Thứ Sáu, 18 tháng 1, 2019

5/ Ý nghĩa chữ tu / THÁNH THI TRÍCH LỤC

IV. Ý NGHĨA CHỮ TU
44. Lao khổ tu đi một kiếp này
Tu là sửa đổi dở ra hay
Tu là bồi bổ nền âm chất ([1])
Tu rạng thanh danh mối Đạo Thầy.
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam
15-4 Tân Hợi (09-5-1971)
45. Tu trước nhất đừng vay nợ mới
Do cái ta cái lợi mà ra
Tu lo trả nợ đời qua
Nghiệp duyên tiền kiếp do ta tạo gầy.
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư
Minh Lý Thánh Hội, 08-4 Canh Tuất (12-5-1970)
46. Tu là sửa tâm lành tánh thiện
Tu là trau, là luyện, là rèn
Tâm con phải sáng hơn đèn
Vị tha ([2]) vong ngã ([3]) mới quen Đạo Trời
Trời thương cả con người, cả vật
Không riêng gì nhược chất,([4]) nam nhi
Lòng Trời bao quát bảo trì
Con tu học phải vào thi khoa trường ([5])
Trường thi hội rộng đường cứu cánh ([6])
Con quên mình trước cảnh khổ đau
Đó là tiết mục ([7]) đề cao
Từ bi, bác ái để vào trường thi.
Đức Diêu Trì Kim Mẫu
Vĩnh Nguyên Tự, 15-8 Quý Sửu (11-9-1973)
47. Sửa mình trong sạch ấy là tu
Gìn giữ giới quy cũng gọi tu
Công quả, công trình cho xứng phận
Cổi lần cái lớp của phàm phu.
Phật Tiên xưa cũng gốc phàm trần
Nhờ biết tu hành luyện bản thân
Trau sửa giũa mài nên thánh thiện
Trở về nước trí với non nhân.
Đức Trần Hưng Đạo
Minh Lý Thánh Hội, 09-6 Quý Sửu (09-7-1973)
48. Tu là để luyện trau tâm tánh
Tu là gìn phẩm hạnh vi nhân ([8])
Tu là tự cứu bản thân
Tu an mối nước, tình dân vẹn tròn.
Chớ sợ tu không còn danh lợi
Đừng ngại tu phú quới phải xa
Nhân xưa tiền kiếp tạo ra
Ngày nay kết quả cho ta cho người.
Đức Đông Phương Chưởng Quản
Minh Lý Thánh Hội, 26-9 Mậu Thân (16-11-1968)
49. Con tu là để giúp đời
Giúp đời chính thị giúp thời cho con
Còn trời, còn nước, còn non
Còn nhơn sanh khổ con còn gia công.
Đức Diêu Trì Kim Mẫu
Chơn Lý Đàn (Vạn Quốc Tự), 26-01 Quý Sửu (28-02-1973)
50. Tu, con sửa cái ta trước nhứt
Tu, con vun cội đức sau này
Cõi trần tỉnh tỉnh say say
Đạo là phương pháp chữa ngay bịnh trần.
Đức Diêu Trì Kim Mẫu
Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-10 Bính Ngọ (26-11-1966)
51. Lo tu tắm gội xác thân nhơ
Tu rửa cho trơn lớp bụi mờ
Tu bổ những gì mình đã mất
Tu hòa tam bửu ([9]) đạt Thiên cơ.
Đức Quan Âm Bồ Tát
Huờn Cung Đàn, 29-5 Ất Tỵ (27-6-1965)
52. Tu là sửa những gì đã trật
Tu là bồi cái mất thân tâm
Tu là tránh nẻo sai lầm
Tu là phục thiện ([10]) lòng phàm sửa đang.([11])
Đức Quan Âm Bồ Tát
Huờn Cung Đàn, 29-5 Ất Tỵ (27-6-1965)
53. Người tu học trước tu lập đức
Đạo đức tròn vượt bực thế nhân
Vào trần chẳng nhiễm bụi trần
Nhục thân chế ngự kim thân trau giồi.
Tu phải cố trau giồi tâm tánh
Phải trước tiên quyết định tu chi
Tụng kinh là để làm gì
Ăn chay niệm Phật ích chi cho mình?
Không phải Phật thiếu kinh thường dụng
Bảo chúng sanh đem tụng Phật nghe
Tụng kinh như thể nói vè
Nghĩa sâu không biết, lối lề không thông.
Chẳng khác nào như ong vò vẽ
Tiếng nhỏ to thỏ thẻ vu vu
Tụng nhiều mới gọi rằng tu
Đọc nhiều cho Phật công phu mới nhiều.
Đó là tu theo chiều mê tín
Biết bao giờ tâm tánh mở mang
Sách kinh là đuốc rọi đàng
Dạy đời học đạo hành tàng ([12]) thể nao.
Vì lẽ đó cùng nhau ráng hiểu
Đọc kinh coi Phật biểu làm chi
Ráng làm ăn ở cho y
Tánh tình cùng những hành vi Phật Trời.
Đọc kinh rồi hiểu lời Phật dạy
Thì chớ làm trái lại sách kinh
Nếu khi mình đã thông minh
Lảu thông đạo pháp xem kinh làm gì?
Đức Quan Âm Bồ Tát
Giáo Hội Tiên Thiên Minh Đức, 20-9 Đinh Mùi (23-10-1967)
54. Tu phải biết mình là ai đó
Cần biện phân sáng tỏ chánh tà
Mới mong hướng dẫn cái ta
Ngay đường trúng lối thoát ra bể trần.
Trừ tam độc ([13]) (tham, sân, si muội)
Để nhẹ mình giong ruổi đường tu
Tham thiền nhập định, công phu
Nuôi hồn dưỡng phách ôn nhu thanh nhàn.
Tuy sống tại trần gian thể xác
Mà tâm hồn siêu thoát thảnh thơi
Vui câu lạc đạo ([14]) trong đời
Xác thân ở tục, hồn chơi Thiên Đình.
Lòng quảng đại thang thênh rộng mở
Là Niết Bàn cơ sở vốn đây
Thương đời khốn khổ nạn tai
Động lòng trắc ẩn ai hoài ([15]) tha nhân.([16])
Lòng chớ vướng bợn trần tục lụy
Bởi tài danh sắc khí ([17]) hôn mê
Làm cho thần khí ([18]) nặng nề
Luân hồi lạc mất đường về quê xưa.
Tu thì phải ráng chừa tánh tục
Ví đem phèn nước đục lóng trong
Thánh xưa cũng ở trần hồng
Thoát ra nhờ bởi cõi lòng tịnh thanh.
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư
Minh Lý Thánh Hội, 19-9 Tân Hợi (06-11-1971)
55. Tu cần giải thoát hỡi con ôi
Giải thoát con xong để độ đời
Giải hết trược phiền tâm vướng mắc
Thoát qua chướng ngại tánh lôi thôi.
Đức Diêu Trì Kim Mẫu
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam
15-12 Quý Sửu (07-01-1974)
56. Giải là cởi mở nghiệp căn qua
Giải ấy chùi lau sạch mị tà
Giải nợ hồng trần bằng tích cực
Giải vây tục lụy với xông pha.
Giải mê tư tưởng trong thinh sắc ([19])
Giải chấp tâm tình ở kỷ tha.([20])
Giải khổ nhờ tu, tu chánh đạo
Giải rồi thì sẽ thoát trần la.([21])
Thoát là tránh khỏi có gì đâu
Thoát được phiền ba ([22]) thấy nhiệm mầu
Thoát hóa rằng không nhân sự phế ([23])
Thoát điều phi đạo mới tròn câu.
Đức Quan Âm Bồ Tát
Thánh thất Bình Hòa, 08-4 Canh Tuất (12-5-1970)
57. Hỡi đệ muội trọn tình tu niệm
Khỏi nhọc công tìm kiếm đâu xa
Phật Trời đều ở trong ta
Quái tà, quỷ mị, tinh ma cũng mình.
Hễ đức trọng thần kinh quỷ phục
Hễ công cao càng lúc càng cao
Thần linh ở chốn Thiên Tào ([24])
Cũng đều phù trợ có nào sai ly.
Đừng lầm tưởng phải đi non núi
Vào hang sâu lần chuỗi niệm kinh
Nếu không tập sửa tánh tình
Nên người thánh thiện, hy sinh ích gì.
Tu, tập tánh từ bi bác ái
Tu, mở lòng nhân ngãi ([25]) vị tha ([26])
Đó là thờ Phật tại gia
Đó là Di Lạc Bửu Tòa thế gian.
Đức Giáo Tông Đại Đạo
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam
22-4 Nhâm Tý (03-6-1972)
58. Ráng mà hiểu chữ tu cho kỹ
Tu phải rành chơn lý tạo đoan ([27])
Nào cần lên núi vào non
Tụng kinh gõ mõ boong boong tối ngày.
Tu nào phải tóc dài tóc ngắn
Cũng không cần áo trắng áo đen
Cũng không nê chấp ([28]) sang hèn
Cũng không bày bố múa men lắm trò.
Tu không đợi làm lò bát quái
Ngày đêm lo thư ngải luyện phù ([29])
Không cần nam bắc ngao du
Tập đoàn, tập thể pháp phù luyện phanh.([30])
Đức Quan Âm Bồ Tát
Huờn Cung Đàn, 29-5 Ất Tỵ (27-6-1965)
59. Còn việc cúng Thánh Thần, Trời Phật
Để chứng lòng chân thật của mình
Hiến dâng trọn cả đức tin
Trong ngoài vốn một chơn tình ([31]) mà thôi.
Trời Phật chẳng bảo đời thờ phượng
Xây cốt to lớn tượng hình hài
Đạo người nếu vẫn đơn sai ([32])
Nghĩa nhân ([33]) nếu vẫn chẳng ai thi hành;
Thì thờ phượng trở thành giả tướng ([34])
Chẳng linh thiêng, ảnh hưởng chi đâu
Đó là mê tín, vọng cầu ([35])
Cầu danh, lợi lộc với cầu tư riêng.
Đó là xa chơn truyền Tam Giáo
Đó là xa tam bảo ([36]) thiêng liêng
Đạo khai dốc dạy người hiền
Thế gian cư xử ba giềng ([37]) năm luân.([38])
Cốt xây dựng cõi trần thánh thiện
Cho người đời tinh tiến ([39]) tu hành
Thiên đàng cực lạc nhơn sanh
Do người đạo đức lập thành tại đây.
Đừng có tưởng sắp bày lễ vật
Đem hiến dâng Trời Phật hằng ngày
Trong khi hành động đơn sai ([40])
Giữa người nhân thế hằng ngày với nhau.
Tu chánh tín mới hầu đắc vị ([41])
Hành chánh tâm vong kỷ ([42]) vị tha ([43])
Thương người như thể thương ta
Kỉnh người như thể mẹ cha, ông bà.
Đó là tu tại gia hành thiện
Khỏi trèo non vượt biển đó đây
Đôi dòng nhắn gởi ai ai
Chữ tu là vậy, hằng ngày nhớ ghi.
Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn
Vĩnh Nguyên Tự, 21-6 Kỷ Dậu (03-8-1969)
60. Thương các con đạo chưa thâm thúy ([44])
Tuy nhập môn tính kỹ nhiều niên
Thất chùa năm tháng tuy siêng
Hằng ngày lui tới, bạc tiền của công
Nhưng đạo lý chưa thông chưa hiểu
Đọc thì nhiều, tri thiểu ([45]) phần đông
Tưởng rằng khi đã nhập môn
Ăn chay lục, thập ([46]) hoặc ròng trường trai
Quỳ cúng lạy tứ thời thường nhật
Siêng tới lui thánh thất, thánh đường
Góp phần công quả thường thường
Chuối rau, lúa gạo, chao tương cho nhiều
Rồi mãn kiếp được siêu thoát thật
Sẽ lên ngôi Tiên Phật tòa sen
Muôn đời hậu thế ngợi khen
Ngày lành tháng tốt đua chen cúng dường.
Hỡi các con phải tường ([47]) lẽ đó
Sự tu hành đã có hai đường
Hoặc là tu phước hưởng dương ([48])
Hoặc là tu huệ ([49]) thoát đường tử sanh.
Hễ con được công lành quả tốt
Vung của tiền đóng góp việc chung
Làm nhân làm phước khắp cùng
Thi ân bố đức trong vòng thế gian;
Đến khi thác, thân an hồn lạc
Rồi đầu thai kiếp khác lại trần
Hưởng điều con đã tạo nhân
Làm duyên làm phước tại trần xưa kia.
Con sẽ được hưởng bề phú quý
Hoặc công danh, địa vị trong đời
Cũng còn trong kiếp luân hồi
Lộn lên lộn xuống kiếp người giàu sang.
May mà được nhớ căn nhớ kiếp
Lo tu hành liên tiếp thêm hơn
Trau giồi nấu thuốc luyện đơn ([50])
Công phu thiền định, kim đơn tạo thành;
Thì sẽ được siêu sanh cõi thượng
Khỏi đầu thai mang vướng luân hồi
Đó là tu huệ con ôi
Định tâm đừng ngủ, nghe lời Mẹ khuyên.
Đức Diêu Trì Kim Mẫu
Thánh tịnh Kim Thành Long, 18-02 Quý Sửu (22-3-1973)
61. Tu phải học hiểu qua giáo lý
Giáo lý là kim chỉ hướng nam
Cho con nhập thánh siêu phàm
Khỏi vòng luân chuyển con tằm nhộng tơ.
Học cho hiểu bến bờ mê giác
Học cho thông thiện ác, đọa siêu
Học nhiều con sẽ hiểu nhiều
Hiểu hành càng kỹ, càng siêu thoát về.
Hỡi các con, trần mê tục lụy
Nào phải đâu bền bỉ ngàn thu
Thế nên con phải ráng tu
Tìm đường giải thoát ngục tù thế gian.
Đức Diêu Trì Kim Mẫu
Thánh tịnh Kim Thành Long, 18-02 Quý Sửu (22-3-1973)
62. Ráng mà học những lời Tiên Phật
Siêng mà tìm sự thật ở đời
Dắt mình đúng chỗ đúng nơi
Kẻo mà phí uổng một đời nhơn sanh.
Học mà chẳng biết hành cho đúng
Tu mà không tầm trúng đường đi
Mù lòa đêm tối khác gì
Loanh quanh trong kiếp hữu vi ([51]) muôn đời.
Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo
Thánh tịnh Ngọc Chiếu Đàn, 05-01 Ất Tỵ (06-02-1965)
63. Hằng xem đọc kệ kinh, thánh giáo
Để tâm hồn cổi tháo nghiệt oan ([52])
Cho lòng con được thênh thang
Cho tâm con được dịu dàng dễ thương.
Đức Diêu Trì Kim Mẫu
Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-4 Đinh Mùi (23-5-1967)




([1]) âm chất: Âm đức. Việc lành, việc thiện làm với lòng thành, không phô trương (tuy che giấu người đời nhưng Trời Phật, Thánh Thần đều biết rõ).
([2]) vị tha: Vì người khác.
([3]) vong ngã: Như vong kỷ; quên đi lợi ích bản thân.
([4]) nhược chất: Thể chất yếu đuối; ám chỉ phái nữ.
([5]) khoa trường: Nơi tổ chức kỳ thi, trường thi.
([6]) cứu cánh: Cứu độ, cứu rỗi, giải thoát khỏi luân hồi sanh tử.
([7]) tiết mục: Chương trình; một mục trong chương trình.
([8]) vi nhân: Làm người.
([9]) tam bửu: Tinh, khí, thần.
([10]) phục thiện: Từ bỏ điều xấu ác, quay về con đường thiện lương.
([11]) sửa đang: Sửa lại cho đúng.
([12]) hành tàng: Lúc hiện lúc ẩn; lúc hành động lúc im ẩn.
([13]) tam độc: Ba món độc là tham, sân, si (tham lam; giận dữ; ngu si, mê muội).
([14]) lạc đạo: Vui với cuộc sống tu hành.
([15]) ai hoài: Thương xót.
([16]) tha nhân: Người khác.
([17]) tài danh sắc khí: Tiền tài, danh vọng, sắc dục, ma túy.
([18]) thần khí: Tinh thần.
([19]) thinh sắc: Ậm thanh và sắc tướng (hình tướng bên ngoài).
([20]) kỷ tha: Ta và người.
([21]) trần la: Lưới trần. Trần gian như tấm lưới vây hãm con người trong mọi nỗi đau khổ.
([22]) phiền ba: Những sự náo nhiệt, xa hoa trên đời.
([23]) nhân sự phế: Bỏ bê bổn phận ở đời.
([24]) Thiên Tào: Thiên Đình.
([25]) nhân ngãi (nghĩa): Lòng thương người và sự ăn ở theo lẽ phải.
([26]) vị tha: Vì người khác.
([27]) tạo đoan: Khởi đầu, khởi sự; đầu mối. Thượng Đế là Đấng tạo hóa, là khởi đầu của vạn vật, chúng sanh; do đó cũng gọi Trời là Tạo Đoan.
([28]) nê chấp: Câu nệ, chấp nhất, chấp nê, cố chấp.
([29]) phù: Bùa.
([30]) luyện phanh: Đốt và nấu. Phép tu tiên (tịnh luyện) dùng hình ảnh bắc lò bát quái, luyện đơn nấu thuốc; do đó hay nói luyện phanh.
([31]) chơn tình: Lòng thành thật.
([32]) đơn sai: Giả trá, không thành thật.
([33]) nghĩa nhân: Sự ăn ở theo lẽ phải và lòng thương người.
([34]) giả tướng: Hình thức (hình tướng) giả dối.
([35]) vọng cầu: Mong cầu một cách sái quấy.
([36]) tam bảo: Phật, pháp, tăng.
([37]) ba giềng: Tam cương, gồm ba mối quan hệ giữa (a) chánh phủ và người dân (dân trung thành với Tổ Quốc, chánh phủ chăm lo cho dân); (b) cha mẹ và con cái (cha mẹ thương yêu con, con hiếu thảo với cha mẹ); (c) vợ chồng (chung thủy, thương yêu).
([38]) năm luân: Năm mối quan hệ giữa (a) nhà nước và người dân, (b) cha mẹ và con cái, (c) vợ chồng, (d) anh chị em, (e) bạn bè.
([39]) tinh tiến: Siêng năng, chuyên cần tu tập.
([40]) đơn sai: Giả trá, không thành thật.
([41]) đắc vị: Đắc quả vị, được phong là Thần, Thánh, Tiên, v.v...
([42]) vong kỷ: Quên đi lợi ích bản thân.
([43]) vị tha: Vì người khác.
([44]) thâm thúy: Sâu dày, tinh thâm.
([45]) tri thiểu: Hiểu ít, biết ít.
([46]) lục, thập: Ăn chay sáu này hay mười ngày mỗi tháng.
([47]) tường: Hiểu rõ ràng.
([48]) hưởng dương: Hưởng phước lúc đang sống trên dương thế.
([49]) tu huệ: Tịnh luyện, công phu, tham thiền.
([50]) nấu thuốc luyện đơn: Thực hành tịnh luyện (công phu).
([51]) kiếp hữu vi: Kiếp sống hữu hình hữu hoại, nay còn mai mất.
([52]) nghiệt oan: Những nợ nần, thù oán từ kiếp trước, sang kiếp này chúng đòi người mắc nợ phải trả. 

DIỆU NGUYÊN kết tập

HUỆ KHẢI chú thích



Nếu quý bạn thích có tập sách nhỏ này, kính mời quý bạn gởi thư về daidaovanuyen@gmail.com. Và xin quý bạn hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu. Cảm ơn quý bạn quan tâm. (Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo)