Học đạo - tu dưỡng - sống đạo
Vấn đề thiết yếu mà người tu xem như cơm ăn, nước uống, hơi thở – đó là học đạo - tu dưỡng - sống đạo hay có thể
gọi là tu - học - hành. Bởi lẽ có tu
dưỡng, học đạo, sống đạo mới có thể nuôi dưỡng được phần tâm linh, tăng trưởng
được tinh thần đạo đức, mới tìm về được Đạo; cũng như có ăn, có uống, có hít
thở thì mới có thể nuôi dưỡng được phần thể xác. Ba yếu tố này phải cùng có,
cùng tương tác với nhau để đem lại hiệu quả trọn vẹn; nếu thiếu, sẽ chẳng có
tác dụng, ý nghĩa gì.
Học đạo - tu dưỡng - sống đạo là sự nghiệp (cũng là đạo nghiệp) của
mọi người tu hành chân chánh trong mọi tôn giáo, đặc biệt là của những người có
trách nhiệm hướng dẫn, giáo hóa tín đồ; vì có nỗ lực học hỏi, trì hành, nâng
cao tâm đức và khả năng, ứng dụng cả ngôn giáo và thân giáo mới mong cảm hóa
được người nên đạo, tạo cảnh an vui, hạnh phúc, góp phần phụng sự xã hội, nhân
sinh.
I. HỌC ĐẠO
1. Đạo
là gì?
Từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây, đã có
nhiều định nghĩa hay giảng nghĩa về Đạo. Trong đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn giảng dạy
về Đạo như sau:
Đạo là ngôi nhứt nguyên chủ tể
Đạo
cũng là đồng thể vạn linh
Từ
trong vật chất hữu hình
Nhơn
thân, xã hội, gia đình, nước non.
Đạo là lẽ các con đang sống
Đạo là
quyền cao rộng chở che
Thu
đông mãn đến xuân hè
Vận
hành Thiên Đạo mọi bề dưỡng nuôi.
Đạo chẳng luận ở ngôi vương bá
Đạo không phân sằn dã
lâm bô
Dấn thân trên nẻo thế
đồ
Suy niệm thánh thi của Thầy, chúng ta hiểu:
- Về vũ trụ: Đạo là chủ tể sinh hóa và dưỡng nuôi
tất cả vạn loại. Đạo là bản thể của vạn loại hữu hình lẫn vô hình. Đó là nguyên
lý Thiên địa vạn vật nhất thể.
- Về con người: Từ cá thể tới tập thể (gia đình, xã
hội, nước non…) đều chung đồng một bản thể là Đạo (Thượng Đế vô ngã), cũng là
Thiên (Thượng Đế hữu ngã). Con người không phân biệt thành phần, tầng lớp nào
trong xã hội, ai ai cũng có Đạo từ khi chào đời và mang theo suốt kiếp sống mỗi
người. Cái Đạo hàm tàng này chính là tính Trời (Thượng Đế tính) sẵn có nơi mỗi
người vậy.
Hai suy niệm đó giúp ta lãnh hội nghĩa lý sâu xa hàm ngụ trong câu thánh
ngôn của Đức Chí Tôn: “Đạo Thầy tức là
các con, các con tức là Thầy.” ([2])
Đức Chí Tôn lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ gọi tắt là đạo Cao Đài ([3]) ở vào thời đại năm châu chung chợ,
bốn biển chung nhà,([4]) nên tính chất của nền Đạo Kỳ Ba là
đại đồng, kết tinh, tổng hợp, dung hòa Đông Tây kim cổ: “Bất nệ ư kim, bất thiên ư cổ. Phi cổ nhi cổ, phi kim nhi kim. Phi kim
phi cổ, nhi kim nhi cổ, trung dung quán nhất thị Cao Đài.”
Tương tự, Đức Trần Hưng Đạo dạy:
Chẳng
phải xưa mà chẳng phải nay
Từ cái nhìn toàn diện xuyên suốt, nhất
quán rằng Đạo vẫn có một, đưa vào ứng
dụng cho con người và xã hội, tạo cảnh an vui hạnh phúc đại đồng, đồng thời
nâng cao và thánh hóa con người lên hàng Thánh Hiền, Tiên Phật cho đến khi hội
hiệp cùng Thầy.
Thuở ban sơ mở đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn
dạy:
“… các
con nhớ biết thương Thầy, mà hễ thương Thầy thì ắt thương Ðạo, mà hễ thương Ðạo
thì thương hết chúng sanh.” ([6])
Một năm sau đó, Đức Chí Tôn nhắc nhở:
“Thầy
thường nói với các con rằng Thầy là Cha của sự thương yêu, do bởi thương yêu
mới tạo thành thế giới và sanh dưỡng các con. Vậy các con cũng sản xuất nơi sự
thương yêu ấy. Vậy các con là cơ thể của sự thương yêu…”([7])
Qua thánh
giáo Cao Đài, chúng ta hiểu rằng Thầy
là sự thương yêu và lẽ hằng sống; Đạo là sự sống, là tình thương, là lẽ thật. Vậy, Thầy là Đạo; Đạo là Thầy.
Ba yếu tố sự
sống, tình thương, lẽ thật này có một tính chất diệu kỳ mà qua đó chúng ta
có thể hiểu được phần nào cái bản thể vô cùng kỳ diệu của Đạo. Đồng thời ba yếu
tố này là phẩm chất đặc biệt của con người, một sinh vật tối linh. Nhưng con
người vì vật dục, vì tham sân si, vì vô minh đã làm cho lu mờ bản thể tối linh
mà không hay biết. Các Đấng giác ngộ đã tìm mọi phương cách để hướng dẫn con người
tìm lại các phẩm chất thiêng liêng cao quý của con người, và rồi tôn giáo ra đời.
2. Học đạo là học những
gì?
Qua phần tìm hiểu “Đạo là gì?” như trên đây ta thấy rõ
mục đích học đạo là tìm cầu chân lý để bảo tồn sự sống, phát triển tình thương,
và giác ngộ lẽ thật.
Đối với cá nhân mỗi người thì bảo tồn sự sống là làm
cho thể xác được khỏe mạnh, phát triển tình thương là làm cho tâm hồn được
thánh thiện, và giác ngộ lẽ thật là làm cho trí tuệ được viên minh.
Đối với cộng đồng nhân loại là bảo tồn và phát triển
trên ba phương diện nhân sinh, nhân đức,
và nhân trí.
3. Học đạo bằng cách
nào?
Đạo là một lĩnh vực bao la, trùm khắp
cả vũ trụ và nhân sinh, cho nên học đạo có cả muôn ngàn pháp môn. Nhưng có thể
quy về hai chiều hướng là ngoại cầu và nội cầu.
- Ngoại cầu
tức hướng ra bên ngoài để học hỏi, cầu tìm chân lý như học ở nhà trường, học
trong kinh sách, học nơi những sự vật chung quanh ta, học nơi những người đi
trước có kinh nghiệm, và học lẫn nhau...
- Nội cầu là quay vào bên trong để soi rọi
thân tâm của chính mình và tham thiền nhập định để suy cứu tìm cầu chân lý.
Trên thế giới cũng có hai khuynh hướng
học hỏi: phương Tây thì đi vào nghiên cứu tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ để
tìm hiểu cái bản thể nguyên lai; còn các nhà đạo học phương Đông thì quay vào
quán xét thân tâm để cảm nhận hình hài của Tạo Hóa.
Cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21 này Đông
Tây đã gặp nhau, đạo học và khoa học đã hội ngộ. Đơn cử như cuốn sách Đạo Của Vật Lý - một
khám phá mới về sự tương đồng giữa vật lý hiện đại và Đạo học phương Đông, tác
giả là Fritjof Capra, giáo sư ngành vật lý (sinh năm 1939) nói về Đạo như sau:
… “Đạo”,
nguyên nghĩa của nó là “đường đi”. Đó là đường đi hay tiến trình của vũ trụ, là
trật tự của tự nhiên. Về sau môn đệ của Khổng Tử cho nó một nghĩa khác. Họ nói
về Đạo của con người hay Đạo của xã hội loài người và xem như cách để sống đúng
đắn trong nghĩa đạo đức.
Trong nghĩa nguyên thủy nói về vũ trụ
thì Đạo là thể cuối cùng, không thể định nghĩa và như thế nó ngang tầm Brahman
của Ấn Độ Giáo và pháp thân của Phật Giáo. Thế nhưng nó khác với các khái niệm
của Ấn Độ là Đạo mang tính năng động nội tại, mà theo quan điểm Trung Quốc thì
đó là tính chất then chốt của vũ trụ. Đạo là tiến trình vũ trụ mà trong đó mọi
sự vật đều tham dự và thế giới là một sự trôi chảy liên tục và biến đổi không
bao giờ ngừng.([8])
Khoa học thời nay còn hội ngộ đạo học ở
chỗ thừa nhận rằng sự sống trong thế giới này không phải do ngẫu nhiên.
Thật vậy, cơ mầu nhiệm của Tạo Hóa là
huyền vi vô lượng, bất khả tư nghì, các nhà đạo học phương Đông từ ngàn xưa đã
cảm nhận và phát biểu như vậy. Qua thời hiện đại khoa học đã có những bước tiến
vô cùng ngoạn mục, tuy nhiên càng đi sâu vào khám phá vũ trụ, các nhà khoa học
càng kinh ngạc trước sự nhiệm mầu của Tạo Hóa.
Trong cuộc trò chuyện giữa nhà vật lý
thiên văn Trịnh Xuân Thuận với nhà báo Jacques Vauthier, quyển Trò Chuyện Với Trịnh Xuân Thuận ([9]) cho biết về sự kỳ diệu để có sự sống
con người trong vũ trụ như sau:
“Độ
chính xác của sự điều chỉnh một số con số để rốt cục chúng ta xuất hiện trên
đời này có thể so được với độ chính xác của một cung thủ muốn găm mũi tên vào
một tấm bia có diện tích 1cm2, đặt mãi tận đầu kia của vũ trụ, tức
là ở khoảng cách 15 tỷ năm ánh sáng.
Thật là
đáng kinh ngạc! (...) chúng ta đang sống cộng sinh hoàn toàn với vũ trụ, một vũ
trụ không hề thờ ơ với chúng ta mà được hiệu chỉnh một cách cực kỳ chính xác để
cho phép chúng ta hiện hữu ngày hôm nay trên cõi đời này.
Để con
người xuất hiện, cần phải có những ngôi sao nặng chế tạo ra những nguyên tố
nặng cần thiết cho sự sống (như nitơ và ôxy), cần phải để vào lúc kết thúc sự
tồn tại của mình, trong cơn hấp hối bùng nổ, chúng phóng các nguyên tố này ra
môi trường giữa các vì sao để cho ra đời các hành tinh mà từ đó sự sống xuất
hiện. Tất cả những điều đó đòi hỏi phải có thời gian, ít nhất là hàng tỷ năm.
Chính điều này giải thích tại sao vũ trụ lại rộng lớn như vậy, với bán kính đạt
tới 15 tỷ năm ánh sáng. Vũ trụ rộng lớn trong không gian và trong thời gian bởi
vì cần phải đạt tới độ lớn như vậy để chuẩn bị cho ý thức xuất hiện.” ([10])
Do đó các nhà khoa học ngày nay thấy rằng
sự sống không xuất hiện ngẫu nhiên, như tài liệu sau đây diễn tả:
“Để làm
rõ hơn cơ sở này, chúng ta xét một trường hợp cụ thể: Một tế bào sống bao gồm
khoảng hai chục axit amin tạo thành một chuỗi chật kín. Chức năng của các axit
amin ấy, đến lượt nó, phụ thuộc vào khoảng 2000 enzym đặc thù. Theo sơ đồ ấy,
các nhà sinh học đã tính ra rằng, để 1000 enzym khác nhau, xích lại gần nhau
một cách có trật tự để tạo thành một tế bào sống, (trong một tiến trình nhiều
tỷ năm), thì phải có xác suất là 101000 lấy một. Có thể nói cơ may
ấy bằng không. Điều này đã thúc đẩy Francis Crick, giải Nobel sinh học, dựa vào
phát hiện về ADN, đi tới kết luận, theo hướng đó, rằng một người trung thực,
được trang bị mọi tri thức hiện có, sẽ phải khẳng định rằng, nguồn gốc sự sống
hiện nay, có vẻ như ở một phép mầu . . .” ([11])
Từ trích dẫn trên suy ra, nếu chúng ta
cùng hướng về tìm cầu chân lý thì Đạo vẫn có một. Vì vậy nội cầu hay ngoại cầu,
nội giáo hay ngoại giáo đều có tác dụng bổ sung cho nhau.
Một số người tu theo nội giáo thường nghĩ
rằng nội giáo cao siêu hơn ngoại giáo, do đó mà sinh lòng tự tôn, xem ngoại giáo
hay phổ độ là thấp kém. Để điều chỉnh nhận thức đó trở về với trung đạo, Đức Đại
Tiên Ngô Minh Chiêu - là Đấng
khai sáng con đường nội giáo mang tên Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi, cũng là
Đức Tôn Sư truyền ban bửu pháp luyện châu cho Hội Thánh Truyền Giáo - có lần dạy: Ngoại giáo tỉnh đời
cũng đại công.([12])
Trên con đường ngoại giáo, với chủ trương
Vạn giáo nhất lý, người đạo Cao Đài
không kỳ thị cố chấp, trái lại luôn cởi mở để rộng đường học hỏi, nghiên cứu
kinh sách các tôn giáo khác và các lĩnh vực khác để chọn lọc những tinh hoa,
những gì thiết thực, lợi ích cho con người.
Hiện tại, Giáo Hội
chúng ta, về phương diện tổ chức đào tạo còn gặp nhiều khó khăn, phương tiện vật
chất còn quá thiếu thốn, chưa có trường lớp giáo huấn tập trung, chưa có chương
trình Hạnh Đường dài hạn, chỉ có những lớp tu học ngắn ngày. Học Viện Truyền Giáo Cao Đài tuy đã có
quyết định chính thức thành lập vào ngày 22-9-2015, nhưng việc triển khai để đi
vào hoạt động dường như còn đang phải cần thêm thời gian chuẩn bị.
Do đó, có thể
nói, phần lớn là sự tự tìm tòi học hỏi, nghiên cứu (tự đào tạo) của nhũng người
thiện tâm, thiện chí. Nhưng việc tự đào tạo này muốn có kết quả cần phải có
phương pháp, phải xây dựng một nội dung, một chương trình, một thời gian biểu,
và phải nhắm vào chỗ thiết thực, sao cho phát huy được nền tân pháp Cao Đài.
Cũng cần lưu ý
là thánh ngôn, thánh giáo của nhà Đạo Kỳ Ba là một kho báu, là nguồn vốn phong
phú dành cho đồ chúng tham cầu học đạo. Chúng ta cần có cách khai thác để học
hỏi, vận dụng cho từng nội dung, từng chuyên đề học đạo.
Như vậy yếu tố học đạo rất cần thiết để chúng ta hiểu rõ: Đạo là gì? Đạo
cần thiết với con người như thế nào? Vì sao Đạo mất? Tìm lại Đạo bằng cách nào?
Xác định rõ mục đích thì việc tu hành khỏi mông lung, lệch lạc. Nhưng đây
mới là phần lý thuyết, là bản đồ để hướng dẫn đường đi và cách đi. Muốn đến
đích thì phải cầm bản đồ mà đi, chứ không phải cầm bản đồ mà ngắm, tức là phải
đi vào thực hành tu dưỡng và sống đạo.
II. TU
DƯỠNG
1. Tu
dưỡng là gì?
Tu là sửa.
Sửa cái xấu nên tốt, cái sai nên đúng, cái hư trở nên cái tốt đẹp. Dưỡng là chăm sóc, bồi bổ cho phát triển
thêm lên. Ở đây là tu dưỡng thân tâm, hay chăm sóc, bồi bổ cho phát triển sự
sống, tình thương, và lẽ thật.
2. Có
bao nhiêu pháp môn tu dưỡng?
Các tôn giáo từ
xưa đến nay, từ Đông sang Tây tùy theo trình độ nhân loại ở mỗi hoàn cảnh, mỗi
thời đại đã bày ra rất nhiều pháp môn, phương tiện để tu dưỡng. Nhưng chung quy
có lẽ gồm ba phần chính là: nghi lễ; tu
luyện, tỉnh sát; quy giới, luật đạo.
a. Công dụng của
nghi lễ trong tu dưỡng
Thứ nhất: Nghi thức thờ phượng với ngôi thánh đường tam đài, biểu
tượng Thiên Nhãn, quả Càn Khôn, cách bài trí trên Thiên Bàn, cách lạy, cách
chắp tay bắt ấn Tý, v.v… đã tạo thành một mô hình nhằm biểu thị cái nguyên lý
trong vũ trụ, trong con người và quan hệ giữa con người với vũ trụ. Từ đó người
tu hành suy nghiệm để tu luyện tiến hóa đạt đạo.
Thứ hai: Các nghi
thức tế lễ, quan hôn tang tế, nhập môn, tắm thánh, và kinh kệ, v.v... nói lên đạo
lý cao siêu và nhắc nhở con người một cách thiết thực trong từng trường hợp
sinh hoạt trong cuộc sống của con người, để con người luôn gìn tâm sửa tánh,
hầu sống cho hợp với lẽ đạo.
Thứ ba: Nghi lễ còn
nhằm tạo ra một khung cảnh, một môi trường để từ đó kích thích cảm quan của con
người, làm cho tâm hồn được an tịnh, phát xuất ra những luồng tư tưởng thanh
cao, siêu thoát, giao cảm với Thiêng Liêng, hướng thiện, hướng thượng, và cũng
để tiếp nguồn ân điển thiêng liêng gội rửa thân tâm trong sạch.
b. Công dụng của tu luyện trong tu dưỡng
Pháp môn tu
luyện của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài gồm bốn tầng bậc tu châu và Tứ Bửu Pháp.
Đây là những pháp môn điều khiển tinh thần, điều hợp sinh lý, điều tâm, điều
tức, điều thân để cho thể xác được khỏe mạnh, tinh thần được sáng suốt và luyện
đến chỗ tinh, khí, thần hiệp nhất để thanh lọc phàm ngã, hiển lộ chân ngã siêu
phàm nhập thánh, trở về hội hiệp cùng Thầy. Ngoài ra tham thiền nhập định là để
cho tâm tỏ ngộ; tham cứu những lý đạo sâu xa và tỉnh sát là để kiểm tra tâm
mình.
Đức Tổng Lý Hưng
Đạo dạy:
“Nếu không thời thường tu dưỡng, khổ hạnh công phu thì khi gặp phải cảnh
ngộ biến thay, tự khắc chúng nó nhớm lên xô đổ ngay cái bồ đề còn non nớt.” ([13])
c. Công dụng của giới luật trong tu
dưỡng
Về giới luật có
Ngũ Giới, Tứ Đại Điều Quy, hai mươi bốn điều Thế Luật, v.v… là những khuôn vàng
thước ngọc để chúng ta nương vào đó mà sửa mình, rèn tâm luyện tánh để đạt đạo.
Bởi vì những loạn động của tình thức khi còn ở trong tâm, nhờ các pháp môn lễ
bái, hồi hướng tu luyện, tỉnh sát trấn tĩnh dẹp trừ. Nhưng dẹp chưa yên thì nó
phóng tán ra hành động. Bây giờ phải có cái khuôn phép, cái hàng rào ngăn ngừa
bên ngoài là giới luật, không cho vượt qua để hành động sai quấy.
Lễ bái, tu
luyện, tỉnh sát là tự giác để sửa trị. Còn giới luật là biện pháp để sửa trị. Giới
luật là cái hàng rào, cái bờ ngăn không cho thoái hóa, nên cũng là nấc thang
tiến hóa.
Đức Chí Tôn dạy :
“Thầy ước ao mỗi con cứ âm thầm tu học, lập công, giữ đúng quy giới đạo
hạnh để xứng đáng vai môn đệ của Thầy.” ([14])
“Hằng ngày sửa mình cầu nguyện quy giới cho tròn, đừng ngóng đó trông đây
mà trọn đời không nên việc.” ([15])
Trên đây là
những pháp môn tu dưỡng. Nhưng muốn chứng minh cho việc học đạo và tu dưỡng có
đạt kết quả hay không và đạt đến mức nào, phải xét đến yếu tố sống đạo, tức là
bước thứ ba trên con đường tìm về với Đạo.
III. SỐNG
ĐẠO
Nói sống đạo là
như thế nào thì có không biết bao nhiêu việc cụ thể mà nói, nhưng tựu trung đó
là cuộc sống hướng đến chân thiện mỹ. Cuộc sống như thế tất nhiên sẽ đem lại
lợi lạc cho chính mình, cho người khác, và cho nhân loại. Đó là lẽ tất yếu của
sống đạo.
Qua những phần
trình bày từ học đạo, tu dưỡng đến sống đạo, chúng ta thấy rằng mọi người có
ăn, có uống, có hít thở đầy đủ mới có thể nuôi dưỡng cơ thể sống, trừ một vài
trường hợp đặc biệt nào đó, do cơ thể đặc biệt, hay do luyện tập, con người ăn
rất ít mà vẫn khỏe mạnh, hoặc có khi không ăn, không uống mà vẫn sống được, như
các nhà yogi ([16]) Ấn Độ chôn mình dưới đất hơn cả tháng
không thở mà không chết. Đối với người tu, phải học đạo, tu dưỡng,
sống đạo đầy đủ thì mới có thể nuôi dưỡng được phần tâm linh, tìm về được Đạo
(như đã đề cập ở phần đầu).
*
Qua phần trình
bày ba yếu tố tu dưỡng, học đạo, sống đạo
đối với người tu hành, chúng ta có thể kết luận như sau:
1. Có học đạo thì mới hiểu Đạo, mới xác định rõ mục đích của người tu;
mới bồi đắp cho mình kiến thức, năng lực để giữ đạo, truyền đạo, góp phần phụng
sự Giáo Hội, nhân sinh.
2. Có tu dưỡng thì mới phá được màn vô minh, mới dẹp trừ được vọng động
của tình thức, tâm mới sáng, mới thể hiện rõ sự sống, tình thương, lẽ thật, mới gần với Đạo.
3. Có sống đạo thì mới phát huy tác dụng của
học đạo và tu dưỡng, mới minh chứng được kết quả tu - học, mới thể
nhập được với Đạo và đặc biệt góp phần thực hiện tôn chỉ, mục đích của Đại Đạo.
ĐỨC THUẦN