Bác sĩ Cao Sĩ Tấn
Lời mở
Tôi viết tập sách nhỏ này vì
thâm ân phụ tử, để ghi lại những gì tôi đã chứng kiến trong đời tiền bối Cao Sĩ
Tấn. Ngài là một bác sĩ tài hoa quên mình tận tụy cứu giúp dân nghèo, một trí
tuệ đã có nhiều ý tưởng cao siêu đi trước thời đại khoảng hơn nửa thế kỷ, và
hơn hết thảy Ngài chính là một bậc chơn tu đắc đạo.
Tiền bối Cao Sĩ Tấn sanh ngày
07-6-1893 tại Chợ Lớn, là con trai thứ của ông Cao Đẩu Ngưu và bà Đỗ Thị Dương.
Xuất thân trong một gia đình tên tuổi ở Nam Kỳ, tiền bối sớm trở thành một trí
thức thành đạt:
1913 (Quý Sửu): đậu bằng Tú
Tài.
1918 (Mậu Ngọ): đậu bác sĩ Y
Khoa tại Hà Nội.
1925 (Ất Sửu): đậu bác sĩ Y
Khoa tại Paris .
1926 (Bính Dần): đậu bác sĩ Nha
Khoa tại Paris .
1927 (Đinh Mão): đậu các bằng
chuyên khoa Mắt, Tai, Thẩm Mỹ, Phụ Khoa, và Nhi Khoa tại Paris .
Tiền bối kết hôn với một nữ bác
sĩ Pháp, sanh được một gái. Sau đó tiền bối trở về Việt Nam mở phòng
mạch tại số 20 đường Testard, Sài Gòn.([1])
Dẫu được hưởng vinh hoa phú
quý, tiền bối Cao Sĩ Tấn vẫn không quên đông đảo đồng bào ruột thịt nghèo khổ,
bệnh tật trong thời kỳ nước nhà điêu linh, loạn lạc. Do đó tiền bối đã khởi
xướng chương trình Chẩn Tế và Khuyến Thiện, đào tạo các “trợ y
sinh” để phụ giúp các thầy thuốc khám bệnh và chữa bệnh cho dân nghèo.
Là người từng tham gia chương trình Chẩn Tế
và Khuyến Thiện nói trên, bà Phạm Thị Thiệt ([2]) có dịp
bày tỏ như sau (viết tại Sài Gòn ngày 24-5-1995):
Chính
tôi cũng đã từng là một trợ y sinh. Trong khoảng năm 1949-1950 tôi đã ở nhà
Ngài (số 20 Testard, Sài Gòn), nấu cơm cho Ngài ăn. Mỗi ngày từ 6 giờ sáng tôi
cùng các bạn trợ y sinh khác đạp xe chạy theo xe đạp của Ngài đến từng trụ sở
Chẩn Tế và Khuyến Thiện, khởi đầu là trụ sở Xóm Chiếu, để giúp Ngài trong việc
trị bịnh cho dân nghèo.
Sống
gần Ngài tôi thấy thương và kính phục Ngài vô cùng. Thời đó, bác sĩ là thành
phần cao sang, thế mà Ngài tự chọn một cuộc sống thanh bần. Ngài bảo đó là để
cảm thông với cái khổ cực của lớp dân nghèo. Trong nhà xoong chảo tốt treo đầy
bếp mà Ngài không dùng, lại mua đồ sành, đồ đất để nấu nướng. Còn thức ăn trong
bữa cơm mỗi ngày thì Ngài chỉ hầm một nồi nhiều thứ rau cải, nêm chút muối, lấy
nước làm canh, lấy cái chấm tương. Thế là đủ.
Ngài
đúng là một vị chân tu đạo hạnh. Ngài rõ là tấm gương cho hậu lai vậy.
Con người giàu lòng bác ái ấy
đã giác ngộ và dốc chí vào đường tu. Ngày xưa, người đời thường quan niệm rằng
muốn tu hành đắc đạo thì phải qua Tây Tạng, Ấn Độ, hoặc các danh sơn Trung
Quốc... Chí ít cũng phải xa lánh thế gian, lui về nơi rừng sâu núi thẳm ẩn thân
tu luyện. Trái lại, tiền bối tu giữa chốn phồn hoa đô hội, vừa hành nghề tự
nuôi thân vừa công phu (tu thiền) đầy đủ bốn thời, không xao lãng mảy may. Tiền
bối quy thiên ngày 31-7-1974 (13-6 Giáp Dần) vào giờ Dậu, tại nhà số 166 đường
Tự Đức, Sài Gòn.([3]) Nhục thể tiền bối được an táng tại nghĩa địa của Minh Lý Thánh
Hội (Tam Tông Miếu), tại Phú Thọ Hòa (Sài Gòn).([4])
Quả thật tiền bối đã trải
nghiệm được nếp sống “Cư trần bất nhiễm”,
và đạt được điều thánh hiền xưa từng dạy: “Nhứt
tu thị, nhị tu sơn.” Năm 1974 (Giáp Dần), tiền bối đắc vị Đạo Hạnh Kim
Tiên. Cũng trong năm 1974, Ngọc Ánh Liên Đàn tiếp được một trong nhiều bài thi
mà Ngài xưng danh là ĐẠO HẠNH KIM TIÊN CAO SĨ TẤN:
ĐẠO HẠNH lo tu rõ máy Trời,
KIM TIÊN nhắc nhở chớ buông lơi,
CAO Đài nhứt niệm tâm tu SĨ,
TẤN giáng đàn trung để ít lời.
Qua thánh ngôn, người nay biết
thêm rằng Đức Kim Tiên là Chưởng Quản Vô Vi tại Đạo Hạnh Tịnh Đường (ở huyện
Hóc Môn), để dìu dắt những đạo hữu có chí tu theo pháp môn tịnh luyện (thiền).
Tự biết dữ liệu thu thập nơi
đây còn khá hạn hẹp, nên lòng tôi vẫn ước mong sau này sẽ có nhiều bậc thức
giả, đạo tâm đồng cảm, trợ giúp thêm tài liệu để tập sách nhỏ này thêm đầy đủ,
phong phú hơn. Giờ đây, trong khả năng hiện hữu, tôi cố gắng ghi chép lại hành
trạng của tiền bối để tưởng nhớ một tấm gương tu hành cao khiết. Với tâm nguyện
này, tôi xin mượn mấy vần thơ mộc mạc kính dâng Đức ĐẠO HẠNH KIM TIÊN, đấng
tiền bối đã cống hiến cuộc đời cho lý tưởng cao đẹp, lưu lại cho hậu thế một
tấm gương sáng ngời từ buổi ấy:
Một kiếp tầm tu quá trọn lành,
Nguyện chèo bát nhã rước quần sanh.
Giúp đời nên đạo trong hoài bão,
Đỡ khó trợ nghèo chẳng lợi danh.
Khuyến Thiện dựng xây nền Chẩn Tế,
Vì dân bồi đắp khối công trình.
Nêu gương đạo đức đời mai hậu,
Siêu xuất nguơn thần luận tử sanh.
Lý tưởng thần kỳ xuất thế gian,
Mơ đời an lạc khắp dinh hoàn.
Diệt tiêu ác ý thời nguyên tử,
Thế giới hòa bình hết khóc than.
Vận động vạn linh tròn đạo lý,
Nguyện cầu Thượng Đế đặc ân ban.
Từ bi xây dựng tình nhân loại,
Hiệp chủng tạm cư cõi địa đàng.
Kính bút
Dưỡng nữ
Huỳnh Thị Tín
([1]) Lúc
đầu tên là đường Larclause nối dài. Ngày
24-02-1897 đổi tên là đường Testard. Ngày 22-3-1955 đổi tên là đường Trần Quý
Cáp. Ngày 14-8-1975 đổi tên là đường Võ Văn Tần, thuộc quận 3.