NGƯỜI TU HỌC TÁNH CỦA NƯỚC
Con người được xem là sinh
vật tối linh, chúa tể muôn loài vạn vật nơi cõi thế gian này. Mặc dù vậy, con
người vẫn phải nhìn vào thiên nhiên và học tập cách hành xử của thiên nhiên để
phát triển nhân cách và điều chỉnh cách hành xử của mình trong cuộc sống sao
cho đúng Đạo. Bởi lẽ, thiên nhiên chính là Đạo.
Thật vậy, mọi hiện tượng trong thiên
nhiên do Tạo Hóa sắp bày dường như đều ngầm muốn nói với con người một ý nghĩa
đạo lý nào đó.
Mặt trời sáng soi khắp cõi thế gian không
phân biệt kẻ lành người dữ để khuyên nhủ con người hãy san sẻ tình thương cho
mọi người không phân biệt.([1])
Những
áng mây bàng bạc trên không trung khi hợp khi tan đã nói lên cái lẽ vô thường
của cuộc sống.([2])
Những con kiến kiên nhẫn, cần cù tha mồi
về tổ.
Những chú ong mật suốt ngày siêng năng
tìm hút mật hoa để cho tổ được đong đầy mật ngọt.
Những con chim khôn ngoan biết lựa nhánh
chọn cành để xây tổ ấm, v.v…
Tất cả đều là những tấm gương và bài học
đạo lý cho con người.
Trong những bài học được lấy từ thiên
nhiên đem áp dụng cho người tu học và hành đạo, có bài học của nước.
Người xưa thường lấy nước để ví đức tính
trang quân tử hay bậc thánh nhân. Còn ngày nay, trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ,
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:
(H)àng
hướng đạo tu thân, học đạo, hành đạo, đem đạo vào đời, giác ngộ thế nhân, mang
sứ mạng thế Thiên hành hóa,([3]) một sứ mạng cao cả, lẽ
nào lại thua người quân tử và kém hơn nước hay sao? ([4])
Học
tập một số lời dạy về đức tánh của nước chép ở kinh điển xa xưa và thánh giáo
các Đấng thiêng liêng trong Tam Kỳ Phổ Độ, người tu có thể xác định những đức
tính cần phải rèn luyện trên đường tu thân, học đạo, hành đạo và hướng đạo.
1. Nước làm sạch cho mọi loài không phân
biệt. Nước còn có đặc tính bù chì đem từ gò cao dư san bằng cho những hố sâu
thiếu kém. Học tánh của nước, người tu yêu thương muôn loài vạn vật, mọi người,
mọi kẻ không phân biệt và san sẻ cho những người bất hạnh thiếu kém.([5])
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:
Thời
tiết mưa nắng phong sương không phân biệt và chọn lựa loài nào để chan rưới.
Nước vẫn làm sạch không phân biệt loài nào để xóa tẩy và san bằng. Đó cũng là
lẽ đương nhiên nằm trong mối tình bao la của Thượng Đế.
Người
tu trước nhứt cần tập cho được đức tính ấy. Thương người thương vật đã đành
rồi, nhưng phải thương cho được những người mà thế gian cho rằng không đáng
thương.([6])
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy người tu phải
thương cho được những người mà thế gian cho rằng không đáng thương;([7]) vậy,
phải chăng Ngài dạy chúng ta phải nâng cao tình yêu thương chúng sanh của mình
lên tầm mức của tình mẫu tử? Bởi lẽ chỉ có tình yêu thương của bậc hiền mẫu mới
bao la tràn đầy mà không phân biệt. Cho dù con mình có là một người thông minh,
tài ba xuất chúng hay là một kẻ ngu khờ, tàn tật, tội lỗi… mẹ đều thương tất
cả.
Chuyện kể rằng tại nghĩa trang nọ, chiều
nào người ta cũng thấy có người phụ nữ đến thắp hương trước ngôi mộ mới đắp.
Hỏi ra thì biết bà thắp hương cho con trai vừa qua đời bởi chịu án tử hình vì
tội sát nhân.
Qua đó, chúng ta thấy rằng, cho dù người
con là một tội phạm hình sự bị xã hội nguyền rủa và xa lánh nhưng lòng mẹ vẫn
luôn rất thương con. Thậm chí, mẹ lại còn dành tình thương cho những đứa con
thiếu kém, bất hạnh nhiều hơn những đứa con may mắn. Thật vậy, Đức Vạn Hạnh
Thiền Sư dạy:
(T)rong
một đàn con chung cha mẹ, một gia đình, nếu có một người mang tật, dầu ở nhục
thể hoặc ở tinh thần, cũng là chỗ trũng để dồn mọi sự bất hạnh của đàn con vào
đứa ấy gánh vác vì tiền khiên nghiệp quả. Lòng mẹ hằng bù chì san sớt tình
thương để dồn về đứa ấy nhiều hơn, nhưng khốn thay, đàn con lành mạnh kia đâu
nào biết được sự ấy để xót thương nâng đỡ đứa anh em tật nguyền.
Thế nên, trong dân gian có câu chuyện như
sau:
Trong gia đình nọ, mấy người con rất hiếu
thảo với mẹ già. Họ thỏa thuận với nhau rằng mỗi người sẽ luân phiên rước mẹ về
nhà mình phụng dưỡng trong một tháng. Cuối tháng mẹ sẽ bước lên cân trước khi
về với người con khác. Ai nuôi mẹ mà để mẹ sụt cân thì không được nuôi mẹ nữa.
Những người con lớn đều thành đạt khá giả nên mỗi khi rước mẹ về nhà đều cung
phụng đầy đủ những thứ cao lương mỹ vị, sâm nhung đắt tiền. Duy chỉ có cô con
gái út số phận nghèo nàn bất hạnh, ngày chạy ăn ba bữa không đủ, lấy đâu ra
những thức ăn bổ dưỡng đắt tiền để dâng mẹ. Do đó, cô luôn nơm nớp lo sợ mẹ bị
sụt cân mỗi khi bà về ở với mình. Hiểu thấu nỗi lòng con gái nên sau khi về sống
với cô út, trước khi bước lên cân, người mẹ luôn giấu sẵn trong túi mình những
cục chì để cân không bị sụt ký. Vì thế mà dân gian thường bảo: “Thương con thì
phải bù chì.”
Trên đây là nói về gia đình nhỏ, còn xã
hội nhân loại được xem là một gia đình rộng lớn. Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:
Trong
xã hội nào cũng vậy, người được may mắn từ sản nghiệp, thể chất đến tinh thần
hãy mở rộng lòng thương đối với người thiếu kém hơn. Đó là thể hiện được lòng từ
mẫu, mà lòng từ mẫu tức là lòng Trời. Đó là thuận Thiên vậy.([8])
Lời Đức Vạn Hạnh giảng dạy trên đây có
thể được minh chứng qua cách hành xử của Bàn Khuê Vĩnh Trác (1622-1693), một vị
thiền sư danh tiếng người Nhật. Thiền sư được xem là người có công đưa thiền
học đến với quảng đại quần chúng. Vì thế rất đông người thuộc nhiều thành phần
khác nhau trong xã hội dễ dàng có cơ hội tìm đến tu viện của sư để tập làm quen
với thiền. Nhưng cửa thiền càng rộng mở càng khó tránh khỏi phần tử xấu trà
trộn.
Chuyện
kể rằng trong một khóa tu tập nọ, các thiền sinh không thể nào giữ lòng thanh
tịnh để tập trung tu hành vì thường xuyên bị mất cắp. Các nạn nhân kín đáo hội
ý với nhau bố trí người luân phiên theo dõi. Họ dễ dàng bắt quả tang kẻ trộm,
là một thiền sinh giả hiệu.
Vụ
việc lập tức được trình lên thiền sư Bàn Khuê. Họ xin thầy phải trục xuất kẻ
gian, giữ cho cửa thiền trong sạch. Sư chỉ làm thinh.
Kẻ
trộm nghỉ “xả hơi” được vài hôm thì ngứa ngáy tay chân, bèn tái phạm. Y lập tức
bị tóm cổ, và bị lôi xềnh xệch đến trước mặt thiền sư. Nhưng chẳng khác chi lần
trước, sư chỉ làm thinh.
Lần
thứ ba tóm được kẻ trộm, vì quá bất mãn trước việc “dung túng” của thầy, các
thiền sinh quyết liệt yêu cầu thầy chọn lựa: Nếu kẻ trộm vẫn tiếp tục được dung
túng, tất cả môn sinh sẽ đồng lòng cuốn gói ra khỏi chùa.
Bấy
giờ sư Bàn Khuê mới ôn tồn bảo:
- Các
anh là những người khôn ngoan, có lý trí và hiểu biết. Các anh đã đủ khả năng
phân biện đúng sai, phải quấy. Do đó, các anh có thể tìm chỗ nào khác tu học
cũng được, chẳng sao cả. Nhưng kẻ đáng thương này chưa hề biết phân biệt đúng
sai, thiện ác, nếu thầy không yêu thương giáo hóa anh ta thành người lương thiện
thì ai sẽ dạy anh ta đây? Thôi, các anh muốn đi đâu tùy ý, cứ để người này lại
cho thầy dạy dỗ.
Sư vừa dứt lời, kẻ cắp liền quỳ sụp xuống chân thầy, khóc
nức nở.([9])
2. Nước luôn ở chỗ trũng thấp, luôn làm ơn ích cho muôn
loài vạn vật mà không tranh giành. Người tu cũng thế, sống ích nhơn lợi vật,
luôn quên mình vì người mà không khoe khoang, tự cao tự đại, luôn khiêm tốn ẩn
mình.
Đức Lão Tử dạy:
Nước bỏ chỗ cao mà chảy xuống chỗ thấp - ngày đêm nước làm việc
chẳng ngừng. Trên trời nước làm mưa làm sương. Dưới đất nước sinh sông sinh lạch.
Đâu đâu nước cũng thấm nhuần, tắm gội. Nước làm ích cho mọi loài. Nước luôn
tuân phục, không kháng cự. Đắp đê ngăn thời nước ngừng, mở cửa cống cho thoát
thời nước chảy. Nước cũng đổi hình thù vuông tròn tùy theo bình chứa. Con người
thường có khuynh hướng khác hẳn. Con người luôn ưa lợi lộc, luôn luôn vị kỷ. Vì
thế con người phải bắt chước làm nước. Kẻ nào hạ mình để phục vụ người sẽ được
mọi người thương mến và không bị ai chống đối.([10])
3. Nước ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.
Người tu phải biết tùy doi nương vịnh, hoạt động uyển chuyển theo thời, tùy
duyên hay tùy hoàn cảnh mà hành đạo để mang lại lợi ích cho nhơn quần xã hội
nhưng không bao giờ đánh mất phẩm chất của người tu.
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:
Nước
khi đựng trong chai thì gọi rằng nước chai, đến khi đem đựng vào lu thì được
gọi rằng nước lu. Khi nước được hòa đồng trong huyết quản thì gọi rằng máu, đến
khi sầu thảm giọt lệ chảy dài gọi là nước mắt. Khi đem vào lò nấu rượu, gọi là
rượu. Khi khác đem nấu canh, nấu chè, thì gọi là nước canh, nước chè. Khi từ
mặt ao hồ sông rạch bốc hơi lên, tập trung thành mây, rớt xuống gọi là nước
mưa. Nước mưa bao trùm khắp núi non rừng rậm, kết thành khe, chảy xuống gọi
rằng nước khe hay nước lạch. Đến khi thành nguồn chảy xuống sông rạch ao hồ,
gọi rằng nước sông, nước ao, nước hồ. Những chỗ không thoát đi được, gọi rằng
nước vũng hoặc nước ở dấu chân trâu. Cuối cùng tập trung vào biển cả, thì gọi
rằng nước biển.
Trải
qua những đoạn đường dài, nước đã mang rất nhiều cái tên ghép, tùy hoàn cảnh,
tùy cách sử dụng của thế nhân mà nước phải mang muôn hình vạn trạng cùng danh
từ khác nhau, nhưng bản chất của nước thì lúc nào cũng là nước. Đến chỗ cuối
cùng của nó ([11]) vẫn
một màu trong khe xanh biếc và một vị mặn đồng nhất đó thôi.
Mặc
dầu trải qua đoạn đường dài, công dụng của nước là để giúp ích cho đời, rửa
sạch cho đời, trải qua bao đoạn đường đời, mang theo biết bao điều ô uế bẩn
thỉu, mang vào lòng đất, rồi mang đến đại dương, nhưng cuối cùng, nước vẫn
trong vẫn sạch và vẫn giữ được mùi vị bất diệt của nó.([12]) Mặc ai bóp méo nắn tròn, khi vuông khi dài,
khi rộng khi hẹp, nước vẫn là nước đại dương, không hình thể.([13])
Đức Nguyễn Trung Hậu dạy:
Nước
ai muốn đem đựng vào trong vật chứa với hình thức nào cũng được. Gặp tròn theo
tròn, gặp vuông theo vuông. Dài vắn, cong queo, nước tùy tất cả. Nước luôn luôn
rửa sạch cho đời, nhưng phải giữ tánh chất riêng biệt của nước là chặt không
đứt, bứt không rời, phơi không khô, chụm không cháy.([14])
Các lời dạy trên cho thấy người tu phải
giống như nước, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, vẫn luôn sống hữu ích cho đời;
làm sạch cho đời tức là đem đạo lý để lành mạnh hóa xã hội nhiều tội lỗi xấu
xa, nhưng vẫn luôn gìn giữ phẩm chất thanh cao của mình, không bị tục hóa.
Đây cũng là điều mà Đức Khổng Tử đã dạy (Luận Ngữ, 13:23): Quân tử hòa nhi bất đồng... Nghĩa là mình hòa
với đời nhưng không để đời đồng hóa mình, biến đổi mình... Đây cũng là tinh
thần Hòa quang hỗn tục theo đạo Lão.([15])
Theo Pháp Bảo Đàn Kinh, Phẩm Thứ Nhất, Ngài Huệ Năng xưa kia, sau khi được Ngũ
Tổ Hoằng Nhẫn truyền y bát và trở thành vị Tổ thứ sáu của Thiền Tông Trung Hoa,
đã bị những kẻ xấu rượt đuổi để giành lấy y bát. Do đó, Lục Tổ phải ẩn lánh
trong nhóm thợ săn suốt mười lăm năm. Ngài thường tùy nghi giảng pháp cho nhóm
thợ săn nghe. Họ thường sai Ngài giữ lưới, nhưng hễ có con thú nào sa lưới thì
Ngài đều gỡ cho chúng chạy thoát. Đến bữa ăn, Ngài gởi một ít rau luộc nhờ
trong nồi luộc thịt của nhóm thợ săn. Ai hỏi thì Ngài đáp: “Tôi chỉ ăn rau luộc
bên miếng thịt là đủ rồi.”
Các
vị tiền khai đạo Cao Đài cũng thế. Các Ngài đã trải thân hy sinh hành đạo, chịu
đựng gian khổ để phổ hóa Đạo Trời, tế chúng độ dân, vào tù ra khám, thậm chí có
những vị thà tử vì Đạo chứ nhất định không chịu khuất phục trước bạo quyền để
giữ trọn phẩm chất người tu và bảo trọng danh Thầy, danh Đạo.([16])
4.
Nước rộng lớn bao la, dung chứa tất cả. Người tu noi theo đó phải có tâm quảng
đại, bao dung, tha thứ, không chấp nhứt giận hờn; tiếp nhận tất cả mọi điều xấu
xa, bất công, oan trái để chuyển hóa thành những gì tốt đẹp cho cuộc đời.
Đức
Đông Phương Chưởng Quản dạy:
Trách nhiệm của người hướng đạo hiện thời
rất nặng nề, rất cam go, (…) phải khoan dung tha thứ, phải trầm tĩnh bình tâm
như dòng nước mãi mãi luân lưu trong chỗ luân lưu, vượt qua những thác những
gành, những khe những rạch quanh co uốn khúc ngoằn ngoèo từ thấp đến cao, chỗ
lồi chỗ lõm, luôn luôn phải giữ tánh chất của nước. Nước luôn luôn đem lại mát
mẻ cho người đời, sạch sẽ cho muôn dân, không hờn trách những người ngăn đắp,
không phiền giận những người câu thúc vào cái món đựng nó dài, dẹp, tròn,
vuông…([17])
Đức Phật
Thích Ca xưa kia dạy con trai là sa di La Hầu La như sau:
Này La Hầu La, con hãy học
cách hành xử của nước. Dù người ta có đổ xuống nước những chất thơm tho đẹp đẽ hoặc
giặt rửa trong nước những thứ dơ bẩn và hôi hám thì cũng không phải vì thế mà
nước bị vướng mắc, tự hào hoặc cảm thấy oán hờn và tủi nhục. Tại sao? Tại vì
nước là thủy đại,([18]) có dung tích rộng lớn,
có khả năng lưu chuyển, có thể tiếp nhận và chuyển hóa tất cả những gì đã tiếp
nhận. Nếu tâm con rộng lớn, bao la, vô lượng như nước, thì con cũng có thể tiếp
nhận và chuyển hóa tất cả mọi bất công và oan ức, và những thứ ấy sẽ không thể
làm cho con buồn tủi và khổ đau.([19])
Chuyện nàng Thị Kính bị Thị Mầu vu oan ai
ai cũng biết. Bên Nhật có chuyện tương tự.
Thiền sư Bạch Ẩn (Hakuin) bị cô gái trong làng vu cho là tác giả cái bào thai trong
bụng cô. Sư điềm nhiên nói: “Thế à!” Đứa bé chào đời, cha mẹ cô bồng tới chùa
giao cho sư. Sư điềm nhiên nói: “Thế à!” Rồi sư thản nhiên nuôi trẻ, bất chấp
mọi đàm tiếu kinh bỉ của dân làng. Một năm sau, cô gái thú thật cha đứa bé là
anh bán cá ngoài chợ. Cha mẹ cô tới chùa tạ tội và xin nhận cháu mang về. Sư
điềm nhiên nói: “Thế à!” và trao lại đứa trẻ.([20])
Nàng Thị
Kính thuở xa xưa hay thiền sư Bạch Ẩn ngày trước cùng chịu một nỗi oan khuất
giống nhau; cả hai đều chấp nhận nỗi oan khuất ấy và đem lòng từ bi mà dưỡng
nuôi, bảo bọc chở che cho hai sanh linh vô tội bé nhỏ.
Ngày nay, Đức Mẹ dạy chúng ta:
Đức
thì bao trùm chứa chở quảng đại bao dung như lời Đức Chí Tôn đã dạy khi xưa:
Cái khổ của đời mình ước vọng
5. Nước yếu mà mạnh. Người tu uyển chuyển
mềm dẻo trong cách đối nhân xử thế nhưng lại đạt được thành công trong việc tế
chúng độ đời.
Đức Lão Tử dạy:
Trong thiên hạ không gì mềm yếu hơn nước; thế
mà nó lại công phá được tất cả những gì cứng rắn. Chẳng chi hơn nó, chẳng chi
thay thế được nó. Mềm thắng cứng, yếu thắng mạnh, thiên hạ ai cũng biết thế, mà
chẳng ai làm được.([22])
Bác sĩ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ bình giảng lời
này như sau:
Điều
nên tin là điều gì? Là bạo lực không bao giờ gây ảnh hưởng lâu dài, bền bỉ, mà
trái lại chỉ có sự khéo léo mềm mại mới chinh phục được lòng người.
Thiên
nhiên đã chứng minh điều đó. Nước là cái gì mềm yếu nhất, uyển chuyển nhất mà
thực ra đã xoi mòn được núi non, đã làm tan rã được sắt đá. Lão Tử ưa thích
sánh Thánh Nhân với làn nước và nhân đó cho rằng khiêm cung, từ tốn nhưng kiên nhẫn,
bền bỉ sẽ đem tới một thành công vững vàng.
Lão
Tử cũng đã nhiều lần đề cao sự mềm mại, uyển chuyển và cho rằng đây mới là bí
quyết để thủ thắng.
Khảo
lịch sử ta đã thấy Tần Thủy Hoàng, Hạng Võ, Hốt Tất Liệt không phải là những
người làm chủ thiên hạ muôn đời; mà những người làm chủ thiên hạ muôn đời là những
Thích Ca, Giêsu, Lão Tử, Khổng Tử. Tất cả những vị Giáo Chủ này đều chủ trương
từ bi, hỷ xả, thành nhân chi mỹ. Thật đúng là nhu thắng cương, nhược thắng cường!
Thuở mới
khai đạo Cao Đài, khi các vị tiền khai đi khắp nơi phổ độ nhơn sanh, Đức Chí
Tôn dặn dò:
Các con hiền mà dữ. Các con yếu mà mạnh. Các
con nhỏ nhoi mà quyền thế. Các con nhịn nhục mà các con hành phạt. Cử chỉ các
con khá tập sao cho nghịch với cử chỉ thế tình thì là gần ngôi Tiên Phật đó.([23])
Người tu
không bao giờ dùng quyền uy để ép buộc người khác làm theo ý mình mà chỉ nói
những lời đạo lý dịu ngọt để cảm hóa nhân tâm.
Chuyện
sau đây xảy ra trong thiền viện của thiền sư Tiên Nhai (Sengai) bên Nhật. Một thiền sinh thường lén trèo qua tường ra phố
dạo mát ban đêm. Một tối nọ, đi giám sát các phòng ngủ, thiền sư Tiên Nhai thấy
giường anh ta trống trải và sau đó phát hiện thêm chiếc ghế cao kê sát tường.
Thiền sư lẳng lặng dời ghế ra nơi khác và đứng thay vào chỗ đó. Lúc trở về, theo
thói quen, anh ta trèo qua tường và bỏ bàn chân xuống ngay trên đầu thiền sư
làm điểm tựa rồi phóng ngay xuống đất. Bấy giờ biết rằng mình vừa phạm lỗi thất
kính với sư phụ, anh sợ hết hồn hết vía. Nhưng thiền sư chỉ nhỏ nhẹ khuyên:
“Sáng sớm trời lạnh lắm. Con cẩn thận kẻo bị cảm.” Sau đêm đó, anh ta không bao
giờ trốn ra ngoài chơi khuya nữa.([24])
6. Nước
dơ đục chưa thể sử dụng, cần phải gạn lọc, lóng phèn cho trong mới dùng được.
Người tu cũng thế, có chánh kỷ mới hóa nhân,([25]) bản thân phải trong sạch thánh khiết mới độ
được người. Nước ở nơi đất cát mà có, hễ xao động thì đục, yên lặng thì trong.
Người tu muốn thanh lọc thân tâm cần phải công phu thiền định cho tâm được
thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì trí huệ hoát khai, sáng suốt, hành đạo độ đời
mới hiệu quả.
Đức Mẹ
dạy:
(Đ)ào
giếng để lấy nước, đã đến nước nhưng nước còn đục chưa thể uống được mà phải
chờ thời gian gạn lọc cho nước được trong. Nước có trong thì mới dùng được, đã
dùng được rồi thì không một vật gì mà không nhờ đến nó.
Nước
cũng ở nơi đất cát mà có, hễ xao động thì đục, mà yên lặng thì trong. Đục thì
nước bị nhơ, yên lặng thì nước được trong trẻo trở lại. Người ta dùng nước
trong để rửa những bợn nhơ đục. Cũng như người của các con, nó có cả trong và
đục. Người tu hành muốn khử trược lưu thanh là cốt ở công phu tu luyện. Tu
luyện là phương pháp gạn lọc sao cho nước đục hóa ra trong. Pháp môn tuy có
nhiều, nhưng cũng không ngoài sự thanh tịnh. Thanh tịnh nghĩa là không để một
mảy may bụi trần dính vào. Hiện nay, người của các con nghiệp thức hãy còn, oan
khiên chưa dứt, con phải gia công rất nhiều nữa mới mong đến ngày thành tựu.([26])
Trên đây
là những đức tính của nước mà người tu cần phải học tập và thực hành, trước là
để tự thánh hóa bản thân, sau là góp phần hiệu quả vào công cuộc hoằng giáo độ
đời.
Tóm lại,
người tu cần học theo những đức tánh của nước như sau:
1. Nước
mang lại lợi ích cho mọi loài không phân biệt. Người tu cũng phải thương yêu
mọi người, không phân biệt thân sơ, sang hèn. Nước luôn chảy xuống chỗ thấp,
người tu luôn san sẻ tình thương cho những người bất hạnh yếu kém hơn mình.
2. Nước
luôn ở chỗ trũng thấp. Người tu luôn hạ mình, khiêm tốn và không tranh giành.
3. Nước
ở bầu thì tròn, ở ống thì dài, nhưng luôn giữ tính chất của nước là chặt không
đứt, bứt không rời, phơi không khô, đốt không cháy. Người tu tùy theo hoàn cảnh
mà hành đạo, sống hòa với đời mà không bị mất phẩm chất người tu.
4. Nước
rộng lớn bao la, dung chứa tất cả. Người tu có tâm quảng đại, bao dung, tha
thứ, chấp nhận mọi bất công oan ức để chuyển hóa thành những gì tốt đẹp cho
cuộc đời.
5. Nước
yếu mà mạnh. Người tu hòa dịu, mềm dẻo trong cách đối nhân xử thế để đi đến
thành công.
6. Nước
trong mới dùng được, người tu phải chánh kỷ rồi mới hóa nhân.
7. Nước
yên lặng mới trong trẻo, người tu phải thiền định công phu để giữ tâm thanh
tịnh mới trở nên thuần lương thánh khiết, hành đạo độ đời mới hiệu quả.
Xin mượn
bài thánh thi của Đức Vạn Hạnh Thiền Sư để thay lời kết luận:
Thánh nhân xưa dụng nước làm đề
Luyện tánh tu tâm dốc trọn bề
Nước lặng phân thanh cùng lóng trược
DIỆU
NGUYÊN
Hai
câu này trích trong Thánh Ngôn Hiệp
Tuyển, Quyển I, phần Thi Văn Dạy Đạo.
Nguyên văn gồm bốn câu: Nên trò đạo
đức dễ gì đâu / Vui chẳng vui, sầu chẳng dám sầu / Cái khổ của đời mình ước
vọng / Cái chê của chúng lại nài cầu.
([25]) Thời
Nhị Kỳ Phổ Độ, Đức Giêsu dạy chánh kỷ hóa nhân như sau (Matthêu 7:3-5): Sao anh thấy
cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì
lại không để ý tới? Sao anh lại nói với người anh em “Hãy để tôi lấy cái rác ra
khỏi mắt bạn”, trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh? Hỡi kẻ đạo đức
giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra
khỏi mắt người anh em.
Nếu quý bạn thích có tập sách nhỏ này, kính mời quý bạn gởi thư về daidaovanuyen@gmail.com. Cảm ơn quý bạn quan tâm. (Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo)