CHIẾN THẮNG VẠN QUÂN
KHÔNG BẰNG TỰ CHIẾN THẮNG MÌNH
KHÔNG BẰNG TỰ CHIẾN THẮNG MÌNH
“Chiến
thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình.”
Đây chính là lời dạy của Đức Phật Thích Ca được ghi lại ở phẩm Ngàn trong quyển Kinh Pháp Cú. Trong suốt bốn mươi chín năm thuyết pháp,([1]) Đức Phật nói rất nhiều pháp
ngữ nghĩa lý thâm sâu nhằm hướng dẫn nhơn sanh giải trừ nghiệp khổ và tiến đến
Niết Bàn an lạc.
Ba tháng sau khi
Phật tịch diệt, các cao đồ của Ngài hội họp kết tập thành Tam Tạng (Kinh Tạng,
Luật Tạng, Luận Tạng) để truyền lại cho hậu thế. Những lời dạy ngắn gọn đầy ý
nghĩa của Phật được kết tập thành Kinh Pháp Cú.
Cú là câu hay lời, Pháp là phép hay phương pháp. Pháp Cú là những lời dạy của Đức Phật để
chỉ cho nhơn sanh phương pháp thoát khổ, tiến đến an lạc hạnh phúc.
Xưa nay, giới Phật
tử đặc biệt tôn bộ kinh này làm bộ kinh nhật tụng quý báu, kể cả hàng xuất gia
và tại gia đều tụng đọc và phụng hành để sống một đời sống an lành thánh khiết.
Người tín đồ Cao Đài cũng nên học và hành theo các lời dạy của Đức Phật Tổ
trong quyển kinh này.
Câu “Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến
thắng mình” là câu thứ 103 trong số 423 câu của Kinh Pháp Cú. Lời dạy này
nói đầy đủ là “Chiến thắng vạn quân không
bằng tự chiến thắng mình. Tự chiến thắng mình là chiến công oanh liệt nhất.”
Chúng ta có thể
hiểu lời dạy này của Đức Thế Tôn như thế nào? Lời dạy này là một sự so sánh
giữa chiến thắng vạn quân và tự chiến thắng mình. Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình. Hai chữ không bằng nơi đây mang ý nghĩa gì? Không bằng trên phương diện nào?
Phải chăng lời dạy
của Đức Phật “Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình” bao hàm hai
ý nghĩa:
Chiến thắng vạn quân hay
chiến thắng người khác không phải là điều quan trọng của kiếp người. Chỉ có tự
thắng mình mới là yếu tố quan trọng quyết định sự tiến hóa tâm linh của con
người và đưa con người thoát khỏi luân hồi sinh tử.
Chiến thắng vạn quân không
khó bằng tự chiến thắng mình. Tự thắng mình là chuyện vô cùng khó khăn. Do vậy
mà Đức Thế Tôn mới bảo thêm: “Tự chiến
thắng mình là chiến công oanh liệt nhất.” Nếu có thể chiến thắng dễ dàng
thì chiến công đó đâu được gọi là chiến công oanh liệt.
1. Ý nghĩa thứ nhất
Chiến thắng vạn
quân hay chiến thắng người khác không phải là điều quan trọng của kiếp người.
Chỉ có tự thắng mình mới là yếu tố quan trọng quyết định sự tiến hóa tâm linh
của con người và đưa con người thoát khỏi luân hồi sinh tử.
Thật vậy, xưa nay có những người suốt đời bôn ba tung hoành
ngang dọc, lúc nào cũng muốn chiến thắng kẻ khác, nhưng cuối cùng cũng chỉ là
con số không. Trong số đó có thể kể đến hai nhân vật tiêu biểu là Nã Phá Luân và
Hạng Võ, hai nhân vật tiếng tăm trong lịch sử nhân loại. (Xem phụ bản 8.)
PHỤ BẢN 8
Người thứ hai là Hạng Võ (232-202 trước Công Nguyên). Ông
là người Trung Quốc, ở đất Cối Kê thuộc nước Sở. Lúc bấy giờ nước Sở bị Tần Thủy
Hoàng xâm chiếm. Hạng Võ từ nhỏ thích học võ nghệ và có ý muốn làm thế nào để “nhất nhân địch vạn nhân” tức là “một
người chống chọi được muôn người”. Khi Tần Thủy Hoàng tuần du qua đất Cối Kê, Hạng
Võ định bụng sẽ hành thích ông vua bạo ngược này để cứu lê dân, nhưng chú của Hạng
Võ can ngăn, khuyên hãy chờ thời cơ để làm nên nghiệp lớn. Về sau, vua kế vị Tần
Thủy Hoàng là Tần Nhị Thế cũng bạo ngược độc ác không kém cha mình. Hạng Võ bèn
nhân danh vua Sở chiêu dụ anh hùng hào kiệt nổi lên dấy binh khởi nghĩa nhằm cứu
nhân dân thoát khỏi tai ách. Mọi người thấy Hạng Võ có chính nghĩa nên theo về
rất đông.
Tuy nhiên Hạng Võ vốn là kẻ võ biền tính tình hung hăng
nóng nảy. Sau khi chiếm được Tần thì chém vua Tần và chôn sống luôn hai mươi vạn
quân Tần đã quy hàng. Về sau lại giết luôn cả vua Sở rồi xưng là Tây Sở Bá
Vương. Lúc làm vua thì ngang ngược không chịu nghe lời can gián khiến cho hiền
thần đều xa lánh nên về sau bị Lưu Bang đem quân vây đánh. Hạng Võ hữu dõng vô
mưu lại không còn người hiền tài giúp sức nên đành thua trận chạy đến bến Ô
Giang thì rút gươm tự sát. Năm đó Hạng Võ chỉ mới ba mươi tuổi.
Đức Chí Tôn có lần nhắc đến hai nhân vật Nã Phá Luân và Hạng
Võ để minh thị rằng sống trên đời, tung hoành ngang dọc cho lắm, dù có chiến thắng
vạn quân thì cuối cùng cũng hoàn lại con số không:
Nã Phá
Luân gương còn ở đó
Ngang dọc
trời công khó biết bao
Xông pha
tên đạn ồn ào
Rốt rồi
cũng bại, anh hào hóa không.
Kìa Hạng
Võ non sông ngang dọc
Lúc sinh
thời khử nọc bạo hung
Xưa nay
biết mấy anh hùng
Trong
cuộc sống đời thường, chúng ta thấy có nhiều người thích hơn người khác về mọi
mặt. Thấy người hàng xóm mua xe Toyota thì mình phải mua xe Mercedes, thấy láng
giềng xây nhà lầu ba tầng thì mình phải xây nhà lầu năm tầng, mà để đạt được
điều đó thì đôi khi con người bất chấp tội lỗi để tạo ra đồng tiền cho trội hơn
người khác.
Cũng có nhiều
người thích trội hơn người khác từ lời ăn tiếng nói và đôi khi cũng chỉ vì lời
nói, không biết nhường nhịn nhau mà sinh ra cãi vã rồi đi đến ẩu đả, thậm chí
còn đưa đến án mạng nữa.
Cổ nhân từng
nói: “Nhựt thực tam xan, dạ miên thất
xích.” ([4]) Tranh giành hơn thua cho lắm thì ngày cũng chỉ ăn
ba bữa cơm, tối ngủ cũng chỉ hơn hai mét giường nằm. Chỉ có tự chiến thắng mình mới là điều quan trọng của kiếp
người.
Đức Lê Đại Tiên dạy:
Thắng
người trước thấy ta đã bại
Đức Cao Triều Tiền
Bối dạy thanh thiếu niên:
“Ta không bảo các em chinh phục thiên hạ, mà
bảo các em tự thắng các em và phục vụ cho thiên hạ.” ([6])
Vậy, thế nào là tự
chiến thắng mình? Vì sao lại bảo rằng tự chiến thắng mình mới là điều quan
trọng của kiếp người?
Khi nói đến thắng
và thua tất phải có hai lực lượng đối lập nhau. Nếu là chiến trường với súng
đạn gươm giáo thì kết quả cuộc chiến sẽ là một thắng một thua, một sống một
chết, một mất một còn. Vậy, mình tự thắng mình phải chăng là mình tự hủy diệt
mình? Thưa không phải vậy. Đức Thánh Trần Hưng Đạo dạy:
“Sự chiến thắng cao nhứt trên đời không phải
là chiến thắng được tha nhân, mà phải chiến thắng bản tâm để un
đúc tinh thần trên sức vạn năng thiên lý, mới mong giải thoát được nghiệp quả
trầm luân.” ([7])
Lời dạy của Đức
Thánh Trần giúp cho chúng ta hiểu rằng tự chiến thắng mình chính là chiến thắng
bản tâm. Con người chúng ta tuy bề ngoài hình thể chỉ có một nhưng nội tâm con
người thì lại có hai trạng thái: phàm tâm và đạo tâm. Hai thế lực này luôn luôn
đối kháng nhau, đấu tranh với nhau. Khi phàm tâm thắng thì con người là ma, là
quỷ, còn khi đạo tâm thắng thì con người là Tiên, là Phật. Đức Vạn Hạnh Thiền
Sư dạy:
“Trong mỗi người đều có hai trạng thái tâm hồn,
một là tốt, hai là xấu. Hoặc nói khác hơn, một là thiện, hai là ác. Hoặc nói một
cách khác nữa, đó là phàm tâm và đạo tâm. Hễ khi phàm tâm hưng thịnh, làm chủ
con người thì đạo tâm bị che án, khuất lấp lu mờ, để cho thất tình lục dục,
tham sân si tha hồ mà ngự trị loạn động khiến sai. Chỉ khi nào đạo tâm hưng thịnh
ngự trị làm chủ con người thì phàm tâm mới diệt được. Khi phàm tâm diệt, đạo
tâm sanh, thì con người ấy mới có thể gọi là hiền lương quân tử, đạo đức chơn
tu.” ([8])
Đức Đông
Phương Chưởng Quản dạy:
“Chư hiền đệ muội nghĩ lại mà coi. Hỏi vậy chớ
Đạo ở đâu mà đời lại ở đâu? Ma ở đâu mà Phật lại ở đâu? Tất cả những thứ ấy đều
có nơi mỗi con người đủ hết. Mỗi khi nội tâm đang hướng thượng vào những lãnh vực
đạo đức thánh thiện, ham làm việc đạo đức tế chúng độ dân, lúc ấy chính là Phật,
là Tiên, là Thánh. Trái lại, nếu nơi nội tâm tưởng việc xằng quấy trong lãnh vực
si mê thấp hèn như ganh tỵ, tật đố, tham lam, ích kỷ, chấp nhứt, nhỏ mọn, lúc
đó chính mình là ma, là quỷ.” ([9])
Một lần khác, Đức Đông Phương Chưởng Quản dạy thêm:
“Trời cũng là ta, Phật Tiên Thánh Thần cũng
là ta, mà ma vương, ngạ quỷ, súc sanh cũng là ta. Bởi trong cái ta có chánh có
tà lẫn lộn. Hễ chánh thạnh tà suy là Phật, nếu tà thạnh chánh suy là ma, thế
thôi.
Mỗi ngày, mỗi người có những ngôn ngữ cùng
hành động của Thần Thánh Tiên Phật mấy lần, và cũng chính mình có những ngôn ngữ
hành động của ma quỷ mấy lần mà không hay.” ([10])
Qua lời dạy của các Đấng,
chúng ta thấy rõ rằng, tự thắng mình có nghĩa là mình phải làm chủ nhơn ông để
cho thánh tâm chiến thắng, không để cho phàm tâm óng dậy xúi giục mình làm
những điều quấy quá.
Nói một cách cụ thể,
chiến thắng mình tức là khắc phục những thói hư tật xấu như lười biếng giải
đãi, giả dối, tham lam, ích kỷ, giận hờn, ghen ghét, đố kỵ, ố nhơn thắng kỷ
(ghét người hơn mình). Chiến thắng mình là vượt qua được những tình cảm bi lụy si
mê. Chiến thắng mình là chế ngự những ham muốn thấp hèn, là tu sửa bản thân,
rèn luyện nhân cách để làm phát triển những phẩm chất cao đẹp như lòng vị tha, hạnh
bác ái, thương yêu hòa thuận với mọi người, có ý thức trách nhiệm cao đối với công
việc, phát triển Thượng Đế Tính (Tính Trời) hay Phật Tính tiềm tàng trong mỗi
con người để trở thành một con người chí nhân, chí thiện, chí mỹ.
Tự thắng mình là
điều quan trọng của kiếp người vì chỉ có tự thắng được mình tức là chiến thắng
được phàm tâm thì con người mới có thể tự giải thoát khỏi nghiệp luân hồi sinh
tử để tiến lên làm Thần, làm Thánh, làm Tiên, làm Phật được.
Các bậc
Giáo Tổ xưa nay được cả thế giới kính ngưỡng, tôn thờ bởi vì các Ngài đã vượt
qua bao thử thách nội tâm dữ dội như sóng thần để tự chiến thắng chính mình.
Phúc Âm
theo Thánh Maccô (1:13) chép rằng Đức Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc: “Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu
Satan cám dỗ...” và Đức Giêsu đã thắng
được sự cám dỗ của Satan. (Xem phụ bản 9.)
PHỤ BẢN 9
Vào cái
đêm trước khi thành Phật dưới cội cây bồ đề, tu sĩ Cồ Đàm bị ba cô con gái tuyệt
đẹp của ma vương Ba Tuần cám dỗ và ngài Cồ Đàm đã chiến thắng vượt qua.
Theo Kinh Trường
Thọ III, ba cô gái kể lại việc này với cha là ma vương Ba Tuần như sau (xem
phụ bản 10):
PHỤ BẢN 10
“Ngày trước, dưới gốc cây bồ đề, ba đứa chúng con
xinh đẹp nhứt hạng, vậy mà bày trăm cách ngàn kiểu khêu gợi dục tình, Bồ Tát Cồ
Đàm đều không chút đắm nhiễm. Ngài xem chúng con như ba mụ già xấu xí.”
Đức Giêsu Kitô,
Đức Phật Thích Ca, các ngài đã tự thắng mình một cách kiên cường để trở thành Chúa,
thành Phật được muôn đời kính ngưỡng ở cả hai cõi trời và người.
2. Ý nghĩa thứ hai
Chiến thắng vạn quân không khó bằng tự chiến thắng mình.
Lịch sử nhân loại
ghi lại bao chiến công hiển hách của các bậc anh hùng dũng tướng đã từng chinh
đông phạt tây, đánh nam dẹp bắc, có tài thao lược trí mưu, hiểu rành binh pháp.
Và để chiến thắng vạn hùng binh, họ cũng phải trải bao gian khổ, nếm mật nằm
gai, vào sanh ra tử. Điều này cho chúng ta thấy việc chiến thắng vạn hùng binh
không phải là chuyện dễ dàng gì.
Ấy thế mà Đức Phật
lại bảo rằng cuộc chiến thắng vạn hùng binh ấy vẫn không oanh liệt bằng tự
chiến thắng mình. Tự chiến thắng mình mới là chiến công oanh liệt nhất. Lời dạy
của Đức Thế Tôn cho thấy rằng tự chiến thắng mình là điều vô cùng khó khăn, bởi
lẽ nếu có thể chiến thắng dễ dàng thì chiến thắng đó đâu được gọi là chiến công
oanh liệt.
Đã có biết bao anh
hùng dũng tướng xông pha ngoài trận mạc, bách chiến bách thắng, nhưng khi trở về với cuộc sống đời thường, họ lại
bị thất bại thảm hại trước những cám dỗ của lợi danh, tiền tài, sắc đẹp... và
đã để cho những ham muốn thấp hèn dẫn dắt mình vào vũng bùn tội lỗi khiến cho
thân bại danh liệt, tan tành sự nghiệp.
Đức Đông
Phương Chưởng Quản dạy:
“Chư hiền đệ muội thử nghĩ, trên thế gian có
rất nhiều người anh hùng có thể chiến thắng trăm trận, đoạt thành cướp lũy, kiến
quốc tạo nghiệp, nhưng cũng chưa hẳn làm được anh hùng để chiến thắng những trận
giặc bất chính ở cá nhân nội tâm.” ([11])
Đạo Đức
Kinh (Chương 33) ghi lời Đức Lão Tử dạy:
“Thắng
nhơn giả hữu lực, tự thắng giả cường.” Nghĩa là: Người thắng được kẻ khác
chỉ là người có sức mạnh, người tự thắng được mình mới là người kiên cường. Thật
vậy, chiến thắng kẻ khác thì không khó bằng tự chiến thắng mình.
Đức Tiếp
Pháp Trương Văn Tràng dạy:
Giặc
ngoài dầu loạn mấy mươi năm
Không ngại
cho bằng giặc nội tâm
Ngoài có
thiên binh đem thạnh trị
Đức Vạn Hạnh Thiền
Sư có lần dạy về sự thắng và thua trong kiếp người:
“Một người tướng có thể cầm binh thắng năm mười
trận, nhưng họ vẫn thua khi trở về gia đình bị lụy vì tình, làm khổ vợ khổ con.
Một nhà ngoại giao có thể thắng nhiều nước cờ
trên trường quốc tế, nhưng khi không dằn cơn nóng giận, họ sẽ thua một đứa nhỏ
đánh giày.
Một quan tể tướng trong triều đình, họ có thể
thắng hằng ngày trên trường quốc sự, nhưng nếu họ vô độ lượng trong lúc vui say
tửu nhục, họ cũng phải thua nửa lít nước trong.
Trong
giới tu hành cũng thế. Một người giáo sĩ truyền đạo có thể hùng biện diễn thuyết
thắng thế trước muôn người, nhưng họ đành phải thua một phút nổi sân buông lời
khiếm nhã.
Một
người chức sắc hoặc một đạo hữu có thể thắng trên mọi lãnh vực trường đời,
nhưng họ không thắng nổi được nội tâm mỗi khi tham dục loạn động, đó là thua.” ([13])
Người tu chúng ta
hãy tự kiểm điểm bản thân xem hằng ngày đã có biết bao nhiêu lần thắng và thua
như lời Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:
“Trong tấm thân tứ đại mỗi người hằng ngày đã
diễn ra không biết bao nhiêu lần thắng và thua, nhưng có mấy ai để ý, đến chừng
nào sự kiện tồi tệ nhục nhã rồi mới hay rằng mình đã thua, còn quanh mình lúc
nào cũng vẫn cho rằng mình thắng.” ([14])
Xin nêu ra một vài
thí dụ:
Đến giờ công phu,
hành giả bỗng nghe trong mình uể oải biếng lười. Nếu hành giả quyết tâm vượt
qua được sự lười biếng giải đãi để tinh tấn công phu thì xem như đã tự thắng
mình 1-0.
Đối với hành giả
còn ăn chay kỳ, đến ngày chay bỗng thấy đồ mặn phát thèm, nếu hành giả không
cương quyết chống lại cơn thèm ấy, lại lén ăn thử một miếng thức ăn mặn đang
cám dỗ trước mắt, thế là hành giả đã tự thua mình 1-0.
Hoặc giả có người
bạn đạo nói một lời thiếu tế nhị đụng chạm tự ái của mình, nếu hành giả biết tự
kềm chế không sân giận, không trả đũa bằng những lời khiếm nhã thì xem như đã
tự thắng mình 1-0, v.v...
Còn rất nhiều và
rất nhiều nữa những chuyện thắng và thua chính mình đang diễn ra hằng ngày
trong đời sống tu hành của mỗi người chúng ta. Và còn có những cám dỗ lớn hơn
như tiền tài, danh vọng, địa vị, quyền lợi, sắc dục, v.v... khiến cho người tu phải
chịu thất bại thảm hại.
Bây giờ chúng ta
hãy phân tích xem vì sao cuộc chiến đấu với bản thân lại khó khăn đến như vậy,
và muốn chiến thắng thì phải làm sao?
Cuộc chiến đấu với chính
mình hay nói rõ hơn là cuộc đấu tranh với thói hư tật xấu cùng những ham muốn
thấp hèn của mình là một cuộc chiến vô cùng khó khăn, gian khổ, bởi vì:
Đây là một cuộc chiến thầm lặng và đơn độc, không
có người chỉ huy cũng không có chiến hữu, chỉ có ta và ta, và mình cũng là tướng
soái chỉ huy chính mình. Ta thắng không ai hay, ta thua cũng chẳng ai biết. Cuộc
chiến này kéo dài trường kỳ và âm ỉ, không một giây phút nào ngưng nghỉ. Trong
mọi nơi, mọi lúc, trong mọi lời nói, hành động và nhất là trong suy nghĩ, ta
phải luôn luôn tỉnh giác để nhận diện kẻ thù và chiến đấu với nó. Một ý nghĩ
bất chánh, một lời nói sân ác, dù chưa thực hiện thành hành động nhưng tội hình
cũng ngang nhau. Ngày mới khai Đạo, Đức Chí Tôn dạy:
“Nơi Tòa Phán Xét, chẳng một lời nói
vô ích mà bỏ, nên Thầy dạy các con phải cẩn ngôn cẩn hạnh, thà là các con làm tội
mà chịu tội cho đành, hơn là các con nói tội mà phải mang trọng hình đồng thể. Các con
khá nhớ.” ([15])
Nếu trong một khoảnh khắc
nào đó, chúng ta lơ là chểnh mảng hoặc yếu mềm thì kẻ thù trong ta không bỏ lỡ
cơ hội, chúng sẽ thừa cơ lấn tới và thế là bao nhiêu sự cố gắng của ta bỗng trở
thành công dã tràng. Thật vậy, người tu nếu không biết tỉnh giác, kềm chế lòng
mình, chỉ cần một phút sân giận nổi lên thì đã đốt thiêu hết cả rừng công đức.
Chính vì thế mà sách Trung Dung dạy
rằng không thể xa lìa Đạo dù chỉ trong khoảnh khắc.([16])
Trong cuộc chiến này, chúng ta rất khó nhận diện
được kẻ thù bởi lẽ chúng thường khéo ngụy trang bằng những lớp vỏ đẹp đẽ hào
nhoáng, khiến chúng ta không thể nào nhận ra được và trót nhận giặc làm con,
nên đành để cho chúng mặc sức tung hoành. Chúng còn được lòng tự ái của chính
chúng ta làm ô dù che chở. Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:
“Thương thay! Trong con người
thường có quan tòa hay biện hộ thiên về phía
phàm tâm hơn. Trong trường hợp đó, khiến con người bị xa chánh đạo,
gây điều tội lỗi.” ([17])
“Trong con người thường có quan tòa hay biện
hộ thiên về phía phàm tâm hơn.” Thật vậy,
tác giả quyển Giải
Mã Truyện Tây Du phân tích rõ khía cạnh tâm lý này của con người. Theo tác
giả, trong câu chuyện bốn thầy trò Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh thì Đường Tăng
tượng trưng cho mỗi con người chúng ta. Tề Thiên tượng trưng cho lý trí sáng
suốt biết phân biện chánh tà. Sa Tăng tượng trưng cho tính cần cù nhẫn nại, trì
thủ, tinh tấn. Riêng Bát Giới “hư” nhất, tượng trưng cho tính tham: tham ăn, tham ngủ, tham của, tham sắc, tham nịnh
nọt. Bát Giới là sự tập hợp những bản năng rất vật dục và tầm thường nơi con
người. Ấy vậy mà trong các đệ tử, Đường Tăng lại tỏ ra cưng Bát
Giới hơn cả. Vì sao vậy? Vì con người vốn vẫn thương thân mình hơn tất cả, nên
vẫn thường có xu hướng nhắm mắt đưa chân, phớt lờ cái lẽ đúng mà nuông chìu
theo bản năng, thói hư tật xấu của mình cho thân mình được sung sướng, lại còn
đưa ra những lý lẽ để biện hộ cho sự sai trái của mình nữa.([18])
Thật vậy, phàm tâm luôn
có những lý lẽ thoạt nghe qua thấy rất hợp lý nên dễ dàng dối gạt lừa phỉnh
hành giả. Cho nên, nếu bản thân không kiên quyết, không tinh ý suy xét cho
tường tận thì chúng ta rất dễ bị phàm tâm dẫn dắt đến những hành động sai trái.
Đức Bác Nhã Thiền Sư phân
tích rất rõ ràng như sau:
“Chư đạo hữu luôn luôn tâm niệm điều này: Trong
mỗi người đều có hai thái cực giằng co nhau, một là Thượng
Đế, một là Satan, ác quỷ.
Thượng Đế lúc nào cũng muốn dẫn dắt, cứu rỗi
con cái Ngài đi lên chốn thanh cao siêu thoát; còn Satan, ác quỷ lúc nào cũng đố
kỵ người tu, tìm đủ cách lý do ngụy biện, lôi kéo đối tượng xuống địa ngục a tỳ.
Vì vậy cho nên người tu học phải hiểu rõ chỗ đó để khỏi bị Satan, ác quỷ nhơn
danh Thượng Đế dối gạt hành giả đi sai đường chánh đạo. Đó là nói về nội tâm của
mỗi người, chưa kể đến phần ngoại cảnh. Phần ngoại cảnh tuy có trở ngại nhưng dễ
thấy, dễ phán đoán nhận xét, dễ đề phòng. Còn nội tâm rất khó thay, bởi vì Thượng
Đế cũng mình, mà Satan, ác quỷ cũng mình.
Satan lúc nào cũng đem các phương tiện hấp dẫn
quyến rũ, như danh lợi, tình tiền và những thụ hưởng khác. Satan lúc nào cũng
có lý lẽ để câu nhử hành giả. Từ đó những việc làm mà Thượng Đế muốn đều có Satan
đưa lý do tại và bị để biện hộ cho phần thụ hưởng. Vậy nên hành giả phải sáng
suốt nhận định làm chủ lấy tâm để khỏi bị dối gạt.
Bản Huynh nêu một vài tỷ dụ nho nhỏ để chư đạo
hữu lấy đó làm mực thước đo lường những việc khác tương tự. Thí dụ như sửa soạn
đi hành đạo, bỗng nhiên gia đình có việc bất thường xảy đến. Lúc bấy giờ, hành
giả nếu sáng suốt thì cắt đặt người ở nhà giải quyết mọi việc được ổn thỏa để rảnh tay hành đạo, khi về sẽ liệu sau. Trái lại, nếu không
sáng suốt, do dự, thì sẽ có biện lý bên trong phán rằng: ‘Dục tu Tiên Đạo, tiên
tu Nhơn Đạo’, nếu mình không lo việc này, việc chùa Phật Trời đâu chứng, hoặc
những biện lý tại bị khác cầm chơn bỏ qua cơ hội.”
Nhân thí
dụ này của Đức Bác Nhã Thiền Sư, xin kể một câu chuyện có thật cho thấy rằng lý
lẽ của phàm tâm đưa ra để xúi giục chúng ta ở nhà lo giải quyết việc nhà không
đi hành đạo cho đúng với câu “Dục tu Tiên
Đạo, tiên tu Nhơn Đạo; nếu mình không
lo việc này, việc chùa Phật Trời đâu chứng” là hoàn toàn không đúng:
Đạo trưởng
Kiến Minh (Trương Truyền Chánh, 1907-1988), nguyên là Phó Tổng Lý Minh Đạo Cơ
Quan Phổ Thông Giáo Lý có một người con trai tên là Trương Thành Thiện
(1945-1972). Anh Thiện bị tử trận lúc mới 28 tuổi.
Sinh tiền
anh chưa biết tu, nhưng sau khi thoát xác một thời gian ngắn thì được Đức Chí
Tôn ban ơn cho về đàn để hàn huyên cùng gia quyến. Anh nói lý do vì sao anh lại
được hưởng ân huệ này, đó là nhờ lúc gia đình đang tổ chức tang lễ cho anh thì
đạo trưởng Kiến Minh nhận được sắc lịnh của Ơn Trên dạy đi hành đạo ở một tỉnh miền
Tây. Tuy mọi người đều bảo rằng đạo trưởng có lý do chính đáng để từ chối không
đi hành đạo, và mặc dù cõi lòng tan nát vì nỗi đau mất con, đạo trưởng vẫn một
mực chấp hành Thiên lệnh, giao lại chuyện tang lễ cho người nhà lo và lên đường
đi hành đạo theo lệnh Ơn Trên. Nhờ đó mà anh Thiện được hưởng liền ân huệ của Đức
Chí Tôn cho về đàn để gặp gỡ gia đình. Anh trần tình như sau:
Nào hay đâu ngày nay cách biệt
Để đau thương chi xiết đoạn trường
Đó là gặp cảnh vô thường
Làm cho ly biệt không phương tỏ bày.
Tưởng đâu thế từ nay quạnh quẽ
Nào hay đâu đặng vẽ ngọn cơ
Đó nhờ trong lúc ban sơ
Phụ tình ly biệt tơ mơ giấc nồng.
Thọ lịnh sắc cõi lòng tan nát
Nhưng vững vàng phú thác ân Thiên
Nhờ đây ân huệ hưởng liền
Đức Bác
Nhã Thiền Sư nêu thêm một ví dụ nữa về lý lẽ dối gạt của phàm tâm:
“Hoặc tới giờ cúng thời, hoặc đến giờ tham
thiền hành pháp, bên trong đưa ra các lý do như buồn ngủ hoặc
ngày nay làm việc nhiều uể oải, thông qua một thời này thời sau tịnh lại có sao
đâu, vì đường tu hành còn dài mà…
Chúng ta
có thể kể thêm một ví dụ nữa về lý lẽ biện hộ của phàm tâm: Một người tu hành
ăn chay trường mấy chục năm chẳng may lâm trọng bệnh. Bác sĩ tây y bảo phải ăn
mặn thì bệnh chữa mới khỏi. Lúc bấy giờ, người thân hoặc chính bản thân người bệnh
mới lý luận rằng: thân mạng là quan trọng, nên ăn mặn theo lời khuyên của bác
sĩ để chữa cho hết bệnh thì mới tu tiếp được, nhược bằng cứ một mực giữ trường
trai thì bệnh không khỏi, mất mạng thì làm sao còn phương tiện để tiếp tục tu
hành, v.v... và v.v... Thế là công trình ăn chay trường tu luyện mấy chục năm phải
tan thành mây khói.
Lúc tiền
bối Bảo Pháp Chơn Quân Huỳnh Chơn (1904-1973) lâm trọng bệnh, bác sĩ điều trị
đã dùng đến các thứ thuốc không phù hợp cho người trường trai. Sợ nguơn thần vướng
vòng ô trược, Ngài cầu nguyện Thiêng Liêng để được hồi quy. Vì lòng từ bi
thương xót đệ tử, Đức Tôn Sư bắt hồn dã nhân thay Ngài trả nghiệp khổ đau, còn
linh hồn Ngài thì được “chín trùng thượng
thăng”. Mặc dù vậy, hồn vẫn còn mối dây liên hệ với phần nhục thể nên mỗi
khi thân xác nơi thế gian chịu phần trọng trược thì linh hồn cũng bị giao cảm.
Trong lần giáng đàn đầu tiên Ngài kể lại:
Thương
thay con thảo vợ hiền
Đau chưn
hả miệng mới yên tấc lòng.
Sợ nguơn
thần vướng vòng ô trược
Đêm đêm
cầu cho được hồi quy
Nỗi lòng
trời đất chứng tri
Tôn Sư mở lượng từ bi hải hà.
Bắt dã nhơn cho hòa thể phách
Dụng thần thông trọng trách
phó giao
Thay vào trả nghiệp khổ đau
Mãn căn sẽ được lộc cao hưởng
nhờ
Đêm hai bảy (27) đúng giờ
viên khởi
Tiết Đông thiên Tân Hợi lạnh
lùng
Chơn hồn phiêu phưởng thung
dung
Nương theo tay áo chín trùng
thượng thăng.
Vào thạch thất ngồi an tu luyện
Chờ mãn căn xuất hiện huyền
công
Tuy hồn lìa cõi trần hồng
Nhưng còn ảnh hưởng trong
vòng nhục thân.
Cứ mỗi lúc chịu phần trọng
trược
Là mỗi lần thạch thất cảm
giao
Nhớ xưa Nhượng đả long bào
Người tu
chúng ta cần phải luôn luôn cảnh giác và suy xét cho tinh tường thì mới không bị
phàm tâm dối gạt phỉnh lừa vào đường sai trái.
Đức Bác
Nhã Thiền Sư còn dạy thêm rằng hành giả thường thối chí ngã lòng, vui đâu chúc
đó, v.v... là vì trong mỗi người chúng ta đều có đứa con nít ở bên trong mặc dù
chúng ta đang ở tuổi trưởng thành:
“Thứ nữa, tuy trong chư đạo hữu đa số là người
thành nhân lớn tuổi, nhưng đừng quên rằng mỗi người chúng ta đều
có đứa con nít ở trong. Cười… cười… Con nít thường hay chịu nói ngọt, không
ưa nói xẵng, dầu lời nói xẵng ấy đượm tinh thần thương hại xây dựng. Cũng như
trẻ em nào cũng thích được người khác khen mình, không cần biết tiếng khen ấy
đúng hay sai đạo lý. Trẻ em thường hay vui đâu chúc đó, cũng thường hay thối
chí ngã lòng trước nghịch cảnh. Lúc thích thì việc chi, lời nào cũng cho là phải,
khi không ưa, dầu lời phải việc hay cũng chẳng ích chi, v.v… và v.v…” ([22])
Vậy, muốn tự thắng mình
thì cần phải luyện cho đứa con nít bên trong mình cũng trưởng
thành để có những hành xử đúng đắn của người trưởng thành chín chắn. Nhưng con
người có cả lục dục (sáu ham muốn),
mỗi ham muốn ấy cũng được ví như sáu
đứa trẻ thường hay nhõng nhẽo, bắt chúng ta phải chìu chuộng chúng, mà
chìu chúng thì lại trái đạo lý!
Một họa sĩ (đời Hán?) vẽ
Hòa Thượng Bố Đại (cũng là hình ảnh tượng trưng Bồ Tát Di Lặc) cứ để cho sáu
đứa trẻ con mặc tình chơi đùa, trửng giỡn. Ngài vẫn ung dung, thoải mái, rộng
mở nụ cười tự tại, vì Ngài luôn làm chủ được lòng mình, tâm Ngài là Chủ Nhân
Ông, chỉ huy được bọn trẻ con nghịch ngợm ấy. (Xem phụ bản 11.)
Thói thường, con người không chiến thắng
được các thói hư tật xấu cùng những ham muốn thấp hèn của bản thân, bởi vì
những thứ ấy có sức mạnh quyến rũ vô cùng ghê sợ. Những thói hư tật xấu hoặc
ham muốn thấp hèn đều do thất tình lục dục sai khiến, mà thất tình lục dục là
một đám giặc loạn nơi tâm khó mà diệt đặng cho yên. Đức Chí Tôn dạy:
“Thất
tình lục dục là mối loạn hằng ngày ở trong tâm trí, khôn phương trừ khử. Một
đám giặc liệt cường tài trí đánh phá ruồng trong núi cao non thẳm còn dễ trừ dẹp
đặng, chớ mối loạn nơi tâm khó mà diệt đặng cho yên, nhứt là ma lục dục (nhãn,
nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý), nó phá hại hằng ngày.
Nhãn thì
ưa màu sắc tốt đẹp.
Nhĩ thì
thích nghe những giọng nói tao nhã thanh bai.
Tỷ thì
ưa mùi thơm, hơi ngọt.
Thiệt
thì thích nếm vật lạ, món ngon.
Thân thì
mến vợ đẹp, hầu xinh, cả dục tình cùng dâm niệm.
Ý lại tư
tưởng vất vơ quấy quá. Mà nhứt là ý, là mối đại hại cho con người. Nó tư tưởng
sự này sang sự nọ, chuyện ấy hết chuyện kia. Nó xẹt vô nhảy ra lẹ làng không
chi ngăn đón nó đặng. (…)
Còn
thân. Cái thân thể muốn sự dâm dục quá độ mới hao tán nguơn tinh, nguơn khí,
nguơn thần.
Thiệt là
lưỡi. Miệng ham ăn món ngon vật lạ, đồ mỹ vị cao lương, nên phạm tội sát sanh
mà sa đọa vào đường lục đạo.
Tỷ là
mũi. Mũi ưa thơm tho mới khiến lòng ham muốn.
Nhĩ là
tai. Tai nghe điều phi lễ.
Nhãn là
mắt. Mắt ngó thấy sự tốt đẹp màu sắc thì lòng dục dấy lên.
Vậy thì mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, thân ham
đều xúm làm cho thân xao động sanh lòng quấy quá.” ([23])
Lời dạy của Đức Chí Tôn
cho chúng ta thấy rằng đám giặc thất tình lục dục là một đám giặc loạn nơi tâm
không dễ gì chế ngự. Muốn giành được chiến thắng trong cuộc đấu tranh với đám
giặc nội tâm này, hành giả phải trải qua biết bao khó khăn và đau khổ.
Một trong các vị Tiền
Khai Đại Đạo của chúng ta có lần phải tự đánh mình một trăm roi để chế ngự đám
giặc thất tình lục dục đang loạn động.
Một vị tu sĩ trẻ tuổi
ngồi chẻ củi không ngừng tay dưới trời nắng chang chang mồ hôi nhễ nhại để hành
phạt thân mình đang có những ham muốn thấp hèn trái đạo lý.
Một cư sĩ tại gia thường
xuyên bị đám giặc lòng quấy nhiễu nên tự mình bỏ cục than hồng đang cháy rực
vào lòng bàn tay để tự răn đe mình, mỗi khi mở lòng bàn tay nhìn thấy vết sẹo
là tự nhắc nhở phải chiến thắng mình.
Tất cả những con người ấy
đều kiên cường nỗ lực tự chiến thắng mình một cách vô cùng oanh liệt.
Các Đấng thiêng liêng từ
bi chỉ dạy cho chúng ta một số phương cách để rèn luyện nội tâm cho mạnh mẽ
kiên cường hầu có thể chiến thắng những trận giặc bất chính nơi tâm hay cũng là
tự chiến thắng mình:
Người tu cần lập chí cho dũng mãnh.
Thầy dạy
người tu rằng muốn chiến thắng được giặc nội tâm, thì cần phải lập chí, mạnh bạo,
cương quyết, tức là có ý chí dũng mãnh:
“Làm người
phải lập chí cho cao thượng, đừng để thất tình cám dỗ, lục dục khiến sai. Mình
phải mạnh bạo cương quyết mà làm chủ nó, chớ đừng yếu ớt lôi thôi để nó làm chủ
mình. Rồi nó muốn chi cứ phải vừa theo ý nó mãi hay sao?” ([24])
Đức Hưng
Đạo Đại Vương dạy người tu phải lập chí cho dũng mãnh:
“Muốn làm Tiên làm Phật phải lập chí cho dũng mãnh, có
gan đoạn cắt những tương quan nhỏ hẹp giữa tình đời ân ái lợi danh, làm
người đại nhơn quân tử, vì đời nên đạo.”
Cần phải luôn luôn tỉnh thức.
Hãy tỉnh thức, quán xét tâm mình từng giờ, từng
phút, từng giây, không một thời khắc nào buông lơi hay chểnh mảng. Chỉ cần tâm
mình sơ hở một chút là thập tam ma sẽ thừa cơ loạn động ngay.
Đức Như ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn dạy người tu cần phải gìn giữ lục căn là nhãn,
nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cho cẩn mật, biến lục căn thành sáu vị tướng oai hùng
ngăn chận lũ ma vương. Người tu cần phải
luyện cường binh để quét sạch ngay vọng duyên vừa muốn khởi mầm không để cho
chúng có điều kiện óng dậy khuấy phá:
Chính mình luyện cường binh chiến thắng
Chính mình làm cho đặng chủ nhân
Trong
tay nắm vững thời thần
Sáu
căn chớ để sáu trần nhiễm ô.
Sáu
căn ấy ra vô đúng tiết
Là tướng
hùng oanh liệt sáu phương
Dưới
trên ngăn lũ ma vương
Đông
tây nam bắc biên cương giữ gìn.
Không
dấy động vì tình vì cảnh
Không
đảo điên bổn tánh chơn tâm
Vọng
duyên vừa muốn khởi mầm
Một quốc
gia xã hội có chủ quyền, một gia đình cũng có chủ quyền, một bản thân cũng thế. Cần phải kiên quyết nắm giữ chủ quyền của
bản thân. Đức Bảo Pháp Chơn Quân dạy:
“Bước
vào lãnh vực nội giới tâm linh, hành giả phải là người biết chủ động và tìm mọi
cách để bảo trì quyền chủ động của chính mình. Có như vậy mới chiến thắng, sai
sử được quần ma nội tại hầu hóa dục thăng hoa như trời đất. Hành giả suốt thấu
ý nghĩa này mới hoàn thành được phương tu luyện kỷ.” ([26])
Tự đặt cho mình một kỷ luật riêng tư khắt khe gò bó.
Đức Đông Phương Chưởng
Quản dạy:
“[Cái
khó của người tu là] ở chỗ chế ngự nội
tâm, rèn lòng luyện tánh. Người ta có thể dùng uy quyền danh lợi vật chất để thắng
kẻ khác, nhưng chính mình đã thua và tự thua mình ở chỗ giải đãi biếng lười,
phiền não, sân si, tật đố, ố nhơn thắng kỷ. Đó là cái khó. Vì khó ấy mà ngọn
đèn từ huệ nội tâm bị che lấp ánh thiên quang, trở nên thường nhân mê muội thì
tha hồ cho đỉnh chung lôi kéo, danh lợi níu trì, phú quý rủ ren, tiền tài dẫn dắt.
(...)
Thế nên người tu học phải tự mình đặt cho
mình một kỷ luật riêng tư khắt khe gò bó, vừa với sức mình rồi hằng ngày tuần tự
nhi tiến đều đều liên tục.” ([27])
Hãy tự xem mình là người đại diện của tập thể.
Hãy tự
xem như thế để không làm điều gì mất danh dự của tập thể. Đức Đông Phương Chưởng
Quản dạy:
“Hằng ngày phải xem mình là một đơn vị cá
nhân trong tập thể, phải trở thành hiền nhơn quân tử và thánh nhân tại thế
gian. Có tưởng và đặt mình ở cương vị ấy mới không thể nói một lời nói vô bổ và
tổn đức thất nhân tâm, hành động một hành động vô bổ tổn đức thất nhân tâm. Có
đặt cho mình ở cương vị đó mới tự thấy mình là mục tiêu để thiên hạ trông vào
mà chỉ trích phê phán những hành động ngôn ngữ tầm thường của mình mà không dám
làm không dám nói. Có tưởng như vậy mới có tinh thần hướng thượng liên tục nuôi
dưỡng thường xuyên ngày một ngày qua, tháng một tháng qua, năm một năm qua, dần
dần trở thành thói quen là người chí thiện chí mỹ vậy. Đó là bậc thánh nhân tại
trần rồi chớ còn gì nữa.” ([28])
Thường
xuyên cầu nguyện, đọc thánh ngôn, thánh giáo.
Cầu nguyện
là phương cách giúp hành giả nhận được sự trợ giúp từ Thiêng Liêng. Cầu nguyện
và hướng thượng hằng ngày là phương cách tốt nhất để tự đặt mình trong vòng tay
che chở, hộ trì của các Đấng. Đức Quan Thế Âm Bồ Tát dạy:
“Nên nhớ
rằng mỗi một người tu hành trong lúc này đều có một bậc Chơn Linh hoặc Thiêng Liêng
âm phù mặc trợ. Mỗi ngày nên tưởng niệm để nhắc nhở tâm thức, liên lạc thông
công với phần Thiêng Liêng hộ trì. Nếu để trống không, Bần Sĩ e khó tránh khỏi
những tà quái, ngạ quỷ giựt giành. Hãy nhớ câu truyền khẩu từ xưa rằng buổi hạ
nguơn mạt kiếp, hễ con Phật, Phật rước; con ma, ma dẫn.” ([29])
Thường xuyên đọc thánh
ngôn, thánh giáo sẽ giải cứu hành giả thoát khỏi thất tình lục dục bao vây. Đức
Mẹ dạy:
“Thánh ngôn, thánh giáo là những tiếng gọi thiêng liêng
khi các con bị thất tình lục dục bao vây.” ([30])
Đặc biệt, trong Tam Kỳ
Phổ Độ, Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Thái Bạch Kim Tinh ban cho chúng ta pho kinh
Đạo Nhựt Thường Hành bao gồm hai mươi tám bài kinh như: Giới Sân Kinh, Giới Si Kinh, Giới Ái Kinh, Giới ố Kinh, Giới Tư Tưởng
Kinh, Giới Buồn Rầu Nhân Quả Kinh, v.v... ([31])
để người tu mỗi ngày đọc kinh là mỗi ngày tự nhắc nhở mình sống đúng theo đạo
lý và cũng để cầu xin sự trợ giúp của Thiêng Liêng. Chẳng hạn như thân ta
thường hay giải đãi biếng lười, bê trễ công phu thì ta hãy tụng đọc bài Giới Thân Kinh để được tinh tấn:
Thân phàm biếng nhác lừ đừ
Nhiều khi dã dượi chẳng từ ngủ ăn
Vì thân công đức trở ngăn
Mất điều lễ nghĩa hữu bằng tín trung
Từ đây con nguyện thủy chung
Lấy tâm làm chủ chẳng tùng theo thân
Uống ăn đi đứng có chừng
Giữ gìn thể tháo dưỡng thân tu hành
Xin Thầy ban chút ân lành
Cho con sửa tánh tập tành học tu.
Tham thiền tịnh định, giữ lòng thanh
tịnh.
Người tu
cần phải siêng năng công phu tham thiền tịnh định vì đây là phương pháp hữu hiệu
nhất giúp người tu an định nội tâm và chiến thắng được thất tình lục dục một
cách dũng mãnh. Đức Mẹ dặn dò chúng ta như sau:
“Hỡi các
con! Với tinh thần hành đạo dũng mãnh của các con Mẹ rất vui. Còn một việc là
các con ráng công phu tịnh định để thần an, trí huệ được khai thông mới khỏi lạc
lầm điều quyến rũ của ma vương rấp ranh bên
ngõ đạo.” ([32])
Tham thiền
tịnh định chính là phương pháp giúp người tu mài thanh gươm trí huệ cho thật
bén để chặt lìa oan gia trái chủ. Một khi gươm huệ chưa mài thì hành giả không
mong gì chiến thắng thập tam ma đang vây chặt lấy người hành giả nơi chốn Diêm
Phù (trần gian). Thật vậy, Đức Đông Phương Chưởng Quản dạy:
Muốn thử can trường kẻ học tu
Còn
chăng lưu luyến cõi Diêm Phù
Chưa rèn
gươm huệ chưa toàn thắng
Giữ lòng thanh tịnh thì
sẽ dễ dàng thông công cùng các Đấng để nhận được sự giúp sức của Thiêng Liêng.
Đức Mẹ dạy:
“Mẹ dặn từ nay
muốn tránh sự lừa phỉnh cám dỗ của yêu ma thì
lòng giữ cho thanh tịnh. Lòng được thanh tịnh thì sự liên lạc cùng Mẹ rất dễ dàng. Lòng ấy mãi yên lặng thì trí huệ phát hiện, quyền pháp sáng rỡ, người
con được nhẹ nhàng khỏe khoắn, lo gì quả vị Thần Tiên không
đạt.” ([34])
Hãy tự biết mình.
Xưa nay,
chúng ta vẫn thường nghe nói câu: “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng.”
Do vậy, muốn tự thắng mình cũng cần phải biết rõ mình như thế nào. Đức Mẹ dạy:
Con còn chẳng biết mình đâu đấy
Thì làm sao con thấy tội tình
Thế nên lịch kiếp tử sinh
Biết
mình là biết những điểm yếu của mình để mà phòng thủ và rèn luyện. Thế gian là
một trường huấn luyện và trường thi tiến hóa của con người. Thí sinh yếu môn
nào thì sẽ bị cho thi môn đó.
Người có
tánh tham mê tiền tài vật chất thì sẽ bị vật chất tiền tài câu nhử.
Người tham
đắm sắc dục thì bị sắc dục thử thách.
Người
ham thích danh vọng quyền chức thì bị danh vọng quyền chức cuốn lôi.
Nếu thi
rớt thì sẽ được Thầy cho thi lại, thi lại hoài cho đến khi nào đậu thì mới được
trở về ngôi xưa vị cũ. Người tu cần phải tỉnh thức nhận ra điểm yếu của chính
mình để rèn luyện mặt yếu ấy cho kiên cường mạnh mẽ để có ngày cá vượt long môn
mà hóa rồng.
Sau cùng, nên có sự giúp đỡ của bạn đạo.
Mặc dù
nói rằng cuộc chiến đấu với bản thân là một cuộc chiến thầm lặng và đơn độc,
tuy nhiên trong nhiều trường hợp, chúng ta vẫn có thể nhờ đến sự giúp đỡ của bạn
đạo cho ta thêm sức mạnh để vượt qua chính mình.
*
Cuộc chiến đấu với
những thói hư tật xấu cùng những dục vọng thấp hèn của bản thân là một cuộc
chiến trường kỳ dai dẳng cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời (chỉ khi đậy
nắp săng lại đóng đinh cộp cộp thì cuộc chiến mới tạm nghỉ). Do đó người tu cần
phải có lòng nhẫn nại bền bỉ và một quyết tâm cao độ.
Đức Đông
Phương Chưởng Quản dạy:
“…
không phải một sớm một chiều mà hàng phục được vọng tâm, chế ngự tập tánh
phiền tạp. Do đó, đòi hỏi người hành giả phải có đức kiên trì nhẫn nại trước mọi
nghịch cảnh.” ([36])
Đức Chí
Tôn từng khuyên các con cái của Người phải bền gan dũng chí vượt qua mọi thử
thách, quyết tiến tới chứ không được thụt lùi cho đến ngày toàn thắng:
“Sự tu
hành cam go khổ hạnh (…) trọn kiếp này, ví như con đường quanh co hiểm trở, (…)
phải bền gan, dũng chí vượt qua lắm chướng ngại, chông gai (…) quyết tiến tới
ngày đắc thành cũng như một dũng sĩ xông pha ngoài trận chiến, chỉ có tiến mà
không có lùi cho đến ngày đắc thắng cuối cùng.”
Cứ mỗi lần tự
thắng bản thân vượt qua chính mình là một lần đường về Bạch Ngọc Kinh được rút
ngắn một đoạn đường. Thầy dạy:
“Đường
đi Tây phương có nhiều chúa động ngăn cản đón đường. Các con hãy phấn khởi tinh
thần, qua đặng một ải là đặng gần Thầy một đỗi đường.” ([37])
Sau cùng, để có
thêm quyết tâm trên nẻo đường thiên lý trở về cùng Đức Đại Từ Phụ, tất cả huynh
tỷ đệ muội chúng ta hãy cùng ghi nhớ lời dạy của Đức Vạn Hạnh Thiền Sư:
Trên đời lẽ thắng với điều thua
Không phải dụng tiền để bán mua
Rèn luyện tâm linh cùng trí huệ
Xin nguyện
cầu cho tất cả huynh tỷ đệ muội chúng ta đều sẽ cùng hát vang lên ca khúc khải
hoàn trong ngày toàn thắng bản thân trở về cùng Đức Đại Từ Phụ.
Mùa tu
Thu Phân Tân Mão 2011
DIỆU
NGUYÊN
([21]) Cơ Quan Phổ Thông
Giáo Lý, 15-6 Quý Sửu (14-7-1973). Xem
thêm: Diệu Nguyên, Câu Chuyện Đức Tin. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2012, tr.
35.
Dự Nhượng người
nước Tần, theo phò Trí Bá được Bá rất yêu quý, tôn trọng. Sau khi Triệu Tương Tử
giết Trí Bá, Dự Nhượng nói: “Kẻ sĩ chết vì người tri kỷ. Ta phải liều chết báo
thù đền ơn.” Nhượng đổi họ thay tên, lẻn vào cung để đâm Tương Tử nhưng việc bại
lộ. Tương Tử thương kẻ trung nghĩa, tha chết. Dự Nhượng lại giả làm người cùi,
câm, không ai nhận ra tông tích. Nhượng nấp ở gầm cầu Tương Tử sắp đi qua, định
ám sát. Con ngựa Tương Tử cỡi bỗng hí lên sợ hãi. Tương Tử sai người đi lùng bắt
được Nhượng. Tương Tử trách: “Sao ngươi lại muốn báo thù đến như vậy?” Nhượng
đáp: “Trí Bá xem tôi như người quốc sĩ, tôi phải báo thù theo lối quốc sĩ.”
Tương Tử ngậm ngùi khóc: “Ta tha cho nhà ngươi thế cũng đã đủ rồi. Ta không tha
cho nhà ngươi nữa.” Nhượng nói: “Tôi xin chịu chết, nhưng xin cho tôi cái áo của
ngài để tôi thỏa chí báo thù.” Tương Tử khen có nghĩa, cổi áo đưa cho Nhượng.
Nhượng cầm gươm đánh vào áo ba lần, rồi trở ngược lưỡi gươm tự sát. Tương Tử
xem lại long bào thì thấy những nơi bị Nhượng đánh đều rướm máu, là do lòng chí
thành của Nhượng cảm ứng mà ra. Tương Tử rất hoảng sợ, sau đó ngả bệnh.
Nếu quý bạn thích có tập sách nhỏ này, kính mời quý bạn gởi thư về daidaovanuyen@gmail.com. Cảm ơn quý bạn quan tâm. (Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo)