VÔ NGUYỆN BẤT THÀNH
PHẬT DỮ TIÊN
Tu hành có lập nguyện thì tu mới mau
tiến. Có câu “Vô nguyện bất thành Phật dữ
Tiên”, nghĩa là người không lập nguyện thì chẳng thành Phật Tiên.
Vậy, chúng ta hãy thử tìm hiểu lý do vì
sao người tu cần phải lập nguyện. Có thể nêu lên hai lý do: một lý do mang tính
khách quan, và một lý do mang tính chủ quan.
1. LÝ DO KHÁCH QUAN
Thực sự, câu này có hai vế:
“Vô
nguyện bất thành Phật dữ Tiên”;
“Phật Tiên vô nguyện bất điều hiền”.
Không biết hai câu này được ghi trong quyển
kinh nào, chỉ biết trong quyển Tứ Đại
Điều Quy Giảng Nghĩa, phần giảng nghĩa điều quy thứ nhất, tiền bối Nguyễn Minh Thiện (1897-1972)
ghi như sau:
“Thử
xem các vị Phật Tiên thuở trước có ai không nhờ thệ nguyện mà đặng thành chăng?
Cho nên người tu trước phải thệ nguyện làm tin, rồi sau mới vững lòng mà hành
Đạo.
Trong kinh có câu: Vô nguyện bất thành Phật dữ Tiên,
Phật Tiên vô nguyện bất điều hiền, nghĩa là người không lập
nguyện chẳng thành Phật Tiên, còn Phật Tiên cũng chẳng độ người không lập nguyện.
Lời này đủ chứng tỏ sự thệ nguyện là quý trọng dường nào.”
Vậy, nếu tu mà không lập nguyện thì sẽ
không nhận được sự hộ trì của các Đấng thiêng liêng. Đây là lý do thứ nhất, lý
do khách quan, từ bên ngoài, từ tha lực ảnh hưởng đến kết quả tu hành của chúng
ta.
Thánh
Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển I, ghi lời Đức Chí Tôn dạy các
vị Tiền Khai trước khi mở Đạo như sau:
“Quỷ vương đến trước Bạch
Ngọc Kinh xin hành xác và thử thách các con. Thầy chẳng chịu cho hành xác,
chúng nó hiệp tam thập lục động toan hại các con. Nhưng phần đông chưa lập minh
thệ, nên chư Thần Thánh, Tiên Phật không muốn nhìn nhận.” (29-6 Bính Dần, 07-8-1926).
Năm 1934, Đức Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ
Tôn lập Nữ Chung Hòa Phái. Đức Mẹ cũng buộc các vị nào ghi tên vào bảng Nữ
Chung Hòa Phái đều phải lập minh thệ. Đức Lê Sơn Thánh Mẫu giải thích ý
nghĩa việc lập minh thệ như sau:
“Luôn đây, Mẹ giải nghĩa việc
minh thệ cho các con rõ. Nữ Chung Hòa Phái tuy là Tây Cung Kim Mẫu ban luật lệ,
nhưng có công đồng cả Phật Tiên, Thánh Thần. Vậy, mỗi con có tên vào bảng thì
phải có lập minh thệ mới đúng với luật Đạo. Còn các con có tên vào bảng mà
không có lời minh thệ, tức nhiên Phật Tiên, Thánh Thần không chứng chiếu cho
vào bảng. Vậy các con phải tuân theo, chớ cho rằng minh thệ là bó buộc. Mẹ phân
cho các con rõ: Bó buộc như thế cũng nên tuân theo, vì bó buộc cho xa điều dữ,
xa điều tục thế, xa cõi khổ não này. Bó buộc như thế có đúng chơn lý chăng?”
Pháp Sư Trần Huyền Trang (khoảng
602-664) vào đời nhà Đường (Trung Quốc) khi phát nguyện sang Thiên Trúc (Ấn Độ)
thỉnh kinh Phật, cũng lập nguyện rằng nếu không sang tới nơi, không lấy được
chân kinh thì sẽ không trở về và mãi mãi chịu đắm chìm nơi địa ngục.
Nhờ có lòng quyết tâm và lời đại nguyện
như vậy nên trên đường đi thỉnh kinh mặc dù phải trải qua vô vàn khổ nạn, Ngài
luôn luôn nhận được sự hộ trì và cứu giúp của chư Phật Tiên, Thánh Thần.
Trong nạn thứ nhất, khi bị sa xuống hầm
hố của bọn hổ gấu thành tinh, Ngài sắp bị ăn thịt thì được Đức Thái Bạch Kim
Tinh giáng trần giải cứu. Truyện Tây Du
Ký kể rằng sau khi giải cứu cho Ngài Đường Tam Tạng, Đức Thái Bạch Kim Tinh
đã hóa thành làn gió mát, cỡi một con hạc trắng mào đỏ, bay lên không trung, rồi
thấy một tờ thiếp phấp phới bay xuống, trên viết bốn câu thơ:
Ta,
sao Thái Bạch Tây Phương
Cứu
người nên phải tìm đường xuống đây
Đường
đi Thần giúp đêm ngày
Chớ
vì sóng cả rời tay buông chèo.
Ngoài ra, chúng ta còn thấy rằng các Đấng
Thần Thánh, Tiên Phật mặc dù đã đắc quả vị nhưng vẫn tiếp tục lập đại nguyện
cứu khổ cứu nạn chúng sanh.
Đức Phật A Di Đà có bốn
mươi tám lời đại nguyện mà quan trọng nhất là đại nguyện thứ nhất và thứ nhì.
Đại nguyện thứ nhất: Lúc tôi thành Phật, nếu trong cõi nước tôi có địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi không ở ngôi chánh giác.
Đại nguyện thứ hai: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi
nước tôi, sau khi thọ chung, còn trở lại sa vào ba đường ác đạo thì tôi không ở
ngôi chánh giác.
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát có mười
hai lời đại nguyện. Có thể kể ra một số lời đại nguyện của Ngài như sau:
- Nguyện rằng chúng sanh ở cõi ta bà hay
cõi u minh mà có lời cầu nguyện Ngài thì Ngài sẽ đến nơi để tận độ.
- Nguyện ngày đêm tuần du khắp chốn, đến
cả cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh để độ rỗi chúng sanh khỏi vòng tổn hại.
- Nguyện tự tay cầm tràng phan và bảo cái
([1]) để
tiếp dẫn hồn kẻ lìa trần đến cõi Tây Phương cực lạc.
Sang Tam Kỳ Phổ Độ, khi Đức Chí Tôn rời
Bạch Ngọc Kinh xuống trần lập đạo Cao Đài, Thầy cũng lập đại nguyện. Đại nguyện của Thầy như sau:
“Sao
mà đời không chịu gia tâm suy nghĩ, để đặng tầm Thiên cơ cầu diệu lý mà luyện
kỷ, hầu quày trở lại chỗ nguyên thỉ cựu ngôi.
Để
làm chi cứ mang lấy nạn khổ mãi luân hồi, THẦY dòm thấy luống chua xót đứng
ngồi không yên dạ.
Nên
hội Tam Giáo công đồng, THẦY lập tờ đoan thệ, đem Đạo mầu phổ hóa độ tất cả đám
quần sanh.
Nếu
các con chẳng chịu tu hành, không bỏ dữ làm lành, Đạo không thành
THẦY nguyện không trở về ngôi vị cũ” ([2])
Sau đó, Thầy dạy tiếp:
Muôn
kiếp các con chịu lạc đường
Thấy
vầy Thầy luống động lòng thương
Nên đoan thệ với hàng Tiên Phật
Như
vậy, chúng ta thấy rằng ngay cả các Đấng Phật Tiên và thậm chí Đức Chí Tôn là
Đấng chúa tể càn khôn vũ trụ mà còn lập đại nguyện thì lẽ nào người tu chúng ta
muốn hoàn thành sứ mạng, đắc thành đạo quả lại không lập nguyện.
2. LÝ DO CHỦ QUAN
Việc cần thiết phải lập nguyện mang tính
chủ quan, xuất phát từ ý thức tự nguyện của hành giả. Chúng ta thử khảo sát một
số lời nguyện sau đây:
Lời
minh thệ nhập môn:
“Con
tên là . . . tuổi . . . từ nay biết một Đức Cao Đài Ngọc Đế, chẳng đổi dạ đổi
lòng, hiệp cùng chư môn đệ gìn luật lệ Cao Đài, như sau có lòng hai thì thiên
tru địa lục.”
Lời
thề của môn sinh đạo Minh Sư:
“Nhược
hữu nhị tâm, song nhãn lạc địa, thân hóa nùng huyết, Thiên khiển lôi tru.”
(Nếu như có hai lòng, hai mắt rớt xuống
đất, thân xác hóa ra máu mủ, Trời cho sét đánh chết.)
Lời
thề của đệ tử phái Chiếu Minh:
Nếu
con không giữ lời nguyền
Ngàn
năm trâu ngựa để đời làm gương.
Qua khảo sát một số các lời nguyện trên
đây, chúng ta thấy lời nguyện nào cũng có phần ràng buộc rất nghiêm trọng. Do
đó, người tu một khi đã lập nguyện rồi thì cũng chẳng khác nào người tử tù
trong chuyện sau đây:
Một
tử tù được nhà vua ân xá kèm theo điều kiện: Nếu bưng một chén rượu rót đầy tới
miệng và đi đủ ba vòng giữa các mỹ nữ đang múa hát trong tiếng nhạc bổng trầm
réo rắt mà không làm sớt một giọt nào ra ngoài thì ông ta sẽ được tha tội chết.
Để được thoát chết, người tử tù chỉ còn một cách duy nhất, là tập trung hết
tinh thần vào việc giữ cho chén rượu không bị sớt ra ngoài một giọt nào.
Người tu hành một khi đã lập nguyện thì
chẳng khác người tử tù trong chuyện trên. Giữa muôn ngàn cạm bẫy cám dỗ ở cõi
thế gian, người tu muốn giữ tròn lời thệ nguyện phải tập trung hết tinh thần
vào việc tu công luyện kỷ, không được giây phút nào xao lãng.
Do đó lời nguyện có tác dụng thúc đẩy
hành giả phải chuyên tâm trì chí trên con đường Đại Đạo, chỉ có tiến chứ không
thể bước lui; bởi vì với lời thệ nguyện, thối lui đồng nghĩa với chết, không
phải chỉ chết thân xác một kiếp này mà còn chết về phần tâm linh, chịu ngàn năm
muôn kiếp đọa đày bất năng thoát tục.
Điều này khiến chúng ta nhớ tới hình ảnh
con ngựa kéo xe bị che cả hai bên mắt nên không thể nhìn qua nhìn lại cảnh vật
hai bên đường mà chỉ còn biết nhìn thẳng một đường tiến lên phía trước.
Ngược lại, nếu không lập nguyện thì hành
giả dễ mắc phải chứng bệnh giải
đãi, biếng lười nên tu hành bê trễ, không tinh tấn siêng năng.
Ngày nay, trong đạo Cao Đài, khi cầu xin học
lên bậc sơ thiền tiến đạo nội công hấp khí, các tịnh viên cũng phải lập thệ:
Nguyện giữ trường trai tuyệt dục, nếu phạm thệ sẽ bị đọa tam đồ bất năng thoát
tục.
Đức Bát Nương giảng giải về hình phạt đọa
tam đồ bất năng thoát tục như sau:
“Thảng
như bị đọa tam đồ bất năng thoát tục thì chơn linh bị ngăn cản không được hiệp
với chơn thần, làm cho đệ nhị xác thân (chơn thần) phải trở lại chuyển kiếp từ
bực kim thạch cho đến làm người,([4]) và phải chuyển kiếp trở lại bực kim thạch đủ
ba vòng mới được khởi lập công lại.
[Một vị hầu đàn bạch:]
- Có
phải ba vòng đều trở lại từ bực kim thạch không?
-
Phải vậy.
- Một
vòng cũng đủ giác ngộ rồi cần gì ba vòng?
Cũng do lời nguyện hệ trọng như thế nên
Ơn Trên thường từ bi lưu ý chúng ta hãy suy nghĩ cẩn thận trước khi lập nguyện,
nhất là khi hành giả muốn bước vào con đường đại thừa thiên đạo.
Đức Đông Phương Chưởng Quản dạy:
“Ngày
xưa, nếu một ai muốn tìm đạo trường sanh siêu thoát phải dày công nhọc sức để
kiếm tìm minh sư, và phải minh thệ một cách thiết thực, gọi là đại hồng thệ mới
được khẩu khẩu tương truyền. Ấy thế mà vẫn có người phạm hồng thệ để bị đọa
tam đồ bất năng thoát tục.
Ngày
nay, thời kỳ đại ân xá, chư đệ muội được bước vào cửa pháp môn, không có một
điều kiện ràng buộc khó khăn như khi xưa. Nhưng Bần Đạo khuyên chư hiền đệ,
hiền muội đừng xem đó là tầm thường mà dể lờn. Không phải có đại hồng thệ mới
có sự trừng phạt của Thiên luật, còn không đại hồng thệ lại được tự do. Càng
không bắt buộc lại càng có nhiều hình phạt cận kề đúng theo luật Thiên điều
trong đại ân xá này đó, chư hiền đệ.
Vậy
nơi đây, chư hiền đệ nào muốn phát tâm vào trường chơn đạo hãy tự vấn lấy lòng
mình cho kỹ lưỡng rồi sẽ bước đến. Đức từ bi tận độ luôn luôn phổ cập chúng
sanh, chỉ ngại chúng sanh khinh thường mà đắc tội vậy.” ([6])
Tóm lại, khi lập nguyện người tu sẽ nhận
được sự trợ lực từ hai phía:
Từ tha lực, chính là sự hộ trì của các Đấng
Thiêng liêng.
Từ nội lực, tức là sự nỗ lực của bản thân
hành giả để giữ trọn lời nguyện ước với Ơn Trên. Có như thế thì việc tu hành
mới ngày càng tinh tấn thêm hơn.
Thiển nghĩ, mỗi hành giả trên bước đường
tu học và hành đạo cần nên ghi nhớ lời Đức Hà Tiên Cô khuyên dạy:
Tẩy
tâm thanh tịnh trọn lòng
Chí thành lập nguyện, ân hồng
bố ban.
DIỆU NGUYÊN
Nếu quý bạn thích có tập sách nhỏ này, kính mời quý bạn gởi thư về daidaovanuyen@gmail.com. Cảm ơn quý bạn quan tâm. (Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo)