câu
kinh này, chúng ta tự nhắc nhở mình không được làm điều tội lỗi, xấu ác.
- Càn kiện cao minh, Vạn
loại thiện ác tất kiến.
Càn kiện: Ám chỉ Đạo Trời cương kiện, mạnh mẽ. Cao minh:
Vô cùng sáng suốt. Vạn loại thiện ác: Tất cả mọi điều lành dữ, tốt xấu
của muôn loài. Tất kiến: Nhìn thấy thấu suốt, rõ ràng; nhìn thấy hết tất
cả. Câu kinh này có ý nói Trời vô cùng sáng suốt, thấy biết hết tất cả mọi điều
lành dữ, thiện ác của muôn loài vạn vật.
Hai chữ tất kiến gợi
nhớ câu nói dân gian: Trời cao có mắt. Đó cũng là nghĩa lý của biểu
tượng Thiên Nhãn. Thế nên, khi đọc đến câu kinh này, chúng ta tự nhắc mình rằng
mọi việc ta làm, dù trong bóng tối, dù nơi vắng vẻ không người, Trời đều biết
hết.
Trong Cổ Học Tinh Hoa (quyển I, truyện 40: Ông Quan Thanh Bạch), hai tác giả Ôn Như
Nguyễn Văn Ngọc và Tĩnh Trai Trần Lê Nhân kể lại câu chuyện của một vị quan
thanh liêm thuở xưa tên là Dương Chấn.
Dương
Chấn được bổ làm thái thú quận Đông Lai. Trên đường phó nhậm đi qua đất Xương
Ấp. Quan huyện ở đấy là Vương Mật, trước kia được Dương Chấn đề bạt. Thế nên
đợi đêm khuya, Vương Mật đem vàng đến tạ ơn.
Dương
Chấn bảo: “Trước đây tôi biết ông là người khá, mới tiến cử ông. Thế mà ông vẫn
chưa biết bụng tôi, còn đem vàng tới cho tôi ư?”
Vương
Mật cố nài, thưa rằng: “Xin Ngài cứ nhận cho. Bây giờ đêm khuya không ai biết.”
Dương
Chấn nói: “Trời biết, đất biết, ông biết, tôi biết, sao lại bảo là không ai
biết!”
Nghe vậy
Vương Mật xấu hổ, lui ra.
- Huyền phạm quảng đại.
Nhứt toán họa phước lập phân.
Huyền phạm: Cái khuôn mầu nhiệm, ám chỉ luật tắc của Tạo Hóa.
Quảng đại: Rộng lớn. Nhứt toán: Một sự toan tính trong lòng. Họa
phước: Điều tai họa và phước
lành. Lập phân: Phân định rõ
ràng.
Câu kinh này có ý nói: Hễ con
người vừa nảy sinh một ý nghĩ, mưu toan, dù chưa thi hành mà luật Trời đã phân
định tội hay phước cho nghiệp ý đó rồi. Kinh sách có câu: Nhơn tâm sanh nhứt
niệm, thiên địa tất giai tri. (Lòng người vừa khởi sanh một ý niệm, trời
đất liền biết ngay.)
Đọc câu kinh này, chúng ta tự
nhủ mình phải cẩn thận ngay từ trong tư tưởng, suy nghĩ của mình, đừng toan
tính những chuyện xấu ác, dù chưa thực hiện thành hành động nhưng luật Thiên
Điều đã ghi nhận và phân định họa phước cho mình rồi.
- Nhược thiệt nhược hư, bất
ngôn nhi mặc tuyên đại hóa.
Nhược thiệt nhược hư: Như thực như hư, như có như không, không thể lường biết
được. Bất ngôn: Không nói năng chi, im lặng. Nhi: Nhưng mà. Mặc tuyên: Lẳng lặng phô
bày ra. Đại hóa: Sự sinh hóa to lớn, ám chỉ toàn thể sự vận hành
trong vũ trụ không có lúc nào ngừng nghỉ.
Câu kinh này có ý nói tuy Trời im lặng, như hư như thật,
nhưng lại phô bày ra cả đại cuộc vận hành sinh sôi nảy nở của vũ trụ.
Đức Khổng Tử nói (Luận
Ngữ, 17:19): Thiên hà ngôn tai! Tứ
thời hành yên, bách vật sanh yên. Thiên hà ngôn tai! (Trời nào có nói gì
đâu thế mà bốn mùa thay đổi, muôn vật sinh thành. Trời nào có nói gì đâu!)
- Thị không thị
sắc, vô vi nhi dịch sử quần linh.
Thị không thị sắc: Là không là sắc, có hình tướng và không có
hình tướng. Vô vi: Làm mà không để ai
thấy hoặc biết việc mình làm. Nhi dịch sử
quần linh: Nhưng mà sai khiến vạn linh.
Câu kinh này có ý nói Trời rất thần diệu, không ai nhìn
thấy hoặc biết được việc Ngài làm, nhưng tất cả vạn linh đều do Ngài sai sử.
Đọc đến hai câu kinh Nhược thiệt nhược hư, bất ngôn
nhi mặc tuyên đại hóa / Thị không thị
sắc, vô vi nhi dịch sử quần linh, chúng ta tự nhắc mình hãy noi theo gương
của Trời: Làm việc, mang lại phúc lợi cho vạn vật chúng sanh mà nào có kể công
chi. Mỗi khi chúng ta làm được công quả gì, giúp ích được cho ai, chúng ta cũng
đừng khoe khoang, kể công mình. Đó chính là làm công quả trong tinh thần vô tư,
vô công, vô cầu, vô danh, như Đức Chúa dạy (Matthêu
6:3-4): Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay
trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo.
- Thời thừa lục
long du hành bất tức.
Thời: Tùy thời cơ, hoàn cảnh. Thừa: Cỡi. Lục long: Sáu
rồng. Du hành: Đi lại. Bất tức: Không ngừng nghỉ. Theo nghĩa
đen, Thời thừa lục long du hành bất tức có
nghĩa là Trời cỡi sáu rồng đi đi lại lại không ngừng nghỉ. Theo nghĩa bóng, sáu rồng ám chỉ sáu hào dương của quẻ
Kiền (tượng trưng cho Đạo Trời). Thế nên, câu kinh này có ý nói Đạo Trời vốn
cương kiện, mạnh mẽ và vận hành khắp cả vũ trụ không một phút giây ngừng nghỉ.
Đại Tượng Truyện quẻ Kiền có câu: Thiên
hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức. Nghĩa là người quân tử luôn kiên
cường mạnh mẽ không ngừng nghỉ như Đạo cương kiện của Trời.([21])
Trong giới tu hành có câu: Học Phật nhất niên,
Phật tại nhãn tiền; học Phật lưỡng niên, Phật tại đại điện; học Phật tam niên,
Phật tại Tây thiên. (Học Phật một năm, Phật ở trước mắt; học Phật hai năm,
Phật trong chánh điện; học Phật ba năm, Phật tại Tây phương.) Nghĩa là lúc mới
nhập môn vào tu thì hăng hái siêng năng, lúc nào cũng thấy có Đức Chí Tôn ngay
trước mặt. Dần dần chểnh mảng biếng lười, khi vào chánh điện cúng kiếng thì mới
nhớ đến Thầy, giãi đãi riết rồi không còn nhớ đến Thầy đến Đạo nữa, Thầy ở xa
tít trên chín tầng mây.([22])
Thế nên, khi đọc câu kinh “Thời
thừa lục long du hành bất tức”, chúng
ta tự nhắc nhở mình hãy siêng năng tu học hành đạo, tinh tấn không ngừng nghỉ,
dù có gặp gian lao khảo đảo thử thách cũng không thối chí nản lòng.
* Bài Ngũ Nguyện, câu
nguyện thứ ba: Tam nguyện xá tội đệ tử.
Chúng ta cầu xin Thầy tha thứ
lỗi lầm cho mình thì mình cũng phải biết tha thứ lỗi lầm cho người khác. Vậy,
mỗi khi đọc đến câu kinh này, chúng ta hãy nhớ mở rộng lòng khoan dung tha thứ
cho nhau.
Đức Quan
Âm Bồ Tát dạy:
Chư hiền đệ muội! Ai cũng thường cầu nguyện
Thiêng Liêng, Trời Phật phò hộ cho mình, cho gia đình được an bình hạnh phúc,
nhưng có bao giờ cầu nguyện cho mình đủ dạ từ bi để sẻ
chia, để thông cảm, xử sự với tha nhân như Đức Chí Tôn đối với chư hiền đệ muội
không? ([23])
Qua một số ví dụ trên đây,
chúng ta có thể thấy rõ ích lợi quan trọng nhất của việc cúng kính là giúp cho
chúng ta tu sửa thân tâm của mình theo lời kinh dạy để trở nên người chí thiện
chí mỹ. Đức Đại Tiên Ngọc Lịch Nguyệt dạy:
Đến chùa thất rửa lần tội lỗi
Sau
cùng, chúng ta hãy ghi nhớ lời Đức Thiên La Đạo Nhơn ([25]) khuyên bảo:
Các thời cúng mõ chuông kinh kệ
Phải thành tâm hiến lễ nghiêm trang
Tâm phóng ngoại cả ngàn cây số
Kềm tâm tánh hướng về một chỗ
Tai lóng nghe cho rõ tiếng kinh
Thân quỳ ngay, chẳng chút nghiêng chinh
DIỆU NGUYÊN
([21]) Phần
giải thích ý nghĩa các câu kinh nêu trên được trích từ: Huệ Khải, Tìm Hiểu Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo.
Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2010. (Quyển 16-2 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống
Kinh Sách Đại Đạo.)
Quý đạo hữu nên xem thêm
thánh giáo Đức Chí Tôn in trong Đạo Uyển
Đông 2018 (Hà Nội: Nxb Hồng Đức, tr. 5-17), vì chính Thầy giảng nghĩa bài
kinh Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo.
Nếu quý bạn thích có tập sách nhỏ này, kính mời quý bạn gởi thư về daidaovanuyen@gmail.com. Cảm ơn quý bạn quan tâm. (Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo)