II. KIẾP NGƯỜI
4. Một
kiếp làm người có mấy mươi
Mấy mươi thì cũng kiếp con người
Sợ tu chẳng kịp vòng siêu đọa
Đức Đô Thống Quản Địa Thần
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam
01-02 Tân Hợi (25-02-1971)
Làm sao khỏi uổng hỡi ai ôi
Loanh quanh cơm áo bao giờ đủ
Luẩn quẩn thê nhi mấy lúc rồi
Lợi danh ràng buộc chạy mòn hơi
Cho vẹn nghĩa nhân,([6])
đạo với đời.
Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo
Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 01-11 Bính Ngọ (12-12-1966)
6. THI
Kiếp người gẫm lại có bao lâu
Mới
thấy tóc xanh kế bạc đầu
Năm
bảy mươi năm hay ít nữa
Có ai
lột vỏ sống hoài đâu?
HỰU THI
Đâu là nẻo giả với đường chân
Luẩn quẩn loanh quanh chốn cõi trần
Xét
ra ai cũng khổ muôn phần.
HỰU THI
Khổ vì sự nghiệp chửa nên công
Con
cái dại khờ gẫm quá đông
Nếu
lỡ nay mai mình chết sớm
Ai lo
bảo dưỡng chúng cho xong?
HỰU THI
Kẻ
ghét thì nhiều, thương lại ít
Lấy
chi bảo đảm kiếp tồn sanh?
HỰU THI
Khổ vì nhen nhúm chửa bao nhiêu
Nhà phố,
ruộng nương chẳng được nhiều
Trong
buổi chiến tranh hoang phế mãi
Nhà
hoang vườn trống cảnh tiêu điều.
HỰU THI
Khổ bởi công danh mải cúi lòn
Non
sông dân tộc còn điêu đứng
Nước
đục thả câu mải mót bòn.([12])
HỰU THI
Khổ vì lo bận việc đâu đâu
Nhìn
lại bản thân đã bạc đầu
Má
hóp, lưng còm, chân yếu đuối
Giảm
ăn, mất ngủ, luống âu sầu.
HỰU THI
Muốn
rứt cho xong để rảnh tay
Ngặt nỗi tuổi đời thêm chất ngất
Già
nua con bịnh cứ đeo hoài.
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư
Minh Lý Thánh Hội, 21-8 Tân Hợi (09-10-1971)
7. Linh
tánh, linh tâm hãy biết rằng
Hồng trần ruộng đất dẫu giăng giăng
Cửa nhà, xe cộ bao nhiêu nữa
Có hưởng cho nhiều cũng
thế thôi
Bao nhiêu để lại người dương thế
Sử dụng đúng, không cũng một đời.
Đức Chơn Thường Đạo Sĩ
Minh Lý Thánh Hội, 19-9 Tân Hợi (06-11-1971)
Mỗi con mang lấy
mảnh hồn linh
Vào đời tu học bồi
âm chất ([17])
Hành đạo độ đời
giúp chúng sinh.
Nhưng lúc vào đời mang nhục thân
Sớm trưa vùi lấp
bụi phong trần
Đỉnh chung ([18])
danh lợi đua tranh mãi
Quên cội quên
nguồn chốn cõi nhân.
Vào đời có đứa được giàu sang
Vật chất thừa dư
chốn bạc vàng
Có đứa nghèo hèn
cơm với áo
Bốn mùa thiếu mặc với
cơm ăn.
Quanh năm suốt tháng bận giàu nghèo
Mãi mãi quay cuồng
cứ chạy theo
Còn có giờ đâu tu
luyện tánh
Gia đình túng hụt,
cháu con đeo.
Rồi kiếp của con có mấy hồi
Sống dai giỏi lắm
chín mươi thôi
Tuy nhiên có đứa
đôi ba chục
Năm bảy tuổi thơ
cũng một đời.
Con biết chăng con cảnh giả này
Giàu nghèo, xấu
tốt, dở cùng hay
Khôn ngoan, dại
dột, cùng ngu dốt
Tắt thở, của tiền
cũng phủi tay?
Con hỡi, đem theo được những gì
Có chăng những
tiếng thị cùng phi ([19])
Hai điều tội phước
do con tạo
Hoặc đến Thiên
Cung hoặc ngục tỳ.
Mẹ hỏi con ơi có giựt mình
Trên đời thử hỏi cái
chi vinh
Điều nào ô nhục
trong trần thế
Ngoan ngoãn lo
tu để giữ mình.
Đức Diêu Trì Kim Mẫu
Thánh tịnh Kim
Thành Long, 18-02 Quý Sửu (22-3-1973)
9. Thương con dạy
dỗ bấy nhiêu lời
Cố gắng thi
hành các trẻ ơi
Tu học giúp đời là
việc chánh
Bền lòng son sắt ([20])
chớ nên lơi.
Đức Diêu Trì Kim Mẫu
Chơn Lý Đàn (Vạn
Quốc Tự), 26-01 Quý Sửu (28-02-1973)
10. Trải
bao kiếp tu hành tại thế
Vì nghiệp trần nên
trễ con đò
Nợ trần cứ mãi
giằng co
Nguyên nhân ([21])
thánh thiện vai trò mờ lu.
Thế mới biết trần tù bốn vách ([22])
Có ngõ vào không vách chun ra
Nếu không huệ kiếm trừ tà
Vô minh buông rủ khó mà vén lên.
Kỳ đại xá xây nền
thánh đức
Nhờ bạn hiền giúp sức dắt dìu
Tuy chưa vào yết Linh Tiêu
Vướng thân phàm vướng mãi không thôi
Biết bao nhiêu kiếp cho rồi
Tam nguơn chuyển thế cuộc đời vần xoay.
Đức Chơn Thường Đạo Sĩ
Minh Lý Thánh Hội, 14-7 Canh Tuất (15-8-1970)
11. Ở
đời ai cũng muốn cho thân
Để lại vợ con bao sự nghiệp
Đời này, đời kế hưởng muôn phần.
Nhưng xét cho cùng
việc thế gian
Dầu cho sự nghiệp có muôn vàn
Thì nhiều ẩm thực cùng y phục
Trong sự tranh đua kiếp
sống còn
Ai ai cũng tính việc thua hơn
Gây điều oan trái vì danh lợi
Nhiều kiếp chất chồng tợ núi non.
Góp gom phục vụ cả
gia đình
Tội lỗi gánh riêng chỉ một mình
Luẩn quẩn mấy mươi trong một kiếp
Chừng hồn lìa xác
mới hay ra
Tội phước hiểu thông muộn quá mà
Dẫu có ăn năn rồi chẳng kịp
Bấy giờ ai gánh thế cho ta?
Ta biết thì ra việc
muộn rồi
Xác phàm đã hoại, nghĩ than ôi
Lấy chi để có làm phương tiện
Công quả, công phu để đắp bồi!
Phải biết đường tu sớm tập tành
Sẵn có xác thân hành đạo đức
Vì thế hôm nay
giáng cõi trần
Đôi lời Tệ Sĩ tỏ bày phân
Cho chư đạo đức ghi tâm nhớ
Mà ráng lo tu
kẻo mất phần.
Phần ai ăn được nấy nên no
Tu tiến tâm
linh vượt khỏi bờ
Chẳng lụy trần
ai một mảy nào
Cực lạc nhàn du
trong vĩnh cửu
Thân an thú vị
biết là bao.
Đức Chơn Thường Đạo Sĩ
Minh Lý Thánh Hội,
22-7 Tân Hợi (11-9-1971)
12. Ai ai cũng ở trong trần
Cũng mang nhục thể
xác thân làm người
Cũng ăn cũng mặc
với đời
Cũng làm cũng
nghĩ, nói cười như ai
Khôn ngoan phải
biết điều này
Rằng mình sanh
trưởng tại đây làm gì
Rồi ngày bỏ xác ra
đi
Thiên Đàng, địa
ngục phương ni thế nào
Những điều tội
phước ra sao
Những điều thưởng
phạt ra vào trầm luân ([34])
Rằng đây là khối
nhục thân
Bao nhiêu năm nữa
cõi trần còn nương
Chừng nào tách
bước lên đường
Cõi âm sẽ đến, cõi
dương giã từ
Rằng bao tài sản
để dư
Ruộng, vườn, xe,
ngựa trữ từ bao lâu
Rằng rồi ta sẽ về
đâu
Có mang tất cả để
hầu đem theo
Rằng thân cõi thế
giàu nghèo
Phải chăng Trời
Phật nể theo người giàu
Để khi bỏ xác trần
lao ([35])
Thiên Đàng đến đón
ngôi cao trị vì
Rằng nghèo đọa
xuống âm ty
Hay rồi cũng được
rước đi Thiên Đàng
Rằng đời phú quý
vinh sang
Cõi kia cũng được
nghinh ngang như thường
Rằng mình chay lạt
rau tương
Công phu, công quả,
biểu dương công trình
Đến khi bỏ kiếp
phù sinh ([36])
Có về được chốn
Thiên Đình hay chăng
Rằng bao quyến
thuộc thân bằng
Con khôn vợ đẹp,
muôn ngàn ngựa xe
Đến khi trở gót
lộn về
Bao nhiêu thứ ấy
dựa kề được chăng
Rằng này rằng nọ
đủ rằng
Lòng tham không
đáy muôn ngàn tâm tư
Thôi thôi khuyên
sớm chối từ
Mọi điều ước vọng
của người phàm tâm
Ráng đi, tu niệm
nhiều năm
Việc nhân việc đức
nên làm mau mau
Khá gây sống động
phong trào
Phong trào đạo đức
làm sao thạnh hành
Dắt dìu độ rỗi
nhơn sanh
Cùng chung hướng
thiện, đừng tranh chấp đời
Đạo truyền được
khắp nơi nơi
Vạn dân bá tánh
người người làm in ([37])
Tạo nên cực lạc
quang vinh
Bồng Lai tiên cảnh
công minh tại trần
Cho chung khắp cả
muôn dân
Hưởng ngày Nghiêu
Thuấn thượng nguơn lập đời
Thì là ngôi vị
trên trời
Trường tồn để sẵn
cho người thiện duyên
Chớ đừng mong đắc Phật Tiên
Mải lo cầu
cạnh, tu hiền lại quên
Thế gian để đắp
móng nền
Để làm công quả
để lên Thiên Đàng.
Đức Ni Sư Diệu Lộc
Chơn Lý Đàn (Vạn
Quốc Tự), 14-11 Canh Tuất (12-12- 1970)
13. Ráng lên, hỡi các con ơi
Trong khi tận thế
cơ Trời chuyển xoay
Kìa con tháng lại
qua ngày
Quẩn quanh trong
chốn sắc tài lợi danh
Sớm chiều lo
lắng đua tranh
Sương rơi mái
tóc có thành chi chi
Dầu cho ấm tử
vinh thê đủ điều
Kìa con lửa hạ
đốt thiêu
Bao nhiêu sự
nghiệp bao nhiêu lệ tràn.
Đức Diêu Trì Kim Mẫu
Thánh tịnh Ngọc
Minh Đài, 15-4 Mậu Thân (11-5-1968)
Hỏi tuổi đời
con tính bao nhiêu
Lo mơi rồi lại
lo chiều
Sống ăn mặc ở
trăm điều khổ tâm.
Đó phương tiện con làm sự sống
Thì thôi đừng
tham vọng con ôi
No cơm ấm áo đủ
rồi
Công phu, công
quả trau giồi hồn linh.
Mẹ thương xót hiện tình nhân thế
Tiền căn hậu
quả khó dừng
Thiệt thòi đau
khổ biết chừng nào yên.
Mẹ gởi gắm ân Thiên cho trẻ
Hãy thương
người, nặng nhẹ ráng lo
Biển trần chống
bát nhã đò
Ngược xuôi rước
khách lần dò quê xưa.
Đức Diêu Trì Kim Mẫu
Vĩnh Nguyên Tự, 15-8 Quý Sửu (11-9-1973)
([39]) nồi kê chưa chín: Theo Chẩm Trung Ký của Thẩm Ký Tế đời Đường (Trung Quốc), năm 719
có anh học trò thi rớt. Dọc đường về quê, gặp một đạo sĩ trong quán trọ,
anh than thở về cảnh nghèo. Đạo sĩ lấy một cái gối (chẩm), bảo anh kê đầu ngủ, mọi việc sẽ như ý. Bấy giờ chủ
quán đang nấu cháo kê. Anh ngủ say, mơ thấy đậu tiến sĩ, cưới vợ xinh
đẹp, làm quan to. Năm con trai đều làm quan lớn, lấy vợ danh giá. Lúc tám mươi
tuổi, anh bệnh rồi chết. Tới đó thì anh tỉnh mộng, thấy đạo sĩ ngồi bên cạnh, nồi
cháo kê vẫn chưa chín. Trong văn học, giấc kê vàng, mộng huỳnh, mộng hoàng
lương đều có nghĩa là ảo mộng giàu sang và quyền lực. (hoàng lương: Hạt kê màu vàng.)
DIỆU NGUYÊN kết tập
HUỆ KHẢI chú thích
Nếu quý bạn thích có tập sách nhỏ này, kính mời quý bạn gởi thư về daidaovanuyen@gmail.com. Và xin quý bạn hoan hỷ trả
giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu. Cảm ơn quý bạn quan tâm. (Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo)