Thứ Hai, 14 tháng 1, 2019

08/ NGƯỜI TU HỌC TÁNH CỦA NƯỚC / ÁNH SÁNG CỦA TRẦN GIAN

 NGƯỜI TU HỌC TÁNH CỦA NƯỚC
Con người được xem là sinh vật tối linh, chúa tể muôn loài vạn vật nơi cõi thế gian này. Mặc dù vậy, con người vẫn phải nhìn vào thiên nhiên và học tập cách hành xử của thiên nhiên để phát triển nhân cách và điều chỉnh cách hành xử của mình trong cuộc sống sao cho đúng Đạo. Bởi lẽ, thiên nhiên chính là Đạo.
Thật vậy, mọi hiện tượng trong thiên nhiên do Tạo Hóa sắp bày dường như đều ngầm muốn nói với con người một ý nghĩa đạo lý nào đó.
Mặt trời sáng soi khắp cõi thế gian không phân biệt kẻ lành người dữ để khuyên nhủ con người hãy san sẻ tình thương cho mọi người không phân biệt.([1])
Những áng mây bàng bạc trên không trung khi hợp khi tan đã nói lên cái lẽ vô thường của cuộc sống.([2])
Những con kiến kiên nhẫn, cần cù tha mồi về tổ.
Những chú ong mật suốt ngày siêng năng tìm hút mật hoa để cho tổ được đong đầy mật ngọt.
Những con chim khôn ngoan biết lựa nhánh chọn cành để xây tổ ấm, v.v…
Tất cả đều là những tấm gương và bài học đạo lý cho con người.
Trong những bài học được lấy từ thiên nhiên đem áp dụng cho người tu học và hành đạo, có bài học của nước.
Người xưa thường lấy nước để ví đức tính trang quân tử hay bậc thánh nhân. Còn ngày nay, trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:
(H)àng hướng đạo tu thân, học đạo, hành đạo, đem đạo vào đời, giác ngộ thế nhân, mang sứ mạng thế Thiên hành hóa,([3]) một sứ mạng cao cả, lẽ nào lại thua người quân tử và kém hơn nước hay sao? ([4])
Học tập một số lời dạy về đức tánh của nước chép ở kinh điển xa xưa và thánh giáo các Đấng thiêng liêng trong Tam Kỳ Phổ Độ, người tu có thể xác định những đức tính cần phải rèn luyện trên đường tu thân, học đạo, hành đạo và hướng đạo.
1. Nước làm sạch cho mọi loài không phân biệt. Nước còn có đặc tính bù chì đem từ gò cao dư san bằng cho những hố sâu thiếu kém. Học tánh của nước, người tu yêu thương muôn loài vạn vật, mọi người, mọi kẻ không phân biệt và san sẻ cho những người bất hạnh thiếu kém.([5])
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:
Chư đạo hữu ơi! Tình thương của Thượng Đế đối với vạn loại như tình mẫu tử. Mưa nắng phong sương, bốn mùa tám tiết vẫn chan rưới đồng đều cho mỗi loài mỗi vật. Lòng thương ấy cũng còn có thể ví như nước. Dầu cho bất cứ vật gì ô trược đến đâu chăng nữa, nước vẫn cứ làm sạch vơi lần đi theo thời gian ngày tháng. Nước còn có đặc tính bù chì đem từ gò nổng cao dư san bằng cho những hố sâu thiếu kém.
Thời tiết mưa nắng phong sương không phân biệt và chọn lựa loài nào để chan rưới. Nước vẫn làm sạch không phân biệt loài nào để xóa tẩy và san bằng. Đó cũng là lẽ đương nhiên nằm trong mối tình bao la của Thượng Đế.
Người tu trước nhứt cần tập cho được đức tính ấy. Thương người thương vật đã đành rồi, nhưng phải thương cho được những người mà thế gian cho rằng không đáng thương.([6])
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy người tu phải thương cho được những người mà thế gian cho rằng không đáng thương;([7]) vậy, phải chăng Ngài dạy chúng ta phải nâng cao tình yêu thương chúng sanh của mình lên tầm mức của tình mẫu tử? Bởi lẽ chỉ có tình yêu thương của bậc hiền mẫu mới bao la tràn đầy mà không phân biệt. Cho dù con mình có là một người thông minh, tài ba xuất chúng hay là một kẻ ngu khờ, tàn tật, tội lỗi… mẹ đều thương tất cả.
Chuyện kể rằng tại nghĩa trang nọ, chiều nào người ta cũng thấy có người phụ nữ đến thắp hương trước ngôi mộ mới đắp. Hỏi ra thì biết bà thắp hương cho con trai vừa qua đời bởi chịu án tử hình vì tội sát nhân.
Qua đó, chúng ta thấy rằng, cho dù người con là một tội phạm hình sự bị xã hội nguyền rủa và xa lánh nhưng lòng mẹ vẫn luôn rất thương con. Thậm chí, mẹ lại còn dành tình thương cho những đứa con thiếu kém, bất hạnh nhiều hơn những đứa con may mắn. Thật vậy, Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:
(T)rong một đàn con chung cha mẹ, một gia đình, nếu có một người mang tật, dầu ở nhục thể hoặc ở tinh thần, cũng là chỗ trũng để dồn mọi sự bất hạnh của đàn con vào đứa ấy gánh vác vì tiền khiên nghiệp quả. Lòng mẹ hằng bù chì san sớt tình thương để dồn về đứa ấy nhiều hơn, nhưng khốn thay, đàn con lành mạnh kia đâu nào biết được sự ấy để xót thương nâng đỡ đứa anh em tật nguyền.
Thế nên, trong dân gian có câu chuyện như sau:
Trong gia đình nọ, mấy người con rất hiếu thảo với mẹ già. Họ thỏa thuận với nhau rằng mỗi người sẽ luân phiên rước mẹ về nhà mình phụng dưỡng trong một tháng. Cuối tháng mẹ sẽ bước lên cân trước khi về với người con khác. Ai nuôi mẹ mà để mẹ sụt cân thì không được nuôi mẹ nữa. Những người con lớn đều thành đạt khá giả nên mỗi khi rước mẹ về nhà đều cung phụng đầy đủ những thứ cao lương mỹ vị, sâm nhung đắt tiền. Duy chỉ có cô con gái út số phận nghèo nàn bất hạnh, ngày chạy ăn ba bữa không đủ, lấy đâu ra những thức ăn bổ dưỡng đắt tiền để dâng mẹ. Do đó, cô luôn nơm nớp lo sợ mẹ bị sụt cân mỗi khi bà về ở với mình. Hiểu thấu nỗi lòng con gái nên sau khi về sống với cô út, trước khi bước lên cân, người mẹ luôn giấu sẵn trong túi mình những cục chì để cân không bị sụt ký. Vì thế mà dân gian thường bảo: “Thương con thì phải bù chì.”
Trên đây là nói về gia đình nhỏ, còn xã hội nhân loại được xem là một gia đình rộng lớn. Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:
Trong xã hội nào cũng vậy, người được may mắn từ sản nghiệp, thể chất đến tinh thần hãy mở rộng lòng thương đối với người thiếu kém hơn. Đó là thể hiện được lòng từ mẫu, mà lòng từ mẫu tức là lòng Trời. Đó là thuận Thiên vậy.([8])
Lời Đức Vạn Hạnh giảng dạy trên đây có thể được minh chứng qua cách hành xử của Bàn Khuê Vĩnh Trác (1622-1693), một vị thiền sư danh tiếng người Nhật. Thiền sư được xem là người có công đưa thiền học đến với quảng đại quần chúng. Vì thế rất đông người thuộc nhiều thành phần khác nhau trong xã hội dễ dàng có cơ hội tìm đến tu viện của sư để tập làm quen với thiền. Nhưng cửa thiền càng rộng mở càng khó tránh khỏi phần tử xấu trà trộn.
Chuyện kể rằng trong một khóa tu tập nọ, các thiền sinh không thể nào giữ lòng thanh tịnh để tập trung tu hành vì thường xuyên bị mất cắp. Các nạn nhân kín đáo hội ý với nhau bố trí người luân phiên theo dõi. Họ dễ dàng bắt quả tang kẻ trộm, là một thiền sinh giả hiệu.
Vụ việc lập tức được trình lên thiền sư Bàn Khuê. Họ xin thầy phải trục xuất kẻ gian, giữ cho cửa thiền trong sạch. Sư chỉ làm thinh.
Kẻ trộm nghỉ “xả hơi” được vài hôm thì ngứa ngáy tay chân, bèn tái phạm. Y lập tức bị tóm cổ, và bị lôi xềnh xệch đến trước mặt thiền sư. Nhưng chẳng khác chi lần trước, sư chỉ làm thinh.
Lần thứ ba tóm được kẻ trộm, vì quá bất mãn trước việc “dung túng” của thầy, các thiền sinh quyết liệt yêu cầu thầy chọn lựa: Nếu kẻ trộm vẫn tiếp tục được dung túng, tất cả môn sinh sẽ đồng lòng cuốn gói ra khỏi chùa.
Bấy giờ sư Bàn Khuê mới ôn tồn bảo:
- Các anh là những người khôn ngoan, có lý trí và hiểu biết. Các anh đã đủ khả năng phân biện đúng sai, phải quấy. Do đó, các anh có thể tìm chỗ nào khác tu học cũng được, chẳng sao cả. Nhưng kẻ đáng thương này chưa hề biết phân biệt đúng sai, thiện ác, nếu thầy không yêu thương giáo hóa anh ta thành người lương thiện thì ai sẽ dạy anh ta đây? Thôi, các anh muốn đi đâu tùy ý, cứ để người này lại cho thầy dạy dỗ.
Sư vừa dứt lời, kẻ cắp liền quỳ sụp xuống chân thầy, khóc nức nở.([9])
2. Nước luôn ở chỗ trũng thấp, luôn làm ơn ích cho muôn loài vạn vật mà không tranh giành. Người tu cũng thế, sống ích nhơn lợi vật, luôn quên mình vì người mà không khoe khoang, tự cao tự đại, luôn khiêm tốn ẩn mình.
Đức Lão Tử dạy:
Nước bỏ chỗ cao mà chảy xuống chỗ thấp - ngày đêm nước làm việc chẳng ngừng. Trên trời nước làm mưa làm sương. Dưới đất nước sinh sông sinh lạch. Đâu đâu nước cũng thấm nhuần, tắm gội. Nước làm ích cho mọi loài. Nước luôn tuân phục, không kháng cự. Đắp đê ngăn thời nước ngừng, mở cửa cống cho thoát thời nước chảy. Nước cũng đổi hình thù vuông tròn tùy theo bình chứa. Con người thường có khuynh hướng khác hẳn. Con người luôn ưa lợi lộc, luôn luôn vị kỷ. Vì thế con người phải bắt chước làm nước. Kẻ nào hạ mình để phục vụ người sẽ được mọi người thương mến và không bị ai chống đối.([10])
3. Nước ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Người tu phải biết tùy doi nương vịnh, hoạt động uyển chuyển theo thời, tùy duyên hay tùy hoàn cảnh mà hành đạo để mang lại lợi ích cho nhơn quần xã hội nhưng không bao giờ đánh mất phẩm chất của người tu.
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:
Nước khi đựng trong chai thì gọi rằng nước chai, đến khi đem đựng vào lu thì được gọi rằng nước lu. Khi nước được hòa đồng trong huyết quản thì gọi rằng máu, đến khi sầu thảm giọt lệ chảy dài gọi là nước mắt. Khi đem vào lò nấu rượu, gọi là rượu. Khi khác đem nấu canh, nấu chè, thì gọi là nước canh, nước chè. Khi từ mặt ao hồ sông rạch bốc hơi lên, tập trung thành mây, rớt xuống gọi là nước mưa. Nước mưa bao trùm khắp núi non rừng rậm, kết thành khe, chảy xuống gọi rằng nước khe hay nước lạch. Đến khi thành nguồn chảy xuống sông rạch ao hồ, gọi rằng nước sông, nước ao, nước hồ. Những chỗ không thoát đi được, gọi rằng nước vũng hoặc nước ở dấu chân trâu. Cuối cùng tập trung vào biển cả, thì gọi rằng nước biển.
Trải qua những đoạn đường dài, nước đã mang rất nhiều cái tên ghép, tùy hoàn cảnh, tùy cách sử dụng của thế nhân mà nước phải mang muôn hình vạn trạng cùng danh từ khác nhau, nhưng bản chất của nước thì lúc nào cũng là nước. Đến chỗ cuối cùng của nó ([11]) vẫn một màu trong khe xanh biếc và một vị mặn đồng nhất đó thôi.
Mặc dầu trải qua đoạn đường dài, công dụng của nước là để giúp ích cho đời, rửa sạch cho đời, trải qua bao đoạn đường đời, mang theo biết bao điều ô uế bẩn thỉu, mang vào lòng đất, rồi mang đến đại dương, nhưng cuối cùng, nước vẫn trong vẫn sạch và vẫn giữ được mùi vị bất diệt của nó.([12]) Mặc ai bóp méo nắn tròn, khi vuông khi dài, khi rộng khi hẹp, nước vẫn là nước đại dương, không hình thể.([13])
Đức Nguyễn Trung Hậu dạy:
Nước ai muốn đem đựng vào trong vật chứa với hình thức nào cũng được. Gặp tròn theo tròn, gặp vuông theo vuông. Dài vắn, cong queo, nước tùy tất cả. Nước luôn luôn rửa sạch cho đời, nhưng phải giữ tánh chất riêng biệt của nước là chặt không đứt, bứt không rời, phơi không khô, chụm không cháy.([14])
Các lời dạy trên cho thấy người tu phải giống như nước, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, vẫn luôn sống hữu ích cho đời; làm sạch cho đời tức là đem đạo lý để lành mạnh hóa xã hội nhiều tội lỗi xấu xa, nhưng vẫn luôn gìn giữ phẩm chất thanh cao của mình, không bị tục hóa.
Đây cũng là điều mà Đức Khổng Tử đã dạy (Luận Ngữ, 13:23): Quân tử hòa nhi bất đồng... Nghĩa là mình hòa với đời nhưng không để đời đồng hóa mình, biến đổi mình... Đây cũng là tinh thần Hòa quang hỗn tục theo đạo Lão.([15])
Theo Pháp Bảo Đàn Kinh, Phẩm Thứ Nhất, Ngài Huệ Năng xưa kia, sau khi được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền y bát và trở thành vị Tổ thứ sáu của Thiền Tông Trung Hoa, đã bị những kẻ xấu rượt đuổi để giành lấy y bát. Do đó, Lục Tổ phải ẩn lánh trong nhóm thợ săn suốt mười lăm năm. Ngài thường tùy nghi giảng pháp cho nhóm thợ săn nghe. Họ thường sai Ngài giữ lưới, nhưng hễ có con thú nào sa lưới thì Ngài đều gỡ cho chúng chạy thoát. Đến bữa ăn, Ngài gởi một ít rau luộc nhờ trong nồi luộc thịt của nhóm thợ săn. Ai hỏi thì Ngài đáp: “Tôi chỉ ăn rau luộc bên miếng thịt là đủ rồi.”
Các vị tiền khai đạo Cao Đài cũng thế. Các Ngài đã trải thân hy sinh hành đạo, chịu đựng gian khổ để phổ hóa Đạo Trời, tế chúng độ dân, vào tù ra khám, thậm chí có những vị thà tử vì Đạo chứ nhất định không chịu khuất phục trước bạo quyền để giữ trọn phẩm chất người tu và bảo trọng danh Thầy, danh Đạo.([16])
4. Nước rộng lớn bao la, dung chứa tất cả. Người tu noi theo đó phải có tâm quảng đại, bao dung, tha thứ, không chấp nhứt giận hờn; tiếp nhận tất cả mọi điều xấu xa, bất công, oan trái để chuyển hóa thành những gì tốt đẹp cho cuộc đời.
Đức Đông Phương Chưởng Quản dạy:
Trách nhiệm của người hướng đạo hiện thời rất nặng nề, rất cam go, (…) phải khoan dung tha thứ, phải trầm tĩnh bình tâm như dòng nước mãi mãi luân lưu trong chỗ luân lưu, vượt qua những thác những gành, những khe những rạch quanh co uốn khúc ngoằn ngoèo từ thấp đến cao, chỗ lồi chỗ lõm, luôn luôn phải giữ tánh chất của nước. Nước luôn luôn đem lại mát mẻ cho người đời, sạch sẽ cho muôn dân, không hờn trách những người ngăn đắp, không phiền giận những người câu thúc vào cái món đựng nó dài, dẹp, tròn, vuông…([17])
Đức Phật Thích Ca xưa kia dạy con trai là sa di La Hầu La như sau:
Này La Hầu La, con hãy học cách hành xử của nước. Dù người ta có đổ xuống nước những chất thơm tho đẹp đẽ hoặc giặt rửa trong nước những thứ dơ bẩn và hôi hám thì cũng không phải vì thế mà nước bị vướng mắc, tự hào hoặc cảm thấy oán hờn và tủi nhục. Tại sao? Tại vì nước là thủy đại,([18]) có dung tích rộng lớn, có khả năng lưu chuyển, có thể tiếp nhận và chuyển hóa tất cả những gì đã tiếp nhận. Nếu tâm con rộng lớn, bao la, vô lượng như nước, thì con cũng có thể tiếp nhận và chuyển hóa tất cả mọi bất công và oan ức, và những thứ ấy sẽ không thể làm cho con buồn tủi và khổ đau.([19])
Chuyện nàng Thị Kính bị Thị Mầu vu oan ai ai cũng biết. Bên Nhật có chuyện tương tự.
Thiền sư Bạch Ẩn (Hakuin) bị cô gái trong làng vu cho là tác giả cái bào thai trong bụng cô. Sư điềm nhiên nói: “Thế à!” Đứa bé chào đời, cha mẹ cô bồng tới chùa giao cho sư. Sư điềm nhiên nói: “Thế à!” Rồi sư thản nhiên nuôi trẻ, bất chấp mọi đàm tiếu kinh bỉ của dân làng. Một năm sau, cô gái thú thật cha đứa bé là anh bán cá ngoài chợ. Cha mẹ cô tới chùa tạ tội và xin nhận cháu mang về. Sư điềm nhiên nói: “Thế à!” và trao lại đứa trẻ.([20])
Nàng Thị Kính thuở xa xưa hay thiền sư Bạch Ẩn ngày trước cùng chịu một nỗi oan khuất giống nhau; cả hai đều chấp nhận nỗi oan khuất ấy và đem lòng từ bi mà dưỡng nuôi, bảo bọc chở che cho hai sanh linh vô tội bé nhỏ.


Ngày nay, Đức Mẹ dạy chúng ta:
Đức thì bao trùm chứa chở quảng đại bao dung như lời Đức Chí Tôn đã dạy khi xưa:
Cái khổ của đời mình ước vọng
Cái chê của chúng lại nài cầu.([21])
5. Nước yếu mà mạnh. Người tu uyển chuyển mềm dẻo trong cách đối nhân xử thế nhưng lại đạt được thành công trong việc tế chúng độ đời.
Đức Lão Tử dạy:
Trong thiên hạ không gì mềm yếu hơn nước; thế mà nó lại công phá được tất cả những gì cứng rắn. Chẳng chi hơn nó, chẳng chi thay thế được nó. Mềm thắng cứng, yếu thắng mạnh, thiên hạ ai cũng biết thế, mà chẳng ai làm được.([22])
Bác sĩ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ bình giảng lời này như sau:
Điều nên tin là điều gì? Là bạo lực không bao giờ gây ảnh hưởng lâu dài, bền bỉ, mà trái lại chỉ có sự khéo léo mềm mại mới chinh phục được lòng người.
Thiên nhiên đã chứng minh điều đó. Nước là cái gì mềm yếu nhất, uyển chuyển nhất mà thực ra đã xoi mòn được núi non, đã làm tan rã được sắt đá. Lão Tử ưa thích sánh Thánh Nhân với làn nước và nhân đó cho rằng khiêm cung, từ tốn nhưng kiên nhẫn, bền bỉ sẽ đem tới một thành công vững vàng.
Lão Tử cũng đã nhiều lần đề cao sự mềm mại, uyển chuyển và cho rằng đây mới là bí quyết để thủ thắng.
Khảo lịch sử ta đã thấy Tần Thủy Hoàng, Hạng Võ, Hốt Tất Liệt không phải là những người làm chủ thiên hạ muôn đời; mà những người làm chủ thiên hạ muôn đời là những Thích Ca, Giêsu, Lão Tử, Khổng Tử. Tất cả những vị Giáo Chủ này đều chủ trương từ bi, hỷ xả, thành nhân chi mỹ. Thật đúng là nhu thắng cương, nhược thắng cường!
Thuở mới khai đạo Cao Đài, khi các vị tiền khai đi khắp nơi phổ độ nhơn sanh, Đức Chí Tôn dặn dò:
Các con hiền mà dữ. Các con yếu mà mạnh. Các con nhỏ nhoi mà quyền thế. Các con nhịn nhục mà các con hành phạt. Cử chỉ các con khá tập sao cho nghịch với cử chỉ thế tình thì là gần ngôi Tiên Phật đó.([23])
Người tu không bao giờ dùng quyền uy để ép buộc người khác làm theo ý mình mà chỉ nói những lời đạo lý dịu ngọt để cảm hóa nhân tâm.
Chuyện sau đây xảy ra trong thiền viện của thiền sư Tiên Nhai (Sengai) bên Nhật. Một thiền sinh thường lén trèo qua tường ra phố dạo mát ban đêm. Một tối nọ, đi giám sát các phòng ngủ, thiền sư Tiên Nhai thấy giường anh ta trống trải và sau đó phát hiện thêm chiếc ghế cao kê sát tường. Thiền sư lẳng lặng dời ghế ra nơi khác và đứng thay vào chỗ đó. Lúc trở về, theo thói quen, anh ta trèo qua tường và bỏ bàn chân xuống ngay trên đầu thiền sư làm điểm tựa rồi phóng ngay xuống đất. Bấy giờ biết rằng mình vừa phạm lỗi thất kính với sư phụ, anh sợ hết hồn hết vía. Nhưng thiền sư chỉ nhỏ nhẹ khuyên: “Sáng sớm trời lạnh lắm. Con cẩn thận kẻo bị cảm.” Sau đêm đó, anh ta không bao giờ trốn ra ngoài chơi khuya nữa.([24])
6. Nước dơ đục chưa thể sử dụng, cần phải gạn lọc, lóng phèn cho trong mới dùng được. Người tu cũng thế, có chánh kỷ mới hóa nhân,([25]) bản thân phải trong sạch thánh khiết mới độ được người. Nước ở nơi đất cát mà có, hễ xao động thì đục, yên lặng thì trong. Người tu muốn thanh lọc thân tâm cần phải công phu thiền định cho tâm được thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì trí huệ hoát khai, sáng suốt, hành đạo độ đời mới hiệu quả.
Đức Mẹ dạy:
(Đ)ào giếng để lấy nước, đã đến nước nhưng nước còn đục chưa thể uống được mà phải chờ thời gian gạn lọc cho nước được trong. Nước có trong thì mới dùng được, đã dùng được rồi thì không một vật gì mà không nhờ đến nó.
Nước cũng ở nơi đất cát mà có, hễ xao động thì đục, mà yên lặng thì trong. Đục thì nước bị nhơ, yên lặng thì nước được trong trẻo trở lại. Người ta dùng nước trong để rửa những bợn nhơ đục. Cũng như người của các con, nó có cả trong và đục. Người tu hành muốn khử trược lưu thanh là cốt ở công phu tu luyện. Tu luyện là phương pháp gạn lọc sao cho nước đục hóa ra trong. Pháp môn tuy có nhiều, nhưng cũng không ngoài sự thanh tịnh. Thanh tịnh nghĩa là không để một mảy may bụi trần dính vào. Hiện nay, người của các con nghiệp thức hãy còn, oan khiên chưa dứt, con phải gia công rất nhiều nữa mới mong đến ngày thành tựu.([26])
Trên đây là những đức tính của nước mà người tu cần phải học tập và thực hành, trước là để tự thánh hóa bản thân, sau là góp phần hiệu quả vào công cuộc hoằng giáo độ đời.
Tóm lại, người tu cần học theo những đức tánh của nước như sau:
1. Nước mang lại lợi ích cho mọi loài không phân biệt. Người tu cũng phải thương yêu mọi người, không phân biệt thân sơ, sang hèn. Nước luôn chảy xuống chỗ thấp, người tu luôn san sẻ tình thương cho những người bất hạnh yếu kém hơn mình.
2. Nước luôn ở chỗ trũng thấp. Người tu luôn hạ mình, khiêm tốn và không tranh giành.
3. Nước ở bầu thì tròn, ở ống thì dài, nhưng luôn giữ tính chất của nước là chặt không đứt, bứt không rời, phơi không khô, đốt không cháy. Người tu tùy theo hoàn cảnh mà hành đạo, sống hòa với đời mà không bị mất phẩm chất người tu.
4. Nước rộng lớn bao la, dung chứa tất cả. Người tu có tâm quảng đại, bao dung, tha thứ, chấp nhận mọi bất công oan ức để chuyển hóa thành những gì tốt đẹp cho cuộc đời.
5. Nước yếu mà mạnh. Người tu hòa dịu, mềm dẻo trong cách đối nhân xử thế để đi đến thành công.
6. Nước trong mới dùng được, người tu phải chánh kỷ rồi mới hóa nhân.
7. Nước yên lặng mới trong trẻo, người tu phải thiền định công phu để giữ tâm thanh tịnh mới trở nên thuần lương thánh khiết, hành đạo độ đời mới hiệu quả.
Xin mượn bài thánh thi của Đức Vạn Hạnh Thiền Sư để thay lời kết luận:
Thánh nhân xưa dụng nước làm đề
Luyện tánh tu tâm dốc trọn bề
Nước lặng phân thanh cùng lóng trược
Người tu học đó thoát u mê.([27])

DIỆU NGUYÊN



([1]) Chúa Giêsu nói về Đức Cha Trời (Matthêu 5:45): (…) Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.
([2]) Nhà thơ Đỗ Phủ (712-770) nhìn vầng mây trắng thoắt biến hình thành chó xanh nên viết: Thiên thượng phù vân như bạch y / Tư tu cải biến như thương cẩu. (Trên trời mây nổi như áo trắng / Khoảnh khắc biến thành như chó xanh.)
([3]) Thế Thiên hành hóa: Thay Trời hành đạo, giáo hóa dân chúng tu hành.
([4]) Minh Lý Thánh Hội, 19-9 Tân Hợi (Thứ Bảy 06-11-1971).
([5]) Bớt dư bù thiếu là Đạo Trời. Đạo Đức Kinh, Chương 77: Hữu dư giả tổn chi, bất túc giả bổ chi. Thiên chi Đạo, tổn hữu dư nhi bổ bất túc. (Thừa thì bớt đi, không đủ thì bù vào. Đạo Trời bớt dư bù thiếu.)
([6]) Minh Lý Thánh Hội, 09-11 Kỷ Dậu (Thứ Tư 17-12-1969).
([7]) Chúa Giêsu dạy (Matthêu 5:44): Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.
([8]) Minh Lý Thánh Hội, 09-11 Kỷ Dậu (Thứ Tư 17-12-1969).
([9]) Theo Huệ Khải, Bắc Cầu Tâm Linh. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2012, tr. 11. (Quyển 54-2 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.)
([10]) Đạo Đức Kinh, Chương 8. Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ khảo luận và bình dịch.
([11]) Chỗ cuối cùng của nó: Biển cả, đại dương.
([12]) Mùi vị bất diệt của nước là không mùi, không vị. Nước biển thì muôn đời có vị mặn.
([13]) Minh Lý Thánh Hội, 19-9 Tân Hợi (Thứ Bảy 06-11-1971).
([14]) Thánh thất Nam Thành, 22-8 Đinh Mùi (Thứ Hai 25-9-1967).
([15]) Hòa kỳ quang, đồng kỳ trần. (Pha trộn ánh sáng, hòa cùng bụi bặm.) Đạo Đức Kinh, Chương 4.
([16]) Xem Huệ Khải, Phan Thanh Giản Xưa Và Nay. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2018, tr. 64 (chú thích 27), 70-71.
([17]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-6 Mậu Thân (Thứ Tư 10-7-1968).
([18]) Tứ đại là đất, nước, gió, lửa.
([19]) Thích Nhất Hạnh, Mẹ - Biểu Hiện Của Tình Thương. Nxb Thời Đại, 2011, tr. 121-124.
([20]) Theo Sa Thạch Tập (Shasekishū) của thiền sư Vô Trú (Muju).
([21]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, 14-8 Nhâm Tuất (Thứ Năm 30-9-1982).
Hai câu này trích trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển I, phần Thi Văn Dạy Đạo. Nguyên văn gồm bốn câu: Nên trò đạo đức dễ gì đâu / Vui chẳng vui, sầu chẳng dám sầu / Cái khổ của đời mình ước vọng / Cái chê của chúng lại nài cầu.
([22]) Đạo Đức Kinh. Chương 78: Nhiệm Tín (Điều Nên Tin). Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ dịch.
([23]) Tòa Thánh Tây Ninh, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. Quyển 1. Đàn ngày 23-8 Bính Dần (Thứ Tư 29-9-1926).
([24]) Theo Sa Thạch Tập (Shasekishū) của thiền sư Vô Trú (Muju).
([25]) Thời Nhị Kỳ Phổ Độ, Đức Giêsu dạy chánh kỷ hóa nhân như sau (Matthêu 7:3-5): Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với người anh em “Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn”, trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.
([26]) Thánh Truyền Trung Hưng. Tịnh Đường, 23-10 Quý Mẹo (Chủ Nhật 08-12-1963).
([27]) Minh Lý Thánh Hội, 19-9 Tân Hợi (Thứ Bảy 06-11-1971). Nguyên gốc câu thứ tư trong bài Thánh thi của Đức Vạn Hạnh Thiền Sư là: Người tu vọng động tánh u mê. Xin mạn phép Ngài “cải biên” là: “Người tu học đó thoát u mê” cho phù hợp với nội dung bài viết.


Nếu quý bạn thích có tập sách nhỏ này, kính mời quý bạn gởi thư về daidaovanuyen@gmail.com. Cảm ơn quý bạn quan tâm. (Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo)