Hành
trình về cõi hư linh
Làm người, không ai có thể vượt ra ngoài định luật sinh
tử. Con người vẫn tự hỏi: Chết rồi sẽ
đi về đâu? Ngày nay câu trả lời đã biết được rõ ràng qua lời tường thuật
chi tiết của chính những người đã bước qua thế giới bên kia, bản thân đã trải
nghiệm lúc xuất hồn đi về cõi vô hình.
Thật
vậy, trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nhờ vào luật đại ân xá của Đức Chí Tôn Từ
Phụ, thông qua phương tiện cơ bút, nhiều chơn linh quá vãng đã được phép về đàn
kể lại cho người trần thế cuộc hành trình của hồn linh sau khi lìa khỏi xác
phàm ngõ hầu khuyên nhủ thế nhân hãy gắng chí lo tu.
Hành trình về cõi hư vô của các chơn linh không giống nhau
vì tùy thuộc vào quá trình sống của mỗi người lúc còn trên dương thế. Sau đây là vài trường hợp cụ thể do
các chơn linh kể lại sau ngày thoát xác: Có hồn phải chịu ai hoài nắng sương
nơi tuyền đài, có hồn được chuyển kiếp trở lại làm người, có hồn phải đầu thai
làm kiếp thú hoặc quái nhân để đền trả tội xưa, có hồn được Thiêng Liêng rước
về non thần tịnh luyện trước khi thọ phong phẩm vị, có hồn trở về cõi thượng
thiên trong khi thể xác vẫn còn nằm tại thế gian, v.v…
1. LÝ VẠN DŨ (1877-1949)
Vào
giờ Ngọ ngày 28-5 Tân Mão (02-7-1951), tại Thanh Tịnh Đàn (Mỹ Tho), Đức Đông
Nhạc Đại Đế dẫn hồn của tiền bối Lý Vạn Dũ ([1]) nhập cơ sau ba năm
(ba mươi sáu tháng) tạ thế. Lý tiền bối tường thuật như sau:
Ba
sáu tháng xa nhà cách trẻ
Hai
tám này vui vẻ Ngọ nay
Bấy
lâu dật dựa tuyền đài
Tiền bối cho biết vì sao hồn linh
phải chịu khổ não nơi tuyền đài: Lúc còn tại thế, vì mải lo tạo dựng sự nghiệp
vật chất hầu bảo dưỡng thê nhi nên vô tình gây tạo tội lỗi.
Phải
đảo điên
Tại
vì tiền
Mất
tâm thiền
Mất
tâm thiền tại thiên gia thất
Lo
bảo toàn vất vả lao tâm
Khổ
lòng đau nhức chích châm
Mấy
mươi năm chịu lạc lầm không tu.
Lòng
không tu
Bị lờ
lu
Mất
tánh nhu
Mất tánh nhu, cần cù lo liệu
Sợ thiếu dùng lịu địu trẻ thơ
Cho nên tội lỗi bất ngờ
Nhờ
các con biết lo tu hành và cầu nguyện nên tiền bối Lý Vạn Dũ được hưởng ân đại xá, thoát
cảnh khổ sầu nơi địa ngục và được trở về cõi trần hàn huyên cùng con cái:
Con tu cha đặng ngao du
Nhờ con chí khí tu hành
Ra công phổ cứu cầu danh cha về.
(...) nhờ lòng tu đức của các con nên cha mới
đặng linh hồn thong thả hầu nương cửa thiền ôn dưỡng tâm linh chờ ngày lãnh
bảng Tiên ban. Nhờ con cùng rể giúp cha, ấy gọi đền ơn dưỡng dục đó vậy. Nay
cha mới biết là con tu cứu cửu huyền thất tổ đặng tiêu diêu. Ấy cũng nhờ Kỳ Ba
đại xá.
(…)
Cùng CHÁNH,([5]) con tạm
làm bài vị của cha để nơi tiền giác Thanh Tịnh này cho cha mộ triêu ([6]) hầu
nghe kinh mau siêu thoát, vì nơi gia bất tịnh, khó nổi cho linh hồn hoạt bát kệ
kinh. Con khá hiểu mà giúp cha. Ấy là con trả hiếu cho phụ thân, là rể thảo đó
vậy.
Chơn linh tiền bối Lý Vạn Dũ về sau chẳng
những lìa khỏi u đồ mà còn thoát cảnh luân hồi sanh tử nơi thế gian và đắc vị Phước Đức Chơn Thánh. Ấy nhờ con cháu
biết tu và đứng vào hàng Thiên ân sứ mạng trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
2. LÊ VĂN MỄ
Tiền căn là một vị sơn thần nhưng vì không
chu toàn trách nhiệm nên ngài bị đầu thai trở lại làm người trong ba kiếp. Ở kiếp
thứ ba, Lê tiền bối hạnh ngộ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và thọ phẩm Giáo Hữu (đặc
trách ngoại giao). Tuy nhiên do phạm lỗi, tiền bối phải chịu đầu thai làm kiếp
thú.
Sau ngày tiền bối thoát xác, gia đình và đạo
hữu thường cầu xin Ơn Trên cho biết tin về người quá cố. Mãi đến mười lăm năm
sau, tiền bối mới được Đức Lý Giáo Tông cho về trần gian kể lại câu chuyện luân
hồi quả báo trên ngọn linh cơ tại Vĩnh Nguyên Tự (xã Long An, quận Cần Giuộc, tỉnh
Long An) vào ngày 02-12 Tân Sửu (07-01-1962):
LÊ
VĂN MỄ
Ngu đệ xin nghiêng mình chào chư Thiên mạng.
Chào liệt vị nam nữ đàn trung. Mừng nhục tử, nhục tôn. Ngu đệ xin mời chư Thiên
mạng cùng liệt vị đồng an tọa để ngu đệ có đôi lời phân giải.
Rất hữu phước thay khi buổi sanh tiền, ngu đệ
đã được chen mình vào cửa Đạo. Tuy bước tu hành vẫn còn xiển bạc, nhưng nhờ
thời kỳ hạ nguơn ân xá, nên ngu đệ mới được phần ân huệ của Chí Tôn ban bố.
Với tấm lòng vẫn khăng khăng vì Đạo, gặp phải
thời kỳ Đại Đạo rẽ chia, cơ đại đồng khai diễn, ngu đệ làm Giáo Hữu ngoại giao,
dầu quyền phong nhưng đã trọn tâm vì Đạo, nên được phần chứng chiếu của Thiêng
Liêng. Ôi! Bởi tiền khiên nhân quả, nên hậu kiếp phải đền bồi. Khóc ...
Hôm nay mà ngu đệ còn trở lại chốn đền vàng
bạn ngọc nầy thì làm sao khỏi tủi mừng rơi lệ. Vậy chư Thiên mạng cùng thân
bằng nghe đôi lời trong khi quá vãng.
BÀI
Mười lăm năm cách xa trần thế,
Nghĩ phận mình tội lệ đa mang,
Hổ vì khi ở thế gian,
Đường tu xiển bạc lỡ làng công phu.
Bởi tiền kiếp vụng tu gây tạo,
Nên hậu lai trả báo cho rồi,
Người
đời xem thấy than ôi,
Nhưng
khi hiểu lại thì rồi nghiệp oan.
Đệ
phúc sanh vào hàng đạo đức,
Tiền
căn xưa lãnh chức Sơn Thần,
Cũng
vì trễ biếng phân vân,
Thác
sanh cõi tạm hồng trần gian nan.
Trải
hai kiếp chịu đàng nhơn quả,
Vì sân si tai họa tạo nên,
Đành rằng bản án đề tên,
Chuyển về dương thế chịu đền tội xưa.
Nay tính lại đã vừa ba kiếp,
Ngoài trăm năm gặp dịp xá ân,
Sanh vào bên cội đức nhân,
Đường tu sẵn có đỡ đần hồn linh.
Nay đệ đem tiền trình thuật lại,
Cho tỷ huynh phải trái nghe rành,
Luật Trời chẳng đặng cải canh,
Luân hồi quả báo không dành cho ai.
Sống lo tạo gia tài sản nghiệp,
Vùi tấm thân trong kiếp nắng mưa,
Cháy da dưới bóng trời trưa,
Cảnh
phú quý cơ bần lộn lạo,
Hễ
mình gieo giống nợ nần,
Thì
mình phải chịu đường trần trả vay.
(…)
Nay
đệ được thoát vòng lao lý,
Nhờ
Thiên Tòa ngọc chỉ thứ tha,
Thứ tư lên chốn trần la,
Ai cũng có căn nguyên bổn giác,
Hễ giống người thì khác thú chim,
Bởi không thức tỉnh kiếm tìm,
Kiếp người phải chịu đắm chìm biển sâu.
Người chẳng biết quày đầu hướng thiện,
Coi luân hồi là chuyện vu vơ,
Trái oan gây tạo một giờ,
Từ người đến thú ai ngờ được chăng?
(...)
Đệ nhắc đến càng nhiều tủi hận,
Chuyện rồi một kiếp phù sinh,
Tội mình mình gánh, khổ mình ai hay.
Nếu trước chẳng học bài đạo đức,
Dễ chi tỉa đậu ra mè,
Làm sao mong thoát ê hề ngục môn.
Đó, đệ luận sanh tồn nhân quả,
Chư tỷ huynh biết ngả luân hồi,
Nhìn
trong thân tộc thương ôi,
Xin
cho đệ tỏ vài lời gọi kêu.
3. PHAN VĂN THANH (1890-1950)
Tiền
bối hành đạo tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài (đường Nguyễn Khoái, quận 4). Vì trót
phạm lỗi lầm nên sau khi thoát xác tiền bối phải
chịu đầu thai làm quái nhân trong sáu năm để đền tội xưa.
May
được bá tánh xót thương bố thí nên trong sáu năm làm quái nhân, tiền bối đã giúp song thân thoát cảnh
cơ hàn và xây chùa làm nơi lánh đục tầm trong. Nhờ công quả trợ giúp mẹ cha
trong việc xây dựng sự nghiệp đạo đức này, tiền bối trả xong nợ tiền khiên, mãn kiếp được trở
về cung Thái Ất tịnh luyện trong chín năm, đắc vị Hiển Thế
Đạo Nhơn.
Tiền bối giáng
cơ tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài ngày 10-5 Ất Tỵ (09-6-1965) kể lại ngọn ngành như
sau:
Xin
tường thuật đoạn đường tu niệm,
Mười
lăm năm luân chuyển bao lần,
Đến
năm Đinh Dậu tân xuân,
Thiên
ân đại xá non thần luyện đơn.
Đã
trả xong nghiệp trần oan trái,
Lịnh Tam Tòa cho lại đàn cơ,
Phướn thần đưa đón chực chờ,
Cùng
chư huynh đệ một giờ tỏ phân.
Hỡi
đệ huynh phước tội soi gương,
Từ
khi sanh cõi trần dương,
Phúc
hồng gặp Đạo thoát đường trần ai.
Mấy
mươi năm trả vay vay trả,
Một
cuộc đời vất vả lăn thân,
Hy
sinh vì Đạo vô ngần,
Chẳng
quên chút phận ân cần sớm trưa.
Vì
cảnh ngộ đẩy đưa tình thế,
Vì
lòng phàm còn để lấn chen,
Lỡ lầm thói cũ đã quen,
Vương
mang lấy tội, ăn năn muộn màng.
Khi
thoát khỏi trần gian tục lụy,
Công
quả kia đắc chỉ Thiên Cung,
Tội
làm âu phải đền xong,
Sáu
năm trở lại trần hồng hóa sanh.
Thoát
thai bào biến thành quái tướng,
Để
cho đời lầm tưởng dị nhân,
Song
thân trong cảnh cơ bần,
Lòng
mẹ cha chán rồi thế tục,
Quyết
lập chùa tránh đục tầm trong,
Sáu
năm quái tướng trần hồng,
Gầy
nên sự nghiệp cho dòng mẹ cha.
Mãn
kiếp được thoát ra khỏi xác,
Trở
về nơi cực lạc Linh Tiêu,
Thiên
Tôn Thái Ất dắt dìu,
Tam
Kỳ ân xá tránh điều trầm luân.
Chín
ngày chốn non thần luyện đạo,
Là chín năm tu tạo nơi trần,
May
thay đầy đủ chơn thân,
Mới
hay kết tụ nguơn thần anh linh.
Nay
giáng thế tường trình mọi nỗi,
Hỡi
đệ huynh sớm tối lo lường,
Nghĩ
đến cuộc trần gian thế sự,
Nhớ
những điều lành dữ mà kinh,
Hỡi
ôi thế thái nhơn tình,
Suy
ra mình gẫm phận mình mà đau.
Bởi
vì nghiệp tự trau tự chuốc,
Bởi
quên đường về được quê xưa,
Đến
nay chợt tỉnh cũng vừa,
Trách
chi lòng tục ngăn ngừa lỗi ta.
Gương
Tệ Huynh bày ra trước đó,
Để đệ
huynh xem rõ mà làm,
Nghiệp
trần thôi chớ vương mang,
Tội
trần thôi chớ lấp đàng tồn sinh.
4. HOÀNG ĐÌNH LẬP
Anh Lập
nguyên là thành viên tập thể Thanh Thiếu Niên Phổ Thông Giáo Lý, sau khi từ
trần (1968) đã được chuyển kiếp trở lại làm người. Trước khi đi đầu thai, anh
được Ơn Trên ban đặc ân cho về trần gian bày tỏ cùng gia đình và các đạo hữu
trong một đàn cơ tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, ngày 08-8 Mậu Thân (29-9-1968):
LINH QUANG THỔ ĐỊA
Bản
Thần chào chư Thiên mạng, chư chức việc nội ngoại và đạo hữu đàn tiền .
Vâng
lịnh Đô Thống Quản Địa Thần, Bản Thần hôm nay đến tiếp rước Nam Phương Thổ Địa
Thần Kỳ dẫn vong hồn Hoàng Đình Lập về thăm viếng và từ giã thân bằng quyến
thuộc trước khi đi đầu thai chuyển kiếp. (…)
Nam
Phương Thổ Địa vừa qua đến Ngọ môn đang chờ kia. Thôi, Địa xin chào chung chư
liệt vị đằng vân tuần du. Xin kiếu.
TIẾP ĐIỂN
HOÀNG ĐÌNH LẬP
(…)
Lập cùng với nhiều vong hồn khác được đầu thai chuyển kiếp, nhưng Lập được đặc
ân hơn các vong hồn khác là nhờ có tiền thân phụ Đô Thống Quản Địa Thần ([16]) tấu
trình xin cho Lập được phép ghé lại đây hội kiến và nói một ít lời cuối cùng
trước khi chuyển kiếp.
Tiểu
sinh xin phép quý vị cho tiểu sinh ít thì giờ để hàn huyên cùng gia quyến. Vì
thì giờ chẳng có bao nhiêu trong lúc đó còn bao nhiêu vong linh khác ở ngoài
cửa đợi chờ.
(…)
Lập hằng mong ước, kiếp này đã lỡ rồi, mười lăm năm sau sẽ là một giáo sĩ lành
mạnh.
Sau
đây Lập để lời cùng các anh chị em thanh thiếu niên Phổ Thông Giáo Lý.
(…)
Các bạn nên hiểu như vầy: Bất cứ một cái nhân nào đương nhiên sẽ kết quả đó.
Trong cõi thiêng liêng hư vô bất muội, người nào có những tư tưởng nào trong
phạm vi nào và sống trong đời sống nội tâm nào, khi hồn lìa khỏi xác sẽ về hợp
và sống trong bầu vị bản chất của nó. Nhờ vậy mà người có thiện tâm muốn tu để
giải thoát nghiệp duyên hồng trần chắc chắn sẽ được như ý nguyện.
Nói
một cách khác, tuy trong cõi hư linh có muôn triệu triệu thế giới, có không
biết bao nhiêu những chòm những nhóm mà nơi sách Thần Linh Học hay Thông Thiên
Học gọi là khóm hồn. Mỗi khóm đều có mỗi trình độ tiến hóa cao thấp khác nhau,
loại nào tự nó sẽ tìm và quy tụ về loại ấy. Vì vậy các đạo kinh luôn luôn dạy
khuyên người đời hãy cố gắng lo gây tạo những nhân lành, đừng vọng động những
kết quả mà sẽ kết quả không sai chạy một mảy hào.
(…) Tiểu sinh xin chào tạm biệt quý liệt
vị, vì Nam Phương Thổ Địa Thần Kỳ hối thúc, các vong linh sửa soạn lên đường.
5. TRƯƠNG THÀNH THIỆN (1945-1972)
Sinh
ra trong một gia đình có truyền thống tu hành theo tân pháp Cao Đài, anh Thiện ([17]) tạ thế năm hai
mươi tám tuổi. Mặc dù lúc sống chưa lập được công trạng với Đạo nhưng nhờ ân
phước của nội tổ cùng phụ mẫu đã dày dạn công tu và đắc quả vị nên anh không bị
luân hồi chuyển kiếp mà được rước về non thần tu học. Trong thời gian tám mươi
mốt ngày (cửu cửu), chơn linh anh
Thiện còn được đưa về Huờn Cung Đàn (Tam Giáo Điện Minh Tân, quận 4) vào giờ
Ngọ ngày 30-5 Nhâm Tý (10-7-1972) để tường thuật sự
tình lúc lâm chung cùng những việc xảy ra sau đó.
MINH ĐỨC KIM TIÊN (THIÊN HUYỀN
MINH)
(…) Anh
đôi lời truyền lại, giờ linh chuyển ngọn linh cơ thay Nguyệt Đức Kim Tiên đang
ngự bồ đoàn tịnh dưỡng, đưa chơn linh hồi trần trong cửu cửu nơi cõi vô hình tu
học.
Kiếp
sống tạm của con người cần phải lập công bồi đức, trả nghiệp oan khiên để lúc
hồn rời khỏi xác được phản hồi non bồng tự tại.
Vậy
các em sắp được hưởng thời thượng nguơn thánh đức, hãy lo lập công bồi đức hầu
hưởng ngôi vị. Đó là Kỳ Ba ân xá. Nếu không thế thì đâu được đoạt vị dễ dàng.
Nay
chuyển ngọn cơ đôi lời lưu lại, chư Thiên mạng cùng các em hiện còn xác thân
hãy lo lập đức kỳ công, đến ngày chung cuộc mới đặng non bồng cựu vị.
Vậy
Thiên mạng cùng các em tịnh tâm tiếp hộ chơn linh. Anh điển hồi Tiên cảnh.
TIẾP ĐIỂN
(…) THIỆN. Tôi chào mừng Thiên mạng, anh chị đàn trung.
Con mừng ba cùng chị em an tọa. Con xin phép đôi lời tường thuật một giấc ngủ
ngàn thu của đời người hai tám (28), cũng là một chuyển kiếp hồi trần để làm
tròn phận sự đối với ngọn rau tấc đất. Riêng ơn sanh thành dưỡng dục con chưa
trọn phần đền đáp. Tử thần đưa con vào cõi vô hình, sự phán xét vô hình, con
được hưởng luật ân xá. Giờ đây con thuật lại cho ba tường tự sự. Đây không phải
con làm cho ba cùng anh chị cô bác phải động lòng cảm xúc.
Trước
khi anh Thiện lìa trần, trên đường thi hành công vụ của người trai thời chinh
chiến, anh đã được Đức Nguyệt Đức Kim Tiên ([18]) báo mộng cho biết
mạng căn đã hết và khi hồn anh vừa lìa khỏi xác thì liền nhìn thấy Đức Nguyệt
Đức Kim Tiên cùng một thơ đồng cầm phướn lịnh chờ sẵn để rước anh về cõi không.
Anh Thiện kể:
Đầu
cúi lạy cha già ba lạy,
Để cư
tang con mãi ghi lòng,
Con
đà trở lại huờn không,
Tỏ
bày đôi đoạn chơn đồng truyền qua.
Kon
Tum đoàn tụ dây chuyền,
Phần
con tiếp liệu chở chuyên vận hành.
Vừa
đến nơi hoàn thành hồi phục,
Vì
con đường chận khuất khó ra,
Dừng
chân ở lại đó mà,
Đêm
khuya mơ giấc mộng mà như đây.
Bác
Huỳnh Đức lời này truyền lại,
Vì
mạng căn nên phải cam đành,
Giã
từ phưởng phất đêm thanh,
Rồi
sau trở lại ngọn ngành phân qua.
Khi
hồi tỉnh rõ ra giấc mộng,
Thời
bên ngoài tợ sóng dập vào,
Tùy
theo còi lịnh biết sao,
Mọi
người đều phải nhập vào hầm nương.
Từ
nửa đêm thường thường liên tiếp,
Tiếng
thần công khủng khiếp lòng quân,
Bao
nhiêu tiếng dội không ngừng,
Tinh
thần rối loạn tưng bừng trước sau.
Đến
sáu giờ đổ vào thác lũ,
Thấy
hết rồi chỗ trú ẩn nương,
Giờ
đây đến lúc đoạn trường,
Rơi
vào một quả biết lường nơi ai!
Bị
đứt đoạn lìa tay phía hữu,
Phần
nhục thân khó cứu lại nguyên,
Ngũ
tạng bị lủng đâm xuyên,
Hồn
rời khỏi xác sẵn liền bác Năm.
Đã
chực sẵn tay cầm phướn lịnh,
Cạnh
bên có một thơ đồng,
Phất
qua diêu lại cõi không rước về.
Nhìn
bốn phía tư bề lặng lẽ,
Vừa
bước vào cầm thẻ xưng danh,
Tay
nương tịnh thủy dương nhành,
Rải
vào linh điển phục sanh thể hình.
Lúc
này, anh Thiện được gặp lại bà nội (đắc vị Hồng Cúc Tiên Nương) và mẹ (đắc vị
Thanh Lan Tiên Nữ).
Kìa
ửng lộ chơn hình nội tổ,
Cùng
mẫu thân mạng số phân qua,
Phủi
rồi một kiếp trần mà,
Trở
về không cảnh vào ra non bồng.
Anh Thiện
được mẹ dẫn hồn trở về nhà riêng để báo tin cho cha. Do đó, đúng vào ngày anh
mất, trong giấc ngủ trưa, tiền bối Kiến
Minh nằm mơ thấy một phụ nữ đưa một cậu con trai đến nhà. Tiền bối nói: “Tôi nhớ dường như tôi còn thiếu nợ
bà một số tiền. Để tôi gởi trả bà.”
Người
phụ nữ khoát tay: “Không, không! Đã không còn nợ nần gì nữa.”
Này
hỡi ba giờ thanh gặp gỡ,
Xuất
hồn chơn vận trở về gia,
Mẫu
thân cùng trẻ đó mà,
Giấc
mơ không rõ ấy là báo tin.
Anh Thiện
được đặc ân hy hữu trở về hàn huyên cùng gia đình, nhờ hưởng công quả của cha.
Số là trong lúc tang gia bối rối, lại nhận được thánh sắc đi hành đạo tại đồng
bằng sông Cửu Long, tiền bối Kiến
Minh vẫn tuân hành thánh lệnh, cam lòng để việc hậu sự cho con trai qua một bên
mà dốc tâm lo tròn việc đạo:
Tưởng
đâu thế từ nay quạnh quẽ,
Nào
hay đâu đặng vẽ ngọn cơ,
Đó
nhờ trong lúc ban sơ,
Phụ
tình ly biệt tơ mơ giấc nồng.
Thọ
lịnh sắc cõi lòng tan nát,
Nhưng
vững vàng phú thác ân Thiên,
Nhờ
đây ân huệ hưởng liền,
Cúi
đầu lạy tạ trần miền ân cha.
Là một thanh niên Việt gốc Hoa, sinh thời anh Thiện có
người yêu tên Huệ. Chị rất chung tình, thường ra mộ thăm anh, cúng trái cây. Tại
Huờn Cung Đàn (Tam Giáo Điện Minh Tân, quận Tư), vào giờ Ngọ ngày 29-3 Giáp Dần
(21-4-1974), anh Thiện giáng cơ khuyên chị Huệ hãy vui sống, tìm hạnh phúc mới.
Hai câu thơ anh nhắn nhủ “người ngọc”
thật đẹp, dùng điển cố Phụng cầu hoàng ([22]) rất ý nhị:
Phím đã tróc, hoàng
cầu khó khảy,
Thay phím vào
hầu khảy bản sau…
Bài thơ lãng mạn chơn linh anh Thiện gởi chị Huệ như
sau:
Đây một đoạn
gởi qua người ngọc,
Cảm tình xưa
hình vóc còn đây,
Biết rằng đờn
sẽ đứt dây,
Nên chưa khảy
đặng bản này du dương.
Kẻ vô ảnh ai
tường cho đặng,
Người hữu hình
lòng chẳng vơi lòng,
Hồn linh phiêu
tựa cõi không,
Nhìn xem hình
thể cõi lòng tả tơi.
HUỆ, em tường
những lời tiên liệu,
Đã hiện ra nặng
trĩu lòng ai,
Phất phơ vóc
liễu hằng ngày,
Chiều mơ bóng
nhạn viếng rày mộ hoang.
Nhìn khói tỏa
hương tàn khói nhạt,
Ngày qua ngày
thắm thoát thoi đưa,
Một trái cây,
nửa miếng dưa,
Chết lòng người
sống sớm trưa âu sầu.
Phím đã tróc,
hoàng cầu khó khảy,
Vô hình vô ảnh
lời trao,
Giờ đây nhắc
lại vết đau ai mà.
Xác thân đáy mộ
nằm yên,
Linh hồn trở
lại non Tiên luyện thần.
Ấy mộng hồn là
chỗ cõi không,
Phân qua đôi
đoạn mộng lòng vỡ tan.
6. LÝ THỊ MỸ (1908-1971)
Đạo
tỷ thánh danh là Thanh Lan, hành đạo tại Giáo Hội Cao Đài Thống Nhứt. Sau khi
thoát xác, đạo tỷ trở về non tiên luyện thần, đủ tám mươi mốt ngày (cửu cửu) thì đắc vị Thanh Lan Tiên Nữ chiếu
theo thánh sắc của Đức Vô Cực Từ Tôn do Linh Sơn Thánh Mẫu tuyên đọc tại Huờn Cung Đàn,
vào giờ Ngọ ngày 29-01 Nhâm Tý (14-3-1972):
Thọ
lịnh Mẫu Hoàng đọc chiếu phê,
THANH
LAN TIÊN NỮ chánh danh đề,
Luyện
thần bát nhứt (81) vào ngôi vị,
Sắc
tứ truyền ban ngọc bút đề.
Giờ
nhắc lại trước ngày rời xác,
Kiếp
vô thường dời dạt âm cung,
Ngũ
nhựt di chuyển khắp cùng,
Đến
qua điểm chót tâm trung Cảnh Đài.
Nhìn
trước án ai hoài chiếu ánh,
Chiếu
hào quang lóng lánh lạ thường,
Rước
hồn linh di chuyển Thiên môn,
Nhập
vào Thái Ất cung môn,
Theo
lịnh sắc vân phi thượng đảnh,
Nhập
điển thiêng thọ lãnh chơn thân,
Dưỡng
nuôi chơn khí tịnh thần,
Điển
quang chói sáng nơi trần rọi soi.
Trong
lần giáng đàn trước đó tại Huờn Cung Đàn, vào giờ Ngọ
ngày 30-11 Tân Hợi (15-01-1972), Đức Thanh Lan
Tiên Nữ xác nhận rằng kết quả tốt đẹp ấy một phần cũng nhờ ở công đức tu hành
của thân nhân cùng sự thành tâm nguyện cầu của con cháu:
“Như
tôi giờ này được phục hồi là nhờ Tiên Nương ([32]) phụng tấu, cùng
chư tử tế ([33]) nguyện cầu và
hiền huynh ([34]) lập công tại
thế, đã cứu vãn nên chơn hồn được hồi phục non thần tịnh luyện chờ ngày phục
vị.”
7. HUỲNH CHƠN (1904-1973)
Cũng
có trường hợp xác thân còn sống nơi trần nhưng linh hồn đã vân phi cõi thượng. Đây
là một ân sủng hết sức hy hữu dành riêng cho bậc Thiên ân sứ mạng trong Tam Kỳ Phổ
Độ.
Tiền
bối Bảo Pháp Chơn Quân Huỳnh Chơn (Cơ
Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam) lâm trọng bệnh. Trong quá
trình điều trị bác sĩ đã dùng vài loại thuốc không phù hợp với người trường trai.
Sợ
nguơn thần vướng vòng ô trược, tiền bối cầu nguyện Thiêng Liêng để được hồi quy.
Động lòng từ bi thương xót đệ tử, Đức Tôn Sư (Đông Phương Lão Tổ) bắt hồn một con
dã nhân cho nhập xác tiền bối, chịu thay tiền bối trả nghiệp thân. Kiếp sau nhờ
công ấy dã nhân “sẽ được lộc cao hưởng nhờ”.
Hồn tiền
bối tuy được “chín trùng thượng thăng”,
nhưng vẫn còn mối dây liên hệ với phần nhục thể nên mỗi khi thân xác tại thế
gian chịu phần trọng trược thì hồn tiền bối tu trong thạch thất cũng vì thần giao
cách cảm (telepathy) mà ảnh hưởng.
Giống y chuyện Dự Nhượng đả long bào trong truyện Đông Chu Liệt Quốc.([35])
Trong
lần giáng cơ đầu tiên sau ngày quy thiên, tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, vào giờ
Tuất ngày 15-6 Quý Sửu (14-7-1973), tiền bối kể lại
như sau:
. . .
Thương thay con thảo vợ hiền,
Đau
chưn hả miệng mới yên tấc lòng.
Sợ
nguơn thần vướng vòng ô trược,
Đêm
đêm cầu cho được hồi quy,
Nỗi
lòng trời đất chứng tri,
Tôn
Sư mở lượng từ bi hải hà.
Bắt
dã nhơn cho hòa thể phách,
Dụng
thần thông trọng trách phó giao,
Thay
vào trả nghiệp khổ đau,
Mãn
căn sẽ được lộc cao hưởng nhờ.
Đêm
hai bảy (27) đúng giờ duyên khởi,
Tiết đông
thiên Tân Hợi lạnh lùng,
Chơn
hồn phiêu phưởng thung dung,
Nương
theo tay áo chín trùng thượng thăng.
Vào
thạch thất ngồi an tu luyện,
Chờ
mãn căn xuất hiện huyền công,
Tuy
hồn lìa cõi trần hồng,
Nhưng
còn ảnh hưởng trong vòng nhục thân.
Cứ
mỗi lúc chịu phần trọng trược,
Là
mỗi lần thạch thất cảm giao,
Nhớ
xưa Nhượng đả long bào,
Chỉ
trong chiếc áo đớn đau nhiều bề.
Nhờ
huynh đệ cận kề đưa tiễn,
Hàng
Thiên ân lực điển trùng trùng,
Trợ
duyên trước lúc lâm chung,
Độ an
thể phách phá vùng hắc quang.
*
Qua
các câu chuyện trên đây, có thể rút ra ba điều sau:
-
Luật Thiên điều thưởng phạt vô cùng nghiêm nhặt. Mọi việc làm tốt xấu của con
người nơi thế gian sẽ quyết định bước hành trình của linh hồn nơi cõi hư vô. Do
đó, Đức Thanh Lan Tiên Nữ khuyên người cõi thế:
Tránh
tội ác gian tà tâm tục,
Gần
thiện từ cội phúc nguồn tu,
Nhứt
nhựt hành ác tội dư,
Chung
thân hành thiện có dư đâu nào.
Luật
để tránh, chớ vào lưới luật,
Nếu
chẳng tuân phẩm bực không còn,
Sống
trần thể xác dường non,
Án
che màn ảnh mỏi mòn điểm linh.
Rời
khỏi xác cực hình nhiều nỗi,
Lúc
tội tình sám hối muộn màng,
Xác
thân còn ở thế gian,
-
Việc tu học và hành đạo của thân nhân còn ở thế gian cũng như điển lực cầu
nguyện của các đạo hữu có một ảnh hưởng rất lớn hộ trợ chơn linh người quá vãng
thăng tiến nơi cõi hư linh.
-
Đừng vì tình yêu thương theo lẽ thường tình, muốn kéo dài sự sống của phần nhục
thể mà phá hủy công trình trì trai giới sát của người tu, khiến cho chơn linh
người quá vãng phải chịu nặng nề ô trược.
DIỆU
NGUYÊN
([17]) Con trai tiền bối Trương Truyền Chánh (thánh danh Kiến Minh). Đạo trưởng Kiến Minh là pháp đàn bộ
phận thông công (Hiệp Thiên Đài) của Giáo Hội Cao Đài Thống Nhứt và về sau là
Phó Tổng Lý Minh Đạo của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam.
Diệu Nguyên gọi Trương Thành Thiện là cậu Chín.
([22]) Phụng (phượng)
là con trống, con mái gọi là hoàng. Phụng
cầu hoàng là con chim trống đi tìm con chim mái để kết bạn. Tích xưa kể
rằng Tư Mã Tương Như 司 馬 相 如 (179-127 trước Công Nguyên), tự Tràng Khanh 長 卿, người ở Thành Đô, đời Hán (Trung Quốc)
văn hay, đàn giỏi. Khi đến chơi nhà viên ngoại họ Trác, đã đàn bài Phụng cầu hoàng 鳳 求 凰. Con gái viên ngoại là Trác Văn Quân 卓 文 君 , trẻ tuổi góa chồng, dọn về ở với cha.
Nghe bản đàn tình tứ ấy nàng liền bỏ nhà cuốn gói trốn theo Tư Mã.
([35]) Dự Nhượng người
nước Tần, theo phò Trí Bá được Bá rất yêu quý, tôn trọng. Sau khi Triệu Tương
Tử giết Trí Bá, Dự Nhượng nói: “Kẻ sĩ chết vì người tri kỷ. Ta phải liều chết
báo thù đền ơn.” Nhượng đổi họ thay tên, lẻn vào cung để đâm Tương Tử nhưng
việc bại lộ. Tương Tử thương kẻ trung nghĩa, tha chết. Dự Nhượng lại giả làm
người cùi, câm, không ai nhận ra tông tích. Nhượng nấp ở gầm cầu Tương Tử sắp
đi qua, định ám sát. Con ngựa Tương Tử cỡi bỗng hí lên sợ hãi. Tương Tử sai
người đi lùng bắt được Nhượng. Tương Tử trách: “Sao ngươi lại muốn báo thù đến
như vậy?” Nhượng đáp: “Trí Bá xem tôi như người quốc sĩ, tôi phải báo thù theo
lối quốc sĩ.” Tương Tử ngậm ngùi khóc: “Ta tha cho nhà ngươi thế cũng đã đủ
rồi. Ta không tha cho nhà ngươi nữa.” Nhượng nói: “Tôi xin chịu chết, nhưng xin
cho tôi cái áo của ngài để tôi thỏa chí báo thù.” Tương Tử khen có nghĩa, cổi
áo đưa cho Nhượng. Nhượng cầm gươm đánh vào áo ba lần, rồi trở ngược lưỡi gươm
tự sát. Tương Tử xem lại long bào thì thấy những nơi bị Nhượng đánh đều rướm
máu, là do lòng chí thành của Nhượng cảm ứng mà ra. Tương Tử rất hoảng sợ, sau
đó ngả bệnh.
Nếu quý bạn thích có tập sách nhỏ này, kính mời quý bạn gởi thư về daidaovanuyen@gmail.com. Và xin quý bạn hoan hỷ trả
giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu. Cảm ơn quý bạn quan tâm. (Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo)