Hiểu
đạo mầu mới thoát kiếp trần dương
Trong
Tam Kỳ Phổ Độ, khi giáng đàn dạy đạo, các Đấng thiêng liêng vẫn hay nhắc các
tích xưa để làm gương răn dè các môn đệ. Chẳng hạn, dạy về mấu chốt của đường
tu giải thoát, hai vị Tiền Khai Đại Đạo Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt
có lần nhắc chuyện Lương Võ Đế như sau:
Lương Võ Đế đem vàng ròng bạc vạn,
Cất bảy mươi hai cảnh chùa
cho
danh rạng tứ phương,
Có
phải chăng mua chuộc lối thiên đường,
Hay
nghiệp quả còn vấn vương,
Ôi, vật chất khó lưu tình quỷ sứ!
Oai hùng không đương cự nổi vô thường,
Chỉ có hiểu đạo mầu mới thoát kiếp trần
dương,
Chỉ có biết nhân nghĩa
mới
an khương bình thế cuộc.([2])
Theo sử Trung Quốc, Lương Võ Đế tên thật là Tiêu
Diễn (464-549), làm thứ sử Ung Châu dưới triều Tề, trấn thủ thành
Tương Dương. Vua nhà Tề là Bảo Quyên ăn chơi vô độ, bỏ bê triều chánh, ngược
đãi đại thần. Tiêu Diễn vốn là tôn thất nhà Tề, hợp binh với em của vua Tề là
Bảo Dung, dấy lên ở Giang Lăng, chống lại Bảo Quyên. Bảo Dung tự lập làm vua,
hiệu là Hòa Đế. Sau Tiêu Diễn đánh lấy Quách Thành, phá Tầm Dương, vây Kiến
Nghiệp, Hòa Đế bị giết. Tiêu Diễn vào kinh đô, buộc vua Tề (Bảo Quyên) nhường
ngôi. Tiêu Diễn làm vua, đổi tên nước là Lương, xưng Lương Võ Đế (năm 502).
Lương
Võ Đế tài kiêm văn võ, làm cho nước Lương một thời hùng mạnh. Rất sùng đạo
Phật, vua quy y năm 517, ba lần bỏ ngai vàng vào chùa tu. Năm 538, nhân sứ thần
đưa xá lợi Phật về Trung Quốc, Lương Võ Đế cho lập chùa thờ, bố thí cho dân
chúng và ân xá tội nhân.
Nhà
vua lấy công quỹ (quốc khố) cho cất chùa khắp trong nước (tương truyền được bảy
mươi hai ngôi), ủng hộ tam bảo, được các phật tử tôn xưng là Phật Tâm Thiên Tử.
Trước
kia, tôn thất nhà Tề bị Lương Võ Đế giết hại, phải sang nước Ngụy cầu cứu. Hai
nước Lương và Ngụy đánh nhau, tướng của Ngụy là Hầu Cảnh qua hàng Lương Võ Đế,
được phong Hà Nam Vương. Về sau Hầu Cảnh thấy Lương Võ Đế mải mê theo đạo Phật,
bỏ bê triều chánh, thế lực suy yếu, nên cất binh làm phản, chiếm Kiến Nghiệp,
Đài Thành, vây Lương Võ Đế trong cung, tuyệt hết lương thực, Lương Võ Đế phải
chết đói (năm 549).
Chuyện
Lương Võ Đế và cái chết thảm thương của ông như kể trên có thể khiến nhiều
người thắc mắc. Vua mộ đạo tu hành, xây cất bảy mươi hai ngôi chùa, lẽ ra được
hưởng nhiều phước báo, cớ sao cuối đời phải chịu nạn chết đói (ngạ tử)?
Lời
dạy của nhị vị Tiền Khai Đại Đạo cho thấy Lương Võ Đế dùng “vàng ròng bạc vạn” của chúng dân (lấy công quỹ) để xây chùa “cho danh rạng tứ phương”, do đó không
hề tạo được một công đức nào, bởi lẽ công quả chỉ có giá trị đích thực và tạo
được âm chất khi nào công quả được làm với tinh thần vô công, vô kỷ, vô cầu, vô
danh.
Luật
nhân quả trả vay vay trả không hề tư vị một ai. Lúc soán ngôi vua Tề, Lương Võ
Đế đã gây nhiều nghiệp sát, nên cuối đời phải đền nghiệp sát bằng nạn “ngạ tử”. Điều này đã được Đức Quan Thế
Âm dạy trong một lần giáng cơ tại Huờn Cung Đàn ngày 15-7 Đinh Mùi (20-8-1967):
Chư đẳng chúng sanh cần ý niệm: Sống trên cõi
đời vật chất (...) kiếp con người có hạn (...) cần tu tạo đức để tránh những
điều lầm xưa còn ghi lại. Vậy Bần Nữ nhắc, dầu cho bực đế vương như Lương Võ Đế hồi xưa tạo thất thập nhị thiền
môn ([3]) nhưng tâm tà vô định thì lấy đâu mà bảo tồn
linh tánh đó. Chư chúng sanh còn thấy tích.
. . . Nay nhắc lại trong kỳ tiền giáo,
Kìa Lương Đế khai tạo thiền môn,
Thất nhị (72) cảnh để bảo tồn,
Điều oan nghiệt vay thì phải trả,
Hễ sát sanh mạng quả đền bù,
Đài Thành ngạ tử còn lưu,
Thân hồn phải chịu hận cừu rửa tan.
Cơn biến nạn thở than tế độ,
Lời van cầu Phật Tổ cứu nguy,
Căn thần đã mãn hồi quy,
Lấy công đền tội vậy thì hướng sanh.
Theo
lời Đức Quan Âm dạy trên đây, sau khi Lương Võ Đế đền xong nghiệp quả, nhờ luôn
hướng về Phật pháp, thành khẩn van cầu Phật Tổ cứu nguy nên cuối cùng chơn linh
nhà vua cũng được siêu thoát.
Trong
thánh giáo dẫn trên, để khuyến nhủ các môn đồ phải luôn ghi nhớ luật nhân quả
báo ứng, Đức Quan Âm còn nhắc đến tích Hoàng Hậu Hy Thị (vợ Lương Võ Đế) như
sau:
Còn Hy Thị trước manh ác dạ,
Hại chúng tăng để thỏa lòng phàm,
Tội tình Hy Thị vương mang,
Hóa thân động vật để làm báo tin.
Vì oan nghiệt tội tình vay trả,
Luật luân hồi nhơn quả trả xong,
Đêm khuya đánh tiếng đạo đồng công phu.
Vì chúng tăng đường tu còn thiếu,
Lúc đêm khuya báo hiệu trỗi lên,
Cất tiếng khẽ khắt trước đền,
Đánh tan giấc điệp trỗi rền công phu.
Vì tiểu tăng trí ngu, quá bực,
Đang yên giấc đánh thức, giận mà,
Đành lòng chặt đứt đoạn ra,
Làm cho khúc thiện thân đà biến thân.
Mối oan nghiệt nơi trần cấu tạo,
Hồn linh về Bồng Đảo hội chầu,
Lương Đế mộ đạo Phật thâu,
Thương thay Hy Thị nguyện cầu độ linh.
Để ăn năn nghe kinh sám hối,
Rỗi
linh hồn cho tội tiêu tan.
Lòng thành luyện đạo hưởng an,
Tiêu trừ nghiệp chướng tiếp ban ân lành.
Vợ
Lương Võ Ðế là Hoàng Hậu Hy Thị. Tuy được sủng ái nhưng bà luôn đố kỵ, ganh
ghét cung phi, độc ác với mọi người. Thấy vua sùng đạo Phật và kỉnh trọng chư
tăng, bà thêm căm ghét các sư, hủy báng tam bảo.
Tương
truyền một hôm Lương Võ Đế thỉnh Hòa Thượng Chí Công và năm trăm nhà sư vào
cung để cúng dường. Hoàng Hậu Hy Thị sai người giết chó, lấy thịt làm nhân bánh
bao dâng cho sư. Sau khi chư tăng thọ trai xong và trở về chùa, Hy Thị tấu
trình: “Xưa nay bệ hạ tin các hòa thượng đã tu chứng nên cung kính cúng dường.
Vừa rồi nhân bánh bao làm bằng thịt chó mà họ không biết, đã ăn hết. Vậy đâu
phải đã chứng đạo!”
Lương
Võ Đế nghe xong nổi giận, bèn lên ngựa kéo quân đến chùa để chém chư tăng. Vừa
đến cổng tam quan đã thấy Hòa Thượng Chí Công đứng chờ bên gốc bồ đề, vua hỏi: “Hòa Thượng ra đây làm gì?”
Hòa
Thượng đáp: “Ra đợi
bệ hạ chém đầu, nếu không máu đổ trong chùa làm ô uế cửa Phật.”
Kinh
ngạc, Lương Võ Đế hỏi: “Có tài tiên tri như vậy mà sao trưa nay Hòa
Thượng và chư tăng không biết nhân bánh bao làm bằng thịt chó?”
Hòa
Thượng đáp: “Đêm qua trong lúc thiền định, bần tăng đã biết âm mưu của Hoàng Hậu nên
kịp sai chúng tăng làm bánh bao chay giấu trong tay áo tràng bên phải. Khi thọ
trai thì lấy ra ăn. Còn bánh bao nhân mặn của Hoàng Hậu cúng dường thì giấu
trong tay áo bên trái rồi đem về chùa chôn.”
Hòa
Thượng đưa vua ra chỗ chôn bánh. Cho đào lên thì quả như lời kể. Vua hối hận,
tạ lỗi rồi hồi cung. Từ ấy, vua càng thêm kỉnh trọng Hòa Thượng Chí Công, khiến
cho Hoàng Hậu Hy Thị càng thêm căm giận. Lòng sân hận nung nấu mãi khiến bà
sinh bệnh, lìa trần.
Theo
lời Đức Quan Âm dạy trên đây, vì Hoàng Hậu Hy Thị sanh ác tâm ám hại chư tăng
nên phải luân hồi làm con dế (khúc thiện),
ngày ngày lập công chuộc tội bằng cách gáy lên lúc nửa đêm để đánh thức tăng
chúng trong chùa dậy công phu. Chẳng may, một hôm có tiểu tăng mê ngủ mà bị
đánh thức nên nổi giận chặt đôi thân dế. May thay, bấy giờ Lương Võ Đế đã được
Phật Tổ cứu vớt, động lòng cảm thương mà nguyện cầu cho Hy Thị được cứu rỗi.([6])
Cả
hai câu chuyện về Hoàng Hậu Hy Thị, một do Đức Quan Âm dạy trong Tam Kỳ Phổ Độ
và một do nhân gian truyền khẩu, tuy hơi khác nhau nhưng chung quy đều cho thấy
rõ luật nhân quả báo ứng xưa nay không hề sai chạy.
Sau
khi nhắc tích Lương Võ Đế, nhị vị Tiền Khai Đại Đạo Thượng Trung Nhựt và Ngọc
Lịch Nguyệt tiếp tục để lời khuyến nhủ hàng môn đệ Cao Đài:
Đường tăm tối muốn đi nhờ ánh đuốc,
Cơn bão bùng chớ vượt biển cậy thuyền
con,
Dẫu có tài toan lấp biển dời non,
Không đạo đức khó thoát vòng nhân quả.
Hỡi ai đó chớ vay nhiều rồi phải trả,
Trả rồi vay, vay trả mãi luân hồi,
Có chi bằng thức tỉnh học Đạo Trời,
Người
môn đệ Cao Đài ngày nay quả là diễm phúc khi được tắm mình trong dòng giáo lý
thanh lương của các Đấng thiêng liêng để rồi cũng chính dòng nước thanh lương
ấy sẽ đưa tất cả những ai biết tự mình lên thuyền đạo ngược dòng trở về nguyên
bổn.
DIỆU
NGUYÊN
Lương Võ Đế sau khi
biết rõ Hòa Thượng Chí Công là bậc chơn tu lại càng yêu mến kính trọng hơn nữa.
Hoàng Hậu Hy Thị vì thế càng thêm tức giận, sai thuộc hạ đến chùa đem kinh sách
ra đốt hết.
Sau, bà bệnh nặng rồi
từ trần, đầu thai làm mãng xà. Một hôm, Võ Đế nằm mộng thấy bà tâu rằng: “Khi
thiếp còn sống ăn ở bất nhân, tổn vật hại người, làm điều ác độc. Vì cớ ấy nên
nay phải làm mãng xà, thân dài, vóc lớn, bò lết không nổi, đói không có chi ăn,
khát chẳng có chi uống, cực khổ trăm bề, lại thêm trong chân vảy có độc trùng
đeo bám cắn rứt da thịt, đau thắt ruột gan! Xin bệ hạ nghĩ tình xưa nghĩa cũ mà
từ bi thỉnh thầy làm chay siêu độ cho thiếp, may nhờ Phật pháp hộ trì, thoát ra
khỏi vòng ác báo, thì thiếp cảm ơn đời đời.”
Sáng ra, Lương Võ Ðế
truyền lệnh rước các tăng vào triều, hỏi: “Ai có phép chi cứu giải Hoàng Hậu
chăng?”
Hòa Thượng Chí Công
tâu: “Tội của Hoàng Hậu rất nặng, xin bệ hạ hãy lập đàn tràng sám hối mới cứu
được.”
Võ Ðế bằng lòng, cầu
Hòa Thượng Chí Công soạn ra mười quyển sám hối văn (tức là bộ Lương Hoàng Sám), rồi lập đàn làm chay
ba tháng trong cung, cầu siêu cho Hoàng Hậu.
Một hôm, trai đàn gần
mãn, có mùi hương nồng nàn bay khắp trong cung. Lương Võ Ðế ngước mắt nhìn lên,
thấy một tiên nữ đứng giữa hư không chắp tay tâu rằng: “Thiếp nhờ công đức của
chư tăng và bệ hạ cầu sám hối đã thoát kiếp mãng xà sanh về cõi trời Ðao Lợi.”
Võ Ðế vui mừng khôn
xiết, bèn mời Hòa Thượng Chí Công đến hỏi: “Hoàng Hậu do nhân duyên nào mà bình
sinh thù ghét chư tăng như vậy?”
Hòa Thượng tâu: “Thuở
xưa, trong một ngôi chùa trên núi, có con dế thường ở dưới chân cái đôn để
nước. Con dế ở chùa lâu ngày dường như có tánh linh, mỗi buổi sáng sớm đều gáy
lên inh ỏi để đánh thức tăng chúng dậy công phu. Vị trụ trì mỗi khi tới đó lấy
nước đều chú nguyện cho con dế mau siêu thoát mà sanh về cõi người. Nhưng vị
giám tự ghét con dế sáng nào cũng gáy vang rân chẳng cho ông ngủ. Một hôm, trụ
trì đi vắng, khi bị đánh thức lúc đang ngon giấc, giám tự bực tức ra bắt con
dế, cắt ngang bụng làm hai, rồi bỏ lại dưới chân đôn. Khi trụ trì về, không
nghe tiếng dế gáy, kiếm dưới chân đôn thì thấy xác. Trụ trì chú nguyện cho nó,
lấy một rẻo vải đỏ cột nối hai mảnh xác dế, rồi đem chôn. Con dế ấy kiếp này là
Hoàng Hậu, còn giám tự là bần tăng. Oan gia gặp nhau, nếu kiếp này bần tăng tu
hành chểnh mảng ắt không thoát khỏi tay Hoàng Hậu!”
Võ Ðế gật gù: “Hèn gì Hoàng Hậu
thường buộc dải lụa đỏ ngang lưng không rời, chả biết duyên cớ vì sao. Đêm nọ,
Hoàng Hậu ngủ mê, Trẫm lén tháo dải lụa ra, thì Hoàng Hậu than rằng đau lưng,
buộc trở lại thì không đau nữa. Nay Hòa thượng bày tỏ
như vậy, mới thấy rõ Phật nói nhân quả thiệt là không sai.”
Nếu quý bạn thích có tập sách nhỏ này, kính mời quý bạn gởi thư về daidaovanuyen@gmail.com. Và xin quý bạn hoan hỷ trả
giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu. Cảm ơn quý bạn quan tâm. (Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo)