CẢM ĐỀ BÁT QUÁI ĐỒ THIÊN
Truyền Trạng THANH CĂN
Tịnh lòng nhớ đến miền Tây
Cuối trời Nam Việt Đạo Thầy khởi đoan
Từng cơn gió nhẹ miên man qua đầm.
Sắc nước gợn xa xăm
Bát Quái tây nam trấn
Đất
Hà Tiên uy linh sinh tuấn kiệt
Trời Nam sáng tỏ
Đại Đạo Kỳ Ba
Chung tình huynh đệ một Cha, hóa gần.
Bao đời ta vẫn nhớ
Cảnh Bát Quái Đồ Thiên
Xưa tiền nhân tạo dựng
Nay hậu thế lưu truyền.
Lưu truyền tiếng gọi Thiêng Liêng
Đây nơi trở lại bổn nguyên Cao Đài
Nhất nguyện Đại Đạo hoằng khai
Vạn thù quy nhất là ngày thành danh.
Danh Đạo, danh Thầy
Ẩn trong Bát Quái
Phát dương quang đại
Sự lý hiện bày
Bản đồ Thiên định chẳng sai mảy hào.
Kiền nguyên
cương kiện
Khôn trinh thuận
nhu
Tên để ngàn thu.
Đoài vượng vui
vì độ chúng sinh
Thi ân, kính ái, vẹn chân tình
Ly cung sáng
chói xua đêm tối
Ngay thẳng đèn lòng, ngọn huệ minh.
Chấn tâm kiên
định lập
Luôn tự lực, tự cường
Tốn như làn
gió dịu
Truyền hơi mát tình thương.
Khảm phùng vượt
mọi gian nguy
Không phân cao thấp, kiên trì giúp
nhau
Cấn cung, lòng
chẳng xuyến xao
Định yên, hồn hậu với bao chân thành.
Tám cảnh trùm tám quẻ
Còn lại quản trung cung.
Trung cung thánh thất đã nên hình
Ai hỡi có đi miền cuối Việt!
Truyền
Trạng THANH CĂN
Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên
Bến Tre, 02-7-2013
([2]) Đông Hồ 東湖 rộng khoảng 1.047 mẫu tây (có sách ghi 14 cây
số vuông), là nơi hợp lưu giữa kênh Vĩnh Tế với sông Giang Thành trước khi đổ
ra vịnh Thái Lan. Từ trên cao nhìn xuống, núi Tô Châu (Đại Tô Châu, Tiểu Tô
Châu), núi Kim Dữ và núi Bình San vây quanh Đông Hồ, không còn trông thấy cửa
biển. Đông Hồ là cảnh thứ bảy trong mười cảnh đẹp ở Hà Tiên, lưu danh với bài
thơ Đông Hồ Ấn Nguyệt 東湖印月(hồ phía đông in hình trăng)
của Mạc Thiên Tứ 鄚天賜
(1718-1780) sáng tác tại Hà Tiên. Mười bài thơ của họ Mạc gọi chung là Hà Tiên Thập Cảnh Khúc Vịnh 河仙十景曲詠.
([3]) Bát Quái tây nam trấn / Đồ Thiên đông bắc lâm 八卦西南鎮
/ 圖天東北臨: Ý nói Đức
Chí Tôn sắc tứ đặt Bát Quái trấn giữ vùng đất phía tây nam nước Việt, và lệnh
xây dựng thánh thất nơi đây như là một bản đồ Trời (Thiên thơ tiền định), để
minh thị thánh ý oát triền vô biên
hay nhứt bổn tán vạn thù, vạn thù quy nhứt
bổn. Thế đứng của thánh thất hướng về Đông Hồ phía bắc (臨 lâm: nhìn ra; hướng về / to face).
([4]) Thị xã
Hà Tiên thuộc tỉnh Kiên Giang. Anh hùng Nguyễn Trung Trực (1839?-1868) lập
chiến khu ở Sân Chim (tả ngạn sông Cái Lớn, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang),
rồi dẫn quân đến Hòn Chông (nay thuộc xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên
Giang), lập thêm căn cứ chống Pháp. Ở Kiên Giang, lúc 4 giờ sáng ngày
16-6-1868, Nguyễn Trung Trực dẫn quân từ Tà Niên (nay là xã Vĩnh Hòa Hiệp,
huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang) đánh úp đồn Kiên Giang, chiếm được đồn, tiêu
diệt 5 sĩ quan Pháp, 67 lính, thu trên 100 khẩu súng và nhiều đạn dược, làm chủ
tình hình được năm ngày liền.
([5]) Sông Giang
Thành dài khoảng 23 cây số, bắt nguồn từ Campuchia chảy vào Việt Nam
theo hướng bắc nam, rồi đổ vào Đông Hồ ở Hà Tiên trước khi ra vịnh Thái Lan. Khi cai trị trấn Hà Tiên,
Mạc Thiên Tứ cho xây dựng ở Giang Thành một lũy đất dài 17 cây số, rộng khoảng
1 mét, chạy dài từ bờ sông đến chân núi Châu Nham, và cho đặt vài đồn canh
phòng.
([8]) Theo Gia Định Thành Thông Chí 嘉定城通志 của Trịnh Hoài Đức (1765-1825)
thì Kim Dữ ở vùng bãi biển phía nam trấn Hà Tiên, chu vi 193 trượng
5 thước
ta. Đảo Kim Dữ là cảnh thứ nhất trong mười cảnh đẹp ở Hà Tiên, lưu danh với bài
thơ Kim Dữ Lan Đào (金嶼攔濤 đảo vàng ngăn sóng) của Mạc
Thiên Tứ. (Dữ 嶼 là đảo
nhỏ / islet.)
([11]) Thạch
Động 石洞: Theo con đường nhựa từ trung tâm thị xã
Hà Tiên về hướng biên giới tây nam (sang Campuchia), đi khoảng ba cây số thì
gặp núi đá vôi Thạch Động (cao chừng 10 mét) nằm ven đường, mọc nhiều cỏ dại và
cây xanh. Leo hết những bậc thang thì thấy một hang cao và rộng, có nhiều thạch
nhũ lạ mắt. Ở đó còn có một ngách hang ăn sâu xuống lòng đất. Thạch Động là
cảnh thứ năm trong mười cảnh đẹp ở Hà Tiên, lưu danh với bài thơ Thạch Động Thôn Vân 石洞吞雲
(động
đá nuốt mây) của Mạc Thiên Tứ.
([12]) Núi Đá Dựng còn gọi là Châu Nham (núi
Ngọc) vì trong núi có thạch nhũ lấp lánh nhiều màu đẹp như ngọc. Cách thị xã Hà
Tiên 6 cây số và Thạch Động 2 cây số về hướng tây bắc, núi Đá Dựng có hình
thang cân, cao khoảng 100 mét, vách đá dựng đứng, trong núi có nhiều hang động.
Núi Đá Dựng là cảnh thứ sáu trong mười cảnh đẹp ở Hà Tiên, lưu danh với bài thơ
Châu Nham Lạc Lộ 珠岩落鷺 (cò về núi Ngọc) của Mạc Thiên
Tứ.
([13]) Theo Gia Định Thành Thông Chí thì
Lư
Khê là một khe nước cách trấn Hà Tiên 7 dặm rưỡi về phía đông, cách núi Tô Châu 4 dặm rưỡi về phía đông,
phía nam thông với biển. Rộng 2,5 trượng,
sâu 5 thước ta, dài 5 dặm rưỡi,
dòng khe chạy vòng lên phía bắc chảy vào Đông
Hồ. Lư Khê là cảnh thứ mười trong mười cảnh đẹp Hà Tiên, lưu danh với
bài thơ Lư Khê Ngư Bạc 鱸溪漁泊 (thuyền đánh cá cập khe Lư).
([14]) Bãi Nam (Nam Phố) là bãi cát dài và rộng, nằm phía trước hai núi Đại và
Tiểu Tô Châu, bên trái vàm sông Giang Thành (còn gọi là sông Hà Tiên), lối vào
Đông Hồ, nơi có nhiều chim vạc tụ bầy kiếm ăn. Bãi Nam là cảnh thứ tư trong mười cảnh đẹp ở Hà
Tiên, lưu danh với bài thơ Nam Phố Trừng Ba 南浦澄波
(Bãi Nam
sóng lặng) của Mạc Thiên Tứ.
([15]) Mũi Nai xưa kia gọi là Mũi Nạy vì
có núi Pù Nạy (người Khmer nói trại là P’Nay hay Bà Nay). Người Việt nói trại Nay thành Nai; người Hoa dịch Pù Nay là Lộc Trĩ
鹿峙 (Mũi
Nai). Mũi Nai là cảnh thứ chín trong mười cảnh đẹp ở Hà Tiên, lưu danh với bài
thơ Lộc Trĩ Thôn Cư 鹿峙村居
(thôn
xóm Mũi Nai) của Mạc Thiên Tứ.
([18]) Thánh tử (Thánh tử đạo / Martyrs): Hơn hai trăm chức sắc và bổn
đạo bám trụ quyết tâm xây dựng thánh thất hoặc đã bị thực dân Pháp giết hại,
hoặc phải hy sinh tánh mạng vì trọng bệnh trong điều kiện thiên nhiên rất khắc
nghiệt. Đầu tháng 4-2012 tất cả các vị tử vì Đạo đều được cải táng và quy tập
tại An Dưỡng Địa của họ đạo Bát Quái Đồ Thiên.