THÁNH
ĐƯỜNG NỘI TÂM
Thời gian gần đây, rất nhiều thánh thất, thánh
tịnh đạo Cao Đài được trùng tu, xây dựng lại. Mỗi lần nhìn thấy một ngôi thánh
thất hay thánh tịnh được tạo tác khang trang đẹp đẽ, ắt hẳn lòng người tín hữu
Cao Đài không khỏi rộn lên một niềm vui. Tuy nhiên, hoàn thành công trình xây
dựng ngôi Tam Đài bằng gạch cát, xi măng chỉ mới là bước đầu tiên của công cuộc
hoằng giáo độ nhân. Bước tiếp theo quan trọng hơn và nhiều khó khăn hơn, chính
là làm sao phát huy được vai trò của thánh sở là chiếc thuyền từ độ dẫn nhơn
sanh quay về bến giác ngày càng đông hơn.
Đức Hiệp Thiên
Đại Đế Quan Thánh Đế Quân dạy:
Chí Tôn dạy lập chùa thất là một hữu hình trụ tướng
để thể hiện quyền pháp của Trời. Đó là một phần nhỏ. Còn phần trọng đại là làm
nơi quy tụ nhơn sanh để hướng dẫn mọi sinh hoạt đạo lý, phổ truyền giáo lý,
thức tỉnh người đời. Nơi chùa thất là để chung cho nhơn sanh đến đó nghe đạo,
học đạo, để hành đạo. (…)
Trong nếp sinh hoạt tại chùa thất gồm có hai phần: Một
phần tu tịnh, để tịnh dưỡng tu đơn, dùng điển lành hộ trợ cho sự bằng an, sung
túc của nơi đó. Một phần nữa là ngoại giáo công truyền, gồm có giảng đạo, phước
thiện xã hội và hành chánh đạo, để cho hệ thống của guồng máy hành chánh được
lưu thông điều hòa. Nếu không vì những nhu cầu ấy, Chí Tôn đã không dạy lập
chùa thất.
Chỉ ngại e là có chùa thất rồi mà không người hành
đạo, rất đỗi thiếu người chăm sóc đốt hương, đánh chuông, thay tam bửu vậy
thôi.([1])
Trước
thực trạng một số thánh sở được xây dựng lên mà không có các chương trình hành
đạo cụ thể để phổ độ nhơn sanh, Đức Mẹ dạy:
Thánh
thất, thánh đường mọc lên như nấm, rải rác đó đây trong đất nước các con. Các
con đã thấy gì bên trong thánh thất, thánh đường đó? Ngoài chỗ thờ phượng tôn
nghiêm, còn thừa bao nhiêu chỗ trống để bụi bám nhện giăng, rêu phong cỏ mọc. Mỗi
tháng có hai lần sóc và vọng, bổn đạo chung quanh tề tựu đến đảnh lễ Thiêng
Liêng, cúng hành hương, độ một bữa cơm chay rồi ôm khăn gói ra về.
Đi
đến thánh thất đôi lần bảy lượt không thấy có gì mới lạ, lần hồi chểnh mảng
không đến nữa, dẫu đến cũng chỉ có thế mà thôi. Có những con thấy không khí
buồn tẻ, chẳng biết nói gì, tự nảy sanh bàn phiếm theo báo chí, nào quốc sự,
chánh trị miệng của thiên hạ, binh người này, bỏ người kia, v.v... không có
sinh hoạt đạo đức, mà đáng lẽ nơi đây phải được thuyết giảng đạo lý thường
xuyên tối thiểu hai lần mỗi tháng để bổn đạo biết thế nào gọi là tu, cúng chùa,
tụng kinh, ăn chay, niệm Phật để làm gì và làm thế nào để đắc đạo.
Đó là
những điều cần thiết phải được sinh hoạt đều đều trong mỗi thánh thất, thánh
đường. Nhơn sanh, đạo hữu có hợp tác hành đạo được là nhờ có người chỉ dạy cho
biết đạo là gì. Khi đã có tổ chức hành đạo thì mọi việc làm ràng buộc những
người trong nội bộ thánh thất đó. Có sự ràng buộc hỗ tương lẫn nhau thì không
khí sôi động nhộn nhịp về hành thiện đạo đức mới có cơ nổi bật lên để lôi kéo
sự hiếu kỳ và hấp dẫn người đời vào Đạo. Như vậy mới gọi là hành đạo độ đời.([2])
Vậy, nếu một ngôi thánh đường khang trang
đẹp đẽ được xây dựng nên, nhưng lại thiếu các bậc chơn tu có đức độ và trí tuệ
để cảm hóa và dìu dắt nhơn sanh thì ngôi thánh đường hữu hình cũng chẳng khác
nào một cái xác không hồn, không phát huy được vai trò của một chiếc thuyền từ
cứu độ quần sanh quay về bến giác.
Do đó, trong thời gian mấy mươi năm qua,
mỗi khi một thánh thất, thánh tịnh được xây dựng hay trùng tu, các Đấng thiêng liêng
luôn để lời nhắc nhở các hàng hướng đạo cũng như tín đồ sở tại.
Năm xưa, nhân dịp khánh thành Thiên Phong
Đường của thánh tịnh Ngọc Minh Đài, Đức Hiển Thế Đạo Nhơn nhắc nhở:
Nay thánh
tịnh đã khang trang về hình thức thì nội tâm các em cũng phải dọn dẹp cho khang
trang, cho đẹp đẽ để hữu hình, vô vi được song song tiến bộ mới đạt thành công
quả ở mai sau.([3])
Cũng trong dịp này, Đức Giáo Tông Vô Vi
Đại Đạo dạy:
Hãy
ráng tu tiến cho nội tâm được trang hoàng,([4]) đó mới là giá trị tương xứng với ngôi thánh
đường này.([5])
Giờ
đây, thánh đường ngoại giới đã an bài, toàn Đạo hãy quay về xây dựng thánh đường
nội tâm, bởi nơi ấy Thầy hằng ngự và bốn phương dễ dàng chung về.
Hãy cố gắng xây dựng thánh đường nội tâm được chắc chắn, thêm uy nghi xán lạn.
Thánh đường nội tâm mới là nhà chung chi phái, là kỳ đài cờ Đạo trương cao vậy.([7])
Nhân dịp khánh thành tái thiết Vĩnh
Nguyên Tự, một trong những dấu tích lịch sử đầu tiên của đạo Cao Đài, Đức Giáo
Tông Vô Vi Đại Đạo khuyến nhủ:
Nay
thánh đường lịch sử đối với Đạo, đối với thế nhân đã uy nghi rực rỡ, thì chư
hiền đệ, hiền muội cũng cần điểm tô ngôi thánh đường nội tâm
được sáng suốt, cao đẹp, và uy nghi thêm, mới thiệt là trọn vẹn vậy.([8])
Vì sao các Đấng thiêng liêng luôn nhắc
nhở chúng ta phải chú ý xây dựng thánh đường nội tâm song song với việc xây
dựng ngôi thánh đường hữu tướng bằng gạch cát, xi măng? Bởi lẽ có xây dựng
thành công thánh đường nội tâm (tức là thánh đường vô tướng) thì chúng ta mới
làm tròn được sứ mạng tự độ và độ tha. Thậm chí, cho dù thánh đường ngoại thể
có đơn sơ, nhà tranh vách đất nhưng nếu bên trong có các bậc chơn tu đầy đủ tâm
hạnh đức tài làm gương sáng cho nhơn sanh hướng tâm tu học thì nơi ấy vẫn phát
huy được vai trò chiếc thuyền từ cứu độ nhơn sanh quay về bến giác. Ngược lại,
chùa cao thất lớn mà thiếu người đạo cao đức trọng thì đành vắng vẻ hiu quạnh,
đạo sự gặp nhiều khó khăn, phiền não, và bế tắc.
Trên thực tế, chúng ta thấy có những ngôi
thánh đường lúc còn lụp xụp, hàn vi thì bổn đạo tề tựu về cúng kính, tu học,
hành đạo rất đông. Đến khi trùng tu, xây cất lại ngôi thánh đường đồ sộ, khang
trang, đẹp đẽ thì bổn đạo lại thưa thớt dần, ngôi thánh đường trở nên hiu
quạnh.
Nguyên nhân là khi xây dựng thánh đường
hữu thể, ban cai quản và bổn đạo chỉ lo hướng ngoại với biết bao công việc bận
rộn, từ việc kêu gọi tín hữu đóng góp tài lực, vật lực đến việc thiết kế bản
vẽ, giám sát công trình, mướn thầy thuê thợ, lựa chọn vật tư, rồi lại đến vấn
đề thiếu hụt kinh phí, nợ nần phát sinh, v.v... Biết bao nhiêu nỗi lo toan
khiến cho người tu quên mất hoặc không còn thời gian để chăm sóc ngôi thánh
đường nội tâm của mình. Từ đó nảy sanh những bất đồng ý kiến, mâu thuẫn, bất
hòa giữa đồng đạo, lại có thêm sự phân biệt đối xử trong bổn đạo người này đóng
góp nhiều, người kia đóng góp ít. Người đóng góp nhiều đòi hỏi phải có được vị
trí xứng đáng trong ban cai quản, người đóng góp ít thì bị xem thường, v.v...
Thế là sinh ra phiền não, mất đoàn kết rồi hờn giận bỏ thánh sở không đến tu
học, hành đạo nữa.
Chuyện kể rằng tại một thánh sở nọ đã xảy
ra nhiều khảo đảo bất hòa khiến cho bổn đạo lần hồi bỏ đi hết, chỉ còn lại năm
vị trong ban cai quản. Ngôi thánh đường trở nên quạnh quẽ, buồn tẻ. Sau nhiều
ngày suy nghĩ, vị cai quản thánh sở quyết định đến gặp sư huynh của mình vốn là
vị cai quản tiền nhiệm nay tuổi đã cao nên lui về ở ẩn, tập trung tu luyện. Ông
trình bày những sự việc đã xảy ra và tình trạng vắng vẻ của thánh sở lúc bấy
giờ. Vị sư huynh trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi nói với sư đệ: “Vị cứu tinh của
thánh sở sẽ là một trong năm vị thuộc ban cai quản hiện nay.”
Sư đệ cảm tạ sư huynh rồi quay về thuật
lại cho bốn vị kia. Mỗi người đều thắc mắc tự hỏi: “Trong năm người, ai sẽ là
vị cứu tinh của thánh sở?” Và rồi, kể từ ngày hôm ấy, không ai bảo ai, mỗi
người đều quay hướng vào trong tự quán xét tâm mình, trau sửa từ ý nghĩ, lời
nói, việc làm đến cách cư xử với người khác cho được thuần chơn đạo đức và đủ
đầy tình thương sao cho xứng đáng là một vị cứu tinh của thánh sở. Lúc đầu họ
còn phải ý thức tự khép mình trong khuôn khổ nhưng dần dần, mọi ý nghĩ, lời
nói, việc làm và cách cư xử tốt đẹp trở thành tự nhiên như hơi thở, không còn
phải gượng ép hay cố gắng nữa.
Thời gian vẫn lặng lẽ trôi. Một ít người
tình cờ ghé qua thánh sở. Bầu không khí đặc biệt bao trùm lấy thánh sở khiến họ
ngỡ ngàng. Dường như họ cảm nghiệm được nơi chốn vắng vẻ này có một điều khác
thường gì đó khiến lòng họ thanh thoát, an lạc – một tâm trạng mà họ chưa từng
được hưởng. Thế rồi chẳng hẹn mà họ đều quay trở lại, đem theo bằng hữu, thân
thích…
Thánh sở dần dần có đông đạo hữu, đạo
tâm. Nơi ấy tưởng chừng chưa hề trải qua một thời kỳ quạnh quẽ, đìu hiu.([9])
Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo dạy:
Khi
dấn thân cầm giềng mối Đạo
Tức
là đang gỡ tháo tiền khiên
Tức
là tạo bát nhã thuyền
Rước
đưa khách tục vượt miền vô minh.
Thì
trước phải dọn mình chơn chánh
Quyết
một lòng tâm hạnh nêu gương
Ngôn
từ hòa ái dễ thương
Đại
nhân, đại lượng, dẫn đường tha nhân.
Đạo
nên hư, trách thân trách kỷ
Chớ
không nên trách bỉ trách tha
Vì người ắt phải quên ta
Thì muôn đạo sự chi là khó đâu.
Thảo mộc tốt rầy sâu quy tụ
Ruộng lúa lành quyến dụ chim trời
Đất lành hoa quả tốt tươi
Ngoài ra, còn một điểm cần ghi nhớ: Thánh
đường hữu thể cho dù có được xây dựng to lớn, đẹp đẽ, khang trang, nhưng nếu
thiếu vắng tình yêu thương hòa hiệp giữa đồng đạo thì Đức Chí Tôn cũng không
bao giờ giáng ngự như lời Thầy dạy:
- Thầy
không khi nào đến và chứng với sự chia rẽ do phàm tâm dấy động. Hôm nay,
Thầy đến đây chứng ở lòng thành kỉnh vì hai chữ hiệp hòa của các con, từ chức
sắc hướng đạo lưỡng đài, và Thầy ban ơn lành cho toàn thể các con…([11])
Tâm thanh tịnh, trong sạch, thanh khiết,
đạo đức, sáng suốt, hòa hiệp, yêu thương mới là nơi Thầy hằng ngự. Thầy dạy từ
buổi đầu khai Đạo (Thứ Bảy 13-02-1926):
Bạch
Ngọc từ xưa đã ngự rồi
Chẳng
cần hạ giới vọng cao ngôi
Tâm ấy tòa sen của Lão ngồi.
Đó chính
là thánh đường nội tâm, còn được thánh giáo gọi là tòa Cao Đài nội tại.
I. ĐẶC ĐIỂM THÁNH ĐƯỜNG NỘI TÂM
1. Ngôi thánh
đường hữu tướng bằng gạch cát, xi măng sẽ bị hủy hoại dần dần theo năm tháng,
còn ngôi thánh đường nội tâm hay tòa Cao Đài nội tại một khi đã được hành giả
xây dựng uy nghi, trang trọng thì, theo lời Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn, sẽ vĩnh cửu trường tồn, vượt qua
mọi dông bão nắng mưa, không bao giờ hư hoại, tuy
sờ mó chưa đụng nhưng có che có chở, trông nhìn không thấy mà linh hoạt cận kề thiên
niên bất diệt…([14])
2. Ngôi thánh đường hữu thể tọa lạc tại
một địa điểm cố định, còn người tu xây dựng được thánh đường nội tâm vô hình (hay
tòa Cao Đài nội tại) thì đi đến đâu nơi ấy đều trở thành thánh đường, mang lại
tình thương và lợi lạc cho chúng sanh. Thánh
đường nội tâm được xây dựng bằng tình yêu thương hòa ái càng lớn rộng thì cưu
mang được càng nhiều nhơn sanh.
Đức Như
Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn dạy:
Đấng Chí Tôn luôn luôn ngự trong tâm thanh
tịnh của chư đệ muội. Phật Tiên Thánh luôn luôn hộ trì. (…)
Chư đệ muội hãy giữ Cao Đài nội tại cho thật
vững vàng thì không sợ gì bị sa đọa, trầm luân.
(…)
Xây đắp được Cao Đài nội tại và đạo pháp đã
có thì đâu đâu cũng là chùa, là thất của chư đệ muội. Mỗi người đều là huynh tỷ
đệ muội đồng đạo, đồng bào, hà tất phải lo chi đến điều tồn vong đắc thất của
hình tướng nữa.([15])
Do đó, trong lịch sử Cơ Quan Phổ Thông
Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam,([16]) đã
có lúc do thế sự khiến xui, danh xưng của Cơ Quan bị đặt vào cơn thử thách còn
hay mất. Bấy giờ vị Tổng Lý Minh Đạo Vô Vi của Cơ Quan là Đức Quảng Đức Chơn
Tiên dạy:
- Về
danh xưng Cơ Quan, việc này đã được dạy rồi. Hãy xây đắp tòa Cao Đài nội tại. Có
màng chi vật thể vô tri, phá hình danh cho lòng vô niệm. Sứ mạng phổ thông giáo
lý là sứ mạng chung mà Cơ Quan là tim là óc, là can trường tâm đạo, nào phải
vật thể vô tri, hình danh sắc tướng mà sợ bị mất. Chỉ sợ bộ máy thật bị hỏng
thì trễ tràng đạo sự đấy thôi.([17])
- Dù
rằng bảng hiệu danh xưng có thay đổi, nhưng mục đích, ý chí không thay đổi là
điều quan trọng đối với chư Thiên ân và toàn thể các cấp chức vụ, nhân viên
đang phục vụ tại Cơ Quan.([18])
Giáng đàn tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Đức
Đông Phương Chưởng Quản dạy:
(C)hư
hiền đệ muội nên nhớ rằng trụ tướng Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo không
nhứt thiết ở hình thức nhà ngang dãy dọc này, mà trụ tướng Cơ Quan Phổ Thông
Giáo Lý Đại Đạo phải ở toàn thành phố, toàn quốc dân xã hội của chư hiền đệ
muội. Có như thế mới đủ duyên hạnh nhìn theo một Cơ Quan Phổ
Thông Giáo Lý Đại Đạo cho toàn nhân loại.
Điều cần nhứt là trụ tướng Cơ Quan Phổ Thông
Giáo Lý Đại Đạo phải được xây đắp trong tâm hồn mỗi người con tin của Thượng
Đế.([19]) Như thế
thì sự bại thành của trụ tướng hình thức này không là điều đáng đau buồn đó chư
hiền đệ muội. Mà điểm đáng lo ngại nhứt là những vị có sứ mạng lại vùi chôn
chơn tâm nằm trong sứ mạng đó thôi.([20])
3. Thánh đường hữu thể có hình tướng khác
nhau tùy theo mỗi chi phái; còn thánh đường nội tâm thì không có hình tướng,
thuần chơn vô ngã, không phân biệt sắc phái. Thế nên Đức Trần Hưng Đạo Đại
Vương dạy: Thánh đường nội tâm mới là nhà
chung chi phái, là kỳ đài cờ Đạo trương cao vậy.([21])
Đây cũng chính là đường lối quy tâm,
thống nhất chi phái bằng tư tưởng và tinh thần mà Đức Chí Tôn dạy Cơ Quan Phổ
Thông Giáo Lý Đại Đạo trên đường thực thi sứ mạng phổ thông giáo lý để góp phần
thống nhất cơ đạo.
II. PHƯƠNG
PHÁP XÂY DỰNG THÁNH ĐƯỜNG NỘI TÂM
Thánh đường nội tâm xây dựng bằng chính
pháp môn Tam Công: công trình, công quả, công phu.
Tu không có nghĩa là chỉ đến thánh đường
lễ bái tụng kinh, vái van Trời Phật mà chính là phải sửa trau tâm tánh từ phàm
ra thánh, tức là xây dựng thánh đường nội tâm. Đức Ngôi Hai Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu dạy:
(N)gười tu thân hành đạo luôn luôn phải nhớ
điều này: Tu là cách mạng bản thân, bản tâm và bản tánh. Nếu vào Đạo rồi mà
không sửa đổi được tánh ác ra thiện, tánh ngu thành hiền, phàm tâm ra thánh
tâm, những ngôn ngữ thất đức thất nhân tâm ra lời khuyên thánh thiện, thì không
thể nào gọi rằng tu, rằng cách mạng bản thân được. Vậy câu nghịch hành phản bổn
là làm sao hằng ngày con người của mình phải trở nên mới, càng mới thêm mãi
mãi.([22])
Đức Hộ
Pháp Phạm Công Tắc dạy:
Đạo có sáng chói ở mọi người thì xã hội đời
mới an lạc. Đứng dưới mái thánh đường uy nghiêm, đọc thuộc làu từ ([23]) câu
văn đạo luật, thánh ngôn cũng chưa chắc đã hiểu trọn vẹn Cao Đài chủ nghĩa. Câu
văn chỉ là hình thức phương tiện vẽ nên chơn lý đạo pháp chớ không là đạo pháp.
Thánh đường ngoại thể đã huy hoàng thì thánh đường nội tâm phải sáng chói. Có
như vậy mới mong con cái của Đức Chí Tôn tránh khỏi cảnh đói lòng với những tấm
thực đơn.([24])
1. Công trình
Nếu hằng
ngày ngôi thánh đường hữu tướng cần được quét dọn, lau chùi sạch sẽ và trang
hoàng đẹp đẽ thì người tín hữu cũng phải thường xuyên xem xét kỹ lưỡng mọi ngóc
ngách của tâm hồn mình từng giây từng phút để quét sạch phiền não và các thói
hư tật xấu do tam độc (tham, sân, si) và thập tam ma (thất tình lục dục) sai
khiến.
Thánh
đường là nơi Thầy ngự. Thế nhưng, nếu ngôi nhà nội tâm của chúng ta để cho thập
tam ma và tam độc chiếm hết chỗ thì làm gì còn chỗ cho Thầy và chư Phật Tiên
Thánh Thần giáng ngự.
Thế nên
lúc còn tại thế, Đức Phật Thích Ca dạy cho đệ tử pháp môn tảo tuệ có nghĩa là
chổi quét.
Ngày
xưa, thuở Đức Phật còn tại thế, trong hàng đệ tử xuất gia của Phật có ông Châu
Lợi Bàn Đặc (Suddhipanthaka) ám độn, học trước quên sau. Được dự vào hàng xuất
gia đã lâu, những bạn đồng môn hầu hết đều ngộ đạo chứng quả, riêng ông không
nhớ được một câu kinh, bài kệ nào. Anh ông quở trách: “Tu mà không hiểu giáo
lý, không thấy đạo, tốt hơn nên trở về nhà phụng sự gia đình còn hơn. Ở mãi
trong tịnh xá mà dốt quá chỉ vô ích.”
Tủi
thân, ông đứng dựa tịnh xá khóc. Lúc ấy Đức Phật trong tịnh xá đi ra thấy vậy,
dừng bước hỏi: “Tại sao con khóc?”
Ông buồn
bã đáp: “Bạch Đức Thế Tôn! Anh con thấy con u mê, tăm tối, không kham nổi sự tu
học nên đuổi con về nhà.”
Đức Phật
cầm tay ông dẫn vào tịnh xá ôn tồn dạy: “Nếu con có thiện chí tu hành, ta sẽ
dạy cho phương pháp tu, chỉ cần nhớ hai chữ thôi. Này con! Hãy lắng nghe và nhớ
kỹ hai chữ tảo tuệ!”
Ông mừng
quá, đảnh lễ Phật nhận lời dạy bảo. Nhưng tội nghiệp! Ông học được chữ tảo thì
quên chữ tuệ, hoặc ngược lại. Cứ thế từ sớm đến chiều như trò chơi cút bắt, nhớ
chữ này lại quên chữ kia. Nhưng, một lòng lại không chán nản, ông bỏ ăn quên
ngủ, cố sức dụng tâm ghi nhớ, mãi đến ba bốn hôm mới thuộc được trọn vẹn hai
chữ.
Khi
thuộc được hai chữ tảo tuệ rồi, ông lại ngẩn ngơ không hiểu tại sao Đức Phật
dạy hai chữ ấy, có tác dụng và nghĩa lý gì? Ông lật đật đi tìm Phật và hỏi:
“Bạch Đức Thế Tôn! Hôm nay con đã thuộc lòng hai chữ tảo tuệ. Nhưng, bạch Thầy!
Xin Thẩy hoan hỷ dạy con nghĩa lý hai chữ ấy.”
Đức Phật
cười hiền hòa đáp: “Tốt lắm! Này con, tuệ là chổi, tảo là quét. Con hãy dùng
chổi trí tuệ quét sạch phiền não nơi tự tâm đi.”
Bắt đầu
từ hôm ấy, ông Châu Lợi Bàn Đặc chăm chăm làm theo lời Phật dạy. Chín chắn quán
xét tự tâm, gạn lọc những phiền não cấu uế, tẩy trừ những ý niệm xấu xa, gìn
giữ tâm hồn thanh tịnh. Như thế sau sáu bảy hôm, ông chợt thấy lòng rỗng rang
thanh thoát, mọi sự vật đều hiện bày sáng tỏ. Mừng quá, ông lại đi tìm Phật và
nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Giờ con đã biết dùng trí tuệ quét sạch phiền não.”
Đức Phật
mỉm cười khen: “Đúng thế! Con đã trừ nhơ. Con đã giác ngộ.”
Ông Châu
Lợi Bàn Đặc tuy ám độn, nhưng nhờ Đức Phật chỉ bày pháp tu và nhờ ông bền chí
nên cuối cùng ông đắc đạo.([25])
Nhân câu chuyện trên, chúng ta nhớ đến
bài kệ xưa:
Cần
tảo già lam địa
Thời thời phước huệ sanh
Nhược vô trần khách chí
Diệc hữu thánh nhân hành.
Huệ Khải
dịch:
Siêng quét đất chùa thất
Thường sanh phước huệ đa
Khách đời nếu chẳng đến
Cũng có thánh nhân qua.
Tại sao
siêng quét đất chùa thất mà lại thường xuyên sinh nhiều phước huệ? Ấy là do mỗi
khi chăm chú quét dọn thánh sở, lau chùi mặt kính, cọ rửa nhà vệ sinh, v.v...
người tu đồng thời cầu nguyện quét sạch những phiền não, ô uế trong tâm mình.
Có quét sạch những thứ phiền trược, thói hư tật xấu nhơ bẩn trong tâm thì điểm
Đạo tự hữu mới trở nên sáng chói, trí huệ mới phát sinh, ngôi thánh đường nội
tâm (hay tòa Cao Đài nội tại) mới trở nên uy nghi, xán lạn.
Đức Như
Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn dạy:
Muốn xây cất ngôi nhà bền bỉ tốt đẹp, chủ
nhơn phải chọn người kiến trúc rành nghề, vật liệu tinh hảo, và tất cả cái hư,
cái cũ, cái tệ đều bỏ đi, không dùng tô đắp vào ngôi nhà mới để được hoàn toàn
mới.
Chư đệ muội muốn xây đắp tòa Cao Đài huyền
nhiệm vĩnh cửu thì phải triệt thoái những ý thức sai biệt, yêu ghét, thân thù,
phiền não, kinh cụ, để Thần được linh hoạt mà đem Khí thể tiên thiên, tinh hoa
lưỡng cực xây đắp nên ngôi Cao Đài nội tại của chư đệ muội.([26])
Sau khi đã quét sạch những ý thức sai
biệt, yêu ghét, thân thù, phiền não, kinh cụ, vọng niệm sai quấy nơi tâm thì
cần phải giữ gìn tâm cho cẩn mật để tất cả những thứ ô uế, nhơ bẩn ấy không còn
cơ hội quay trở lại nội tâm. Đức Vạn
Hạnh Thiền Sư đã chỉ cho người tu một phương pháp hữu hiệu.
Trong
một lần giáng đàn tại Minh Lý Thánh Hội, Đức Vạn Hạnh Thiền Sư hỏi các vị hầu
đàn về ý nghĩa hai câu Lục tự Di Đà vô
biệt niệm / Bất lao đàn chỉ đáo Tây Phương. (Nghĩa là niệm sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật với tâm chuyên chú
bất loạn thì không nhọc sức búng ngón tay vẫn có thể đến được Tây Phương cực
lạc.) Sau đó Ngài giảng giải:
Nguyên về câu ấy là dặn dò nhắc nhở giới tu
thân hành đạo phải nhớ rằng Đạo bất
ly tâm, nghĩa là Nhật nhật thường
hành, thời thời thường niệm. Niệm nơi đây
không chỉ có nghĩa rằng niệm ra tiếng cho người bên cạnh nghe được. Niệm nơi
đây có nghĩa là bám víu tâm tư mình chặt chẽ vào tâm vô vi (Đạo), nghĩa là
không một giây phút nào tâm tư rời đạo lý. Sự bám chặt đều đều ấy như tiếng tim
nhịp liên tục đều đều nơi lồng ngực, như tiếng tíc tắc đều đều ở bộ máy đồng
hồ. Như vậy có nghĩa là niệm mà không niệm, và tuy không niệm nhưng không lúc
nào không niệm. Ví như câu Thị chi bất kiến, thính chi bất văn, nhưng không phải là không thấy và cũng
không phải là không nghe.
Khi nội tâm đã tập được đều đều liên tục như
vậy rồi lâu ngày chầy tháng sẽ trở thành thói quen, ấy là tự động. Có tự động
mới gọi là vô biệt đó vậy.
(…)
Thế nên câu Lục tự Di Đà vô biệt niệm nơi đây nhắc nhở căn dặn các bậc hành giả rằng Đạo bất ly tâm. Hãy nắm chặt lấy Đạo (nhớ rằng Đạo chớ
không phải tôn giáo hình thức), xem Đạo cần thiết như cơm ăn, như áo mặc, như
nước uống, như hơi thở. Nếu thiếu các điều kiện ấy, thể xác sẽ hoại. Thể xác
hoại chưa quan hệ bằng tâm linh khi đói lạnh và băng hoại, đó mới là tối cần. (…)
Từ đây về sau, chư đạo hữu thử áp dụng câu Lục tự Di Đà vô biệt niệm để làm món thần đơn diệu dược bổ sung tâm thần. Vô biệt niệm nơi đây
có tác dụng như vầy: Trong tâm nội mỗi người như tờ giấy trắng hoặc như một vị
trí an toàn cao quý. Nếu trên mặt tờ giấy trắng đó đã viết sẵn những bài văn tự
thì tha nhân không còn chỗ nào trống để đặt viết vào mà viết. Như trong tâm nội
có một chỗ an toàn cao quý, mình đã thỉnh một vị tôn kính đến ngự rồi thì dù
một tha nhân muốn vào đó ngồi cũng không có chỗ.
Hai thí dụ đó, Bần Tăng muốn nói rằng nơi tâm
nội phải luôn luôn cho Thượng Đế hoặc Thần Tiên hoặc đạo đức ngự trị, đừng để
trống mà tà ma chen vào.([27])
Sanh
cõi tục ưu phiền lắm nỗi
Ở
trần gian tội lỗi bao vây
Thế
nên một mảnh tâm này
Phải nên thận trọng ngày ngày chùi lau.
Ngọc có được dồi trau mới quý
Tâm luyện rèn mới thấy huệ khai
Năm năm tháng tháng ngày ngày
Giờ giờ phút phút tâm này đừng lơi.
Tâm tưởng Phật, Phật Trời hằng ngự
Tâm tưởng ma, ma cứ vãng lai
Thế nên tâm phải dồi mài
Việc xây dựng thánh đường nội tâm (hay tòa
Cao Đài nội tại) không phải một sớm một chiều có thể hoàn tất. Đây là cả một quá trình tu tập dài lâu suốt
cả cuộc đời. Kinh Tu Chơn Thiệp Quyết
có câu: Càng tu càng thấy cao thâm / Càng
tu càng thấy sự lầm lạc xưa. Người có ý chí quyết tâm quay về bến giác cứ
kiên nhẫn, trì thủ, tu tập cho mỗi ngày một thêm tiến bộ tinh tấn thì lo gì
không xây dựng được ngôi thánh đường nội tâm ngày một sáng suốt, uy nghi, xán
lạn.
2. Công quả
Công quả
có hai tác dụng tốt đối với nội tâm:
- Công
quả là phương cách giúp người tu giải trừ được nghiệp chướng tiền khiên khiến
cho tâm chúng ta phiền não, buồn rầu, lo lắng không yên.
- Công
quả giúp ích cho chúng sinh mang lại cho nội tâm niềm hỷ lạc, thơ thới.
Đức Chí
Tôn dạy:
Con ôi! Với lý Đạo, Thầy chẳng những dạy các
con tránh điều dữ, mà cần phải luôn luôn làm những việc lành. Các con cũng biết
câu hiền triết hằng nói Nhàn cư
bất thiện thật chí lý lắm con.
Ở đời có biết bao nhiêu người không làm những
điều dữ, nhưng lại chẳng làm một sự lành, thì nào có phước đâu. Lâu ngày lại
nảy sanh những điều chẳng hay.
Hôm nay, Thầy dạy lại chữ tâm cụ thể cho các
con thấy rành. Chữ tâm nó là vô hình, nên những bực giáo chủ mới ví cái tâm như
miếng ruộng của con. Thật vậy đó con.
Trước kia miếng ruộng của con vẫn trống sạch,
nếu con không cấy lúa lên, tức nhiên nó phải sanh cỏ. Khi sanh cỏ rồi, con nhổ
cho tận gốc sạch trơn, rồi không cấy những giống lúa tốt lên, lâu ngày cũng
biến sanh cỏ nữa. Bởi vậy, tâm con kêu là tâm điền. Chẳng những các con tránh
điều dữ mà cần phải lo làm những điều lành.
Như trong Ngũ Giới Cấm, điều thứ nhứt cấm sát
sanh, thì con giữ được trọn rồi là con không sát sanh nữa, nhưng cũng phải làm
sao cho tâm con đầy đủ sự háo sanh, dưỡng sanh, bảo sanh. Có như thế, lâu ngày
mới không biến đổi những sự chẳng hay.
Thầy dạy cạn lý, các con tìm hiểu để trau lại
chữ tâm.
Tâm điền con trẻ ráng gieo trồng
Trồng những trái lành được trổ bông
Bông trái trúng mùa con hạnh hưởng
3. Công phu
Công phu
là phương pháp thù thắng ([30]) (vượt trội hơn
hết) để giúp cho tâm được an định thanh tịnh hầu phát sinh trí huệ. Trí huệ
phát sinh thì mới dễ dàng diệt được tâm phàm si mê muội ám, thánh tâm mới hiển
lộ.
Đức Chí
Tôn dạy:
Nhập định là cốt để cho tâm thần an ổn, nghỉ
ngơi, hầu có sửa mình mà trừ khử các bịnh do trong cốt tủy và diệt xong cả mấy
mối loạn của thất tình, lục dục khiến xui, khuấy rối đêm ngày. Rồi gom các tư
tưởng vào nơi khối óc, đừng cho nó tưởng nhớ bá vơ những điều không tốt, lại
ráng gắng công tập luyện nó sao cho lần lần trở nên thuần túy tinh anh. Mà phải
nuôi cái tư tưởng ấy cho cao thượng, trọn lành mãi mãi, đừng để ngoại vật lẫn
vào báo hại tâm hồn xao động.([31])
*
Tóm lại, song song với việc xây dựng ngôi
thánh đường hữu tướng, tập thể môn đệ Cao Đài chúng ta, từ hàng hướng đạo chức
sắc đến tín hữu bình thường, cũng cần phải xây dựng cho được ngôi thánh đường
nội tâm tức là thánh đường vô tướng hay tòa Cao Đài nội tại thì mới có thể tự
cứu mình cũng như cứu độ tha nhân thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử.
Đức Đại
Tiên Lê Văn Duyệt dạy:
Đẹp thức hình phải khép đạo tâm
Tâm là cơ lý diệu thâm
Hiện
nay, trong đạo Cao Đài chúng ta đang gặp phải một khó khăn rất lớn. Đó là nhiều
ngôi thánh thất, thánh tịnh đều xuống cấp, cần được xây dựng lại. Thế nhưng phần
đông bổn đạo rất nghèo, kinh phí không có, ban cai quản các nơi ấy phải lặn lội
đi quyên góp trầy trật mấy năm trời mới có tiền xây dựng, lắm khi vẫn không đủ
trang trải, phải mang nợ.
Xưa nay
trong lịch sử tôn giáo, có nhiều bậc chơn tu đắc pháp dù ở rừng rậm xa xôi hay
đồng hoang truông vắng, nhơn sanh cũng tìm đến học tu. Thế nên, nơi mỗi thánh
sở, nếu mỗi môn đệ Cao Đài cố gắng xây dựng thành công ngôi thánh đường nội tâm
bằng tâm hạnh đức tài thì tự nhiên sẽ có được ngôi thánh đường hữu tướng vì khi
ấy nhơn sanh xứ xứ quy về, chung tay góp sức xây dựng ngôi thánh đường hữu
tướng, không cần phải kêu gọi hay quyên góp.
Xin cầu
nguyện cho mỗi huynh tỷ đệ muội chúng ta đều xây dựng được ngôi thánh đường nội
tâm ngày một thanh tịnh, uy nghi, tráng lệ hơn, vì đây là con đường duy nhất
đưa chúng ta trở về nguồn cội thiêng liêng là Thầy là Mẹ, tức là Đạo.
DIỆU NGUYÊN
Nếu quý bạn thích có tập sách nhỏ này, kính mời quý bạn gởi thư về daidaovanuyen@gmail.com. Cảm ơn quý bạn quan tâm. (Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo)