Thứ Tư, 15 tháng 3, 2017

BÁT QUÁI ĐỒ THIÊN XƯA VÀ NAY 6/6

Ngoại tập: NGÔ TIỀN BỐI Ở HÀ TIÊN
HUỆ KHẢI
Sau khi rời Mỹ Tho lên Sài Gòn học ở collège Chasseloup-Laubat,([1]) vào năm hai mươi mốt tuổi, tiền bối Ngô Văn Chiêu (1878-1932) đậu bằng thành chung (diplôme d’études primaires supérieures). Từ đấy tiền bối bắt đầu quãng đời công chức (1899-1931) với nghề thơ ký tại Sở Tân Đáo ở Sài Gòn (từ 23-3-1899).([2]) Kế tiếp, tiền bối làm thơ ký Phủ Thống Đốc Nam Kỳ (từ 01-01-1903); rồi thơ ký Tòa Bố tỉnh Tân An (từ 01-5-1909).([3])
Năm 1917 Ngô tiền bối thi đậu ngạch tri huyện, được bổ làm chủ quận Tân An. Thân mẫu từ trần (1919); mãn tuần bá nhựt (một trăm ngày) của thân mẫu (01-3-1920), tiền bối xin chuyển đi làm việc ở tỉnh Hà Tiên.
Chép về nhân duyên Ngô tiền bối Chiêu đi Hà Tiên, Lịch Sử Quan Phủ Ngô Văn Chiêu cho biết: “Đầu năm 1920, buồn vì mẹ mới tạ thế lại không muốn liên can vào công việc thiếu liêm chánh của vài bạn đồng liêu nên Ngài quyết định đưa đơn xin đổi đi Hà Tiên.” ([4]) Thế là: “Vừa làm tuần bá nhựt cho bà thân Ngài xong là được giấy đổi đi Hà Tiên.” ([5])
Quyển Lịch Sử Quan Phủ Ngô Văn Chiêu cũng cho biết rằng trong thời gian tòng sự ở Hà Tiên, Ngô tiền bối đã hiệp cùng với các ông Đốc Phủ Cao Văn Sự, Lâm Tấn Đức, Nguyễn Thành Diêu và Phán Ngàn cầu cơ.([6])
Sách ấy cho biết, vào đêm trung thu năm 1920, trong một đàn cơ lập tại nhà ông Lâm Tấn Đức, song đồng ([7]) là ông Đức và ông Sự, các vị đã tiếp được bài thơ như sau:
Cao Đài minh nguyệt Ngô Văn Chiêu
Linh lung vạn hộc thể Quan(g) Diêu
Vô thậm Sự Đức nhiệm ngao du
Bích thủy, thanh sơn tương đối tiếu.([8])
Quan (hay Quang?) chưa rõ là tên ai.
Diêu, Sự, Đức là các ông Nguyễn Thành Diêu, Đốc Phủ Cao Văn Sự, Lâm Tấn Đức.
Mà Lâm Tấn Đức là nhân vật thế nào ở đất Hà Tiên?
Cháu dâu họ Lâm là nữ sĩ Mộng Tuyết (nhũ danh Thái Thị Úc, 1914-2007), tức bà Đông Hồ Lâm Tấn Phác, khi xuất bản bộ sách Núi Mộng Gương Hồ (ba quyển) có cho biết về họ Lâm như sau:
Tổ tiên họ Lâm từ tỉnh Phước Kiến (Trung Quốc), có lẽ sang Hà Tiên cùng thời kỳ với Mạc Cửu 鄚玖 (1655-1736). Đời ông Lâm Trường Thọ sinh ra ông Lâm Quang Huy. Ông Huy có hai con trai và một gái là:
- Lâm Tấn Đức (tự Hữu Lân, không con).
- Lâm Tấn Thoại (cha của Đông Hồ Lâm Tấn Phác).
- Lâm Tố Hoa.([9])
Trong cùng năm, cách nhau hai tháng, ông Lâm Tấn Thoại (khoảng ba mươi tuổi) và vợ (nhũ danh là Phụng) qua đời lúc Phác mới lên ba. Phác cùng hai chị là Lâm Quế Thanh và Lâm Ngọc Anh được ông Lâm Tấn Đức và vợ là Phan Thị Cạo đem về nuôi.([10])
Ông Lâm Tấn Đức mất ngày 21-6 Giáp Tuất (Thứ Tư, 01-8-1934), sáu mươi tám tuổi. Đông Hồ Lâm Tấn Phác trông nom việc xây mộ cho bác. Mộ này nằm “ở bên trái khuôn viên ba ngôi mộ ông nội Lâm Quang Huy và cha mẹ của Đông Hồ” ([11]) Đông Hồ viết trên mộ bia của bác ruột bốn câu thơ cổ:
Nhứt phiến bạch vân thanh sơn nội
Nhứt phiến bạch vân thanh sơn ngoại
Thanh sơn nội ngoại bạch vân phi
Bạch vân phi khứ thanh sơn tại.([12])
一片白雲青山內 
一片白雲青山外 
青山內外白雲 
白雲飛去青山在
(Một mảng mây trắng trong núi xanh
Một mảng mây trắng ngoài núi xanh
Trong ngoài núi xanh mây trắng bay
Mây trắng bay đi còn núi xanh.)
Bốn câu này là một bài thơ cổ của Trung Quốc, không rõ tên tác giả. Hai chữ đầu câu 1 và câu 2 có dị bản là Phiến phiến 片片Câu 3 có vài dị bản, chẳng hạn:
 Thanh sơn nội ngoại hữu bạch vân 青山內外有白雲 (Trong ngoài núi xanh mây trắng).
Thanh sơn nội ngoại giai bạch vân 青山內外皆白雲 (Trong ngoài núi xanh đều mây trắng)…
Trở lại chuyện ông Hữu Lân Lâm Tấn Đức. Là người thông minh, văn hay, viết chữ Hán đẹp, tướng bệ vệ, ông được cử làm hương chủ ([13]) trong làng. Dân chúng Hà Tiên lại tôn ông làm kế hiền (cũng như cố vấn).
Tương truyền một người Pháp mới được chuyển về làm chủ tỉnh Hà Tiên; y đòi chức việc địa phương đem các sắc phong nơi miếu thờ Mạc Cửu ra Tòa Bố cho y xem. Ông Hữu Lân bày mẹo, bảo mọi người cứ làm theo lịnh chủ tỉnh, nhưng các bậc kỳ lão phải mặc áo thụng xanh, sắp đặt nghi thức y như tổ chức lễ kỳ yên, nghĩa là có đám rước to, thổi kèn đánh trống, mang theo đủ cả cờ lọng và đồ lỗ bộ.([14])
Sáng hôm ấy, chủ tỉnh đang làm việc thì đoàn người thỉnh sắc thần ra Tòa Bố cho y xem. Thấy cảnh tượng đó, chủ tỉnh không dám vô lễ, vội yêu cầu các kỳ lão rước sắc thần trở về đền thờ.([15])
*
Về việc ông Lâm Tấn Đức thường cùng tiền bối Ngô Văn Chiêu cầu cơ, trong một lần trả lời phỏng vấn của một nhóm sinh viên Đại Học Văn Khoa (Sài Gòn), Đông Hồ Lâm Tấn Phác (1906-1969) kể:
“Thầy bắt đầu biết làm thơ cũng có một kỷ niệm. Biết làm thơ rất sớm. Có một việc họa thơ vui vui còn nhớ. Ông Ngô Minh Chiêu khi chưa là giáo chủ sáng lập đạo Cao Đài, năm 1919-1920 làm tri huyện ở Hà Tiên.([16]) Ông thích theo mấy nhà Nho ở Hà Tiên, hầu đàn cầu tiên. Đàn tiên thường đặt ở nhà bác thầy [Lâm Tấn Đức].([17]) Ông Chiêu thường đến nhà bác đánh cờ. Thầy nhớ đêm đó là đêm rằm tháng Bảy, ông Chiêu đến ngồi chơi ngoài sân. Trăng sáng vằng vặc, thầy đương hầu trà không hiểu nghĩ sao ông ấy rủ:
- Tao với mầy làm thơ chơi.
Thầy khép nép bẩm:
- Thưa làm thơ gì?
- Làm thơ rằm tháng Bảy. Tao xướng cho mầy họa. Tao xướng vần “mù” đó, mầy họa đi!
Trong khi trở xuống bếp pha trà, thầy nghĩ ra bài thơ đem lên trình:
Đêm rằm tháng Bảy giữa canh thâu
Bốn phía trông ra chẳng chút mù
Thế giới một bầu nay tỏ rạng
Nhưng mà còn kém bữa trung thu.([18])
*
Tính từ lúc đáo nhậm Hà Tiên (đầu tháng 3-1920) cho đến ngày thuyên chuyển ra quận đảo Phú Quốc (26-10-1920), tiền bối Ngô Văn Chiêu chỉ tòng sự ở Hà Tiên trong vòng tám tháng. Thời gian tuy ngắn nhưng đã lưu lại trong gia tộc họ Lâm ở miền đất xa xôi này một giai thoại văn chương; hơn thế nữa, trong số quyến thuộc họ Lâm còn có một số người trở thành tín đồ Cao Đài, góp phần vào lịch sử buổi đầu của nền tôn giáo mới.(*) [19]
HUỆ KHẢI
Viết lại, 15-8-2013




([1]) Trường này thành lập ngày 14-11-1874, lần lượt đổi tên là lycée Chasseloup-Laubat (1928), lycée Jean Jacques Rousseau (1958), và sau cùng là trường trung học Lê Quý Đôn (từ 1966 cho tới nay).
Để biết rõ thêm cuộc đời Ngô tiền bối, có thể tham khảo: Huệ Khải, Ngô Văn Chiêu – Người Môn Đệ Cao Đài Đầu Tiên. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2012. Quyển 2-3 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.
([2]) Tân đáo 新到: Mới đến. Sở Tân Đáo (Service de l’Immigration) là cơ quan hành chánh quản lý những người vừa nhập cảnh, ngày nay gọi là sở di trú, sở quản lý nhập cảnh.
([3]) Tòa Bố (Inspection) là cơ quan hành chánh cấp tỉnh, sau này gọi là Tòa Tỉnh Trưởng.
([4]) Lịch Sử Quan Phủ Ngô Văn Chiêu. Sài Gòn 1963, tr. 13.
([5]) Lịch Sử Quan Phủ Ngô Văn Chiêu. Sài Gòn 1963, tr. 25.
([6]) Lịch Sử Quan Phủ Ngô Văn Chiêu. Sài Gòn 1963, tr. 25.
([7]) Song đồng: Hai đồng tử cùng nâng ngọc cơ (thủ cơ), cũng gọi là đồng tử âm dương (a pair of mediums).
([8]) Lịch Sử Quan Phủ Ngô Văn Chiêu. Sài Gòn 1963, tr. 26.
([9]) Núi Mộng Gương Hồ. Nxb Trẻ 1998. Tập I, tr. 29, 31.
Mộ bia ghi tên bà là Lâm Thị Đào Hoa (?-1901). Ông Huỳnh Kim Chung (?-1939) không có con trai nên chánh thất đi cưới Đào Hoa về làm thứ thất. Ông Chung tu theo đạo Minh Sư, pháp danh là Huỳnh Đăng Khoa. Ông Chung cất Quan Âm Phật Đường trên núi Dương Đông (Phú Quốc), và đứng tên chủ quyền đất ấy.
Lúc tiền bối Ngô Văn Chiêu làm chủ quận Phú Quốc thì con rể ông Chung là Phan Kim Tố làm thơ ký tại quận đường. Vợ ông Tố là bà Huỳnh Thị Kính (con ông Chung và bà Đào Hoa).
Năm 1960, ông Nguyễn Minh Truyện (đệ tử Chíếu Minh, đàn Long Hoa, quận 1, Sài Gòn) tìm được nền cũ Quan Âm Phật Đường. Biết ông Truyện muốn xây lại chùa để bảo tồn di tích nơi phát xuất đạo Cao Đài ở Phú Quốc, ông bà Phan Kim Tố hoan hỷ làm thủ tục pháp lý để hiến tặng lô đất này. Di tích ấy chính là Cao Đài Hội Thánh ngày nay.
([10]) Núi Mộng Gương Hồ. Nxb Trẻ 1998. Tập I, tr. 31, 33.
Bà Lâm Ngọc Anh sinh năm 1901. Chồng bà là Lý Văn Nhơn (1900-1967) từng dạy vẽ và chữ Nho tại Hà Tiên. Hai ông bà tu theo pháp môn Chiếu Minh.
Theo lời nữ sĩ Mộng Tuyết, ông Nhơn là người đầu tiên vẽ Thiên Nhãn. Năm 1924, rời Phú Quốc về Sài Gòn, Ngô tiền bối lại nhờ ông Phạm Văn Thới vẽ bức Thiên Nhãn khác.
([11]) Núi Mộng Gương Hồ. Nxb Trẻ 1998. Tập I, tr. 33.
([12]) Núi Mộng Gương Hồ. Nxb Trẻ 1998. Tập I, tr. 33-34.
([13]) Hương chủ: Cũng gọi ông chủ. Ban hội tề ở làng Nam Kỳ ngày xưa gồm mười hai người (hương chức) là: hương cả, hương chủ, hương sư, hương trưởng, hương chánh, hương giáo, hương quản, hương bộ (thủ bộ), hương thân, xã trưởng (thôn trưởng), hương hào, và chánh lục bộ. Hương chủ giữ công nho (ngân sách làng), hợp cùng hương cả trông coi việc làm của các hương chức khác.
([14]) Lỗ bộ: Những món binh khí dùng để rước lễ hoặc cắm vào giá, đặt ở cung đình hay đình miếu. Thường gồm có: mác, đao, kích, thương, búa, cờ mao , hai tấm bảng viết chữ túc tĩnh 肅靜 (bảo mọi người nghiêm túc, yên lặng) và hồi tỵ 迴避 (bảo dân chúng lánh ra chỗ khác)…
([15]) Núi Mộng Gương Hồ. Nxb Trẻ 1998. Tập I, tr. 26-27.
([16]) Đông Hồ đã nhầm lẫn hai lần khi nói: “Ông Ngô Minh Chiêu khi chưa là giáo chủ sáng lập đạo Cao Đài, năm 1919-1920 làm tri huyện ở Hà Tiên”.
Nhầm lẫn thứ nhất: Đông Hồ không biết rằng Giáo Chủ đạo Cao Đài là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế; còn Ngô tiền bối là đệ tử đầu tiên của Đức Cao Đài Tiên Ông (Thượng Đế).
Nhầm lẫn thứ hai: Ở Nam Kỳ thời thuộc Pháp, tri huyện (cũng như tri phủ) là ngạch trật hành chánh, không phải là chức quan như ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Do đó, không thể nói như Đông Hồ là Ngô tiền bối “làm tri huyện ở Hà Tiên”.
([17]) Nhà ông Lâm Tấn Đức về sau được nữ sĩ Mộng Tuyết tu sửa toàn bộ, một phần được dùng làm Nhà Lưu Niệm Đông Hồ (Đông Hồ Thi Nhân Kỷ Niệm Đường), số 46 Đông Hồ, phường Đông Hồ, thị xã Hà Tiên.
([18]) Núi Mộng Gương Hồ. Nxb Trẻ 1998. Tập I, tr. 150-151.
(*) Bài viết này đã đăng tạp chí Nghiên Cứu Và Phát Triển (Sở Khoa Học Công Nghệ Và Môi Trường, tỉnh Thừa Thiên - Huế, số 35 (quý 1-2002); nay sửa lại để góp thêm tài liệu về đạo Cao Đài ở Hà Tiên. (HK)