CHƯƠNG II: SÁNG SOI ĐƯỜNG MỚI
1. Chánh pháp về với dân tộc Việt Nam
Nằm bên bờ Thái Bình Dương, nơi giao hội các nền văn hóa đạo đức
Đông Tây kim cổ, từ lâu Việt Nam đã tiếp thu hai nguồn Đạo học Ấn Độ và Trung
Hoa.
Đến khoảng thế kỷ XV, nhất là đầu thế kỷ XX, các nền văn hóa phương
Tây du nhập đất nước Việt Nam; các tư tưởng triết học, khoa học, học thuyết,
chủ nghĩa trên thế giới cũng đều góp mặt.
Dân tộc Việt Nam có khả năng dung thông, hòa đồng tất cả nhưng
không hề mất đi truyền thống đạo học phương Đông và bản sắc dân tộc; do đó vừa
phát huy cái hay cái đẹp từ nghìn xưa, đồng thời đón nhận nền văn minh hiện
đại. Người Việt Nam
có cái rung cảm của một luồng sinh khí mới. Đạo lớn của trời đất qua bao biến
thiên đã về đây với một đường nét khai phóng trong hồn dân tộc trẻ trung. Một
non sông nhỏ bé nhưng có được các yếu tố dung hòa, hội tụ mọi tinh túy của loài
người. Một dân tộc có được truyền thống sâu xa của các nền Đạo học lớn tự nghìn
xưa. Dân tộc đó, đất nước đó xứng đáng được chọn làm dân Thánh, đất Thánh.
Ứng vào tiên tri của Ki Tô Giáo rằng sau hai nghìn năm Chúa sẽ tái
lâm, như lời Phật dạy rằng thời mạt pháp Đức Di Lặc sẽ ra đời, tại Việt Nam một
tôn giáo mới xuất hiện với đường lối dung hòa tổng hợp, vừa giải thoát tâm linh
vừa xây dựng đại đồng thế giới, đáp ứng đúng lúc nhu cầu cần thiết của nhân
loại ngày nay.
Từ năm 1919, người ươm mầm đặt giống, ghi dấu Cao Đài trên đất
nước Việt Nam
này là tiền bối Ngô Văn Chiêu (1878-1932), thánh danh Ngô Minh Chiêu. Tiền bối
là con người thanh liêm thánh khiết, hiền hòa thanh thoát, luôn luôn ẩn tàng
một chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn. Tiền bối có một lối sống vừa bình thường
như mọi người, nhưng cũng vừa khác thường hơn mọi người: Trọn đời không phạm
lỗi hai lần, làm quan nhưng nghèo, chí hiếu với cha mẹ, ít giao du, không ở
chung với vợ con, ngủ trên gác hẹp, vài chiếc ghế gỗ tiếp khách, một chiếc ghế
vải để nằm, mỗi khi đi làm về thì ghé vào chợ mua vài thứ rau quả, tự nấu lấy
mà ăn, tuy có tiểu đồng song ít khi sai bảo, tiền lương chia phần cho vợ con và
kín đáo làm phước.
Sau đó Thượng Đế còn chuyển một số tông đồ đầu tiên tại Sài Gòn -
Chợ Lớn đến hợp tác với Ngô tiền bối, dạy tiền bối đứng đầu (anh cả) và phân
công cho đàn em thay mặt tiền bối đi truyền đạo. Các vị tông đồ này đã hội họp tại
Sài Gòn để làm Tờ Khai Đạo ngày 23
tháng 8 Bính Dần (29-9-1926).
Tiền bối Ngô Minh Chiêu gặp Thượng Đế qua việc cầu Tiên – phương
pháp thông công với các Đấng thiêng liêng của phương Đông. Tiền bối làm đệ tử
Thượng Đế và được khải thị Thiên Nhãn vào năm Canh Thân (1920). Sang đầu năm
Tân Dậu (1921), tiền bối thọ bí pháp tâm truyền tu luyện dưới sự dìu dắt của
Thượng Đế. Năm Nhâm Thân (1932), Ngô tiền bối chứng quả thành đạo trên dòng Cửu
Long sau mười hai năm tu luyện (1921-1932).
2. Biểu tượng Thiên Nhãn
Thiên Nhãn (hình con mắt trái mở ngời hào quang) là biểu tượng thờ
phượng của đạo Cao Đài. Được ơn soi dẫn của Thượng Đế, tiền bối Ngô Minh Chiêu
mục kích Thiên Nhãn hiển hiện giữa bầu trời Phú Quốc.
Thượng Đế là tâm linh vũ trụ. Chơn Thần Thượng Đế bàng bạc trong
vũ trụ, là sự sống của vạn hữu chúng sanh. Con mắt là cửa ngõ tâm linh, là lối
vào ra nơi cư trú của Thần ngự trong con người. Từ một Chơn Thần Thượng Đế mà
hóa sanh muôn vạn ức chúng sinh. Muốn trở về hiệp cùng Thượng Đế (về với sự
sống vĩnh hằng) phải dùng phương pháp luyện đạo (công phu tịnh luyện), đem cái
nhìn thường phóng ra bên ngoài mà quay vào bên trong, thắp sáng đèn trí huệ cho
tự tánh bừng soi. Đó là chánh pháp nhãn tạng mà Phật Thích Ca từng truyền dạy.
Vậy mượn hình ảnh con mắt nơi người mà nói lên cái chơn thần ngự ở
trong. Chơn thần ấy huyền đồng cùng chơn thần vũ trụ là Chơn Thần Thượng Đế,
chủ tể càn khôn vũ trụ này. Như thế thờ Thiên Nhãn là thờ phượng Thượng Đế,
cũng là thờ tâm linh tự thể của mình.
3. Huyền diệu cơ bút
Con người khi chưa đủ huệ tâm để thông công cùng Thượng Đế bằng tự
lực tu chứng của mình thì phải nhờ phương tiện thông công bằng cơ bút, do đồng
tử thủ cơ. Đồng tử thủ cơ tùy Thiêng Liêng chọn, song nếu không phải là nguyên
căn (một linh hồn tinh tấn), thì không tiếp được trọn điển và không dùng được
lâu. Cơ bút trong buổi đầu khai Đạo là thời kỳ ân điển, ai cũng có thể đón nhận
một cách phổ thông rộng rãi. Đó là thời kỳ ban ơn không hạn chế.
4. Hồng danh Cao Đài
Thượng Đế đến lập Đạo tại Việt Nam với hồng danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. (Khi
giáng cơ Ngài thường xưng là Ngọc Hoàng Thượng Đế tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại
Bồ Tát Ma Ha Tát, hoặc Ngọc Hoàng Thượng Đế kim viết Cao Đài giáo đạo Nam phương.)
Lời chú giải thêm cho câu ấy là: [Phật kinh] Đầu vi cao đài.
(Theo kinh Phật thì đầu là đài cao).([2])
Tương truyền kinh sách đạo Minh Sư có câu:
Cao như Bắc khuyết nhân chiêm ngưỡng
Thánh ngôn Cao Đài dạy:
Linh Tiêu nhất tháp thị Cao
Đài
Đại hội quần Tiên thử ngọc giai
Vạn trượng hào quang tùng thử xuất
5. Mục đích thời pháp Cao
Đài
Trải qua Nhất Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ, Đạo lớn của trời đất đã đến với
con người qua các hình thức tôn giáo, giúp con người trang bị cho cuộc sống của
mình một ý nghĩa cao đẹp, một sự an vui hài hòa, một xã hội thanh bình thánh
đức, một nền văn minh rực rỡ. Thể hiện nơi cuộc sống xưa kia là nhà không đóng
cửa, ngoài đường không ai lượm của rơi, trên dưới kính yêu, giữ khí tiết, biết
liêm sỉ, trọng phẩm giá con người, lấy tín nghĩa làm vinh, v.v...
Tuy vậy Thánh Nhân lại sợ con người không biết đấy chỉ là phương
tiện đi lên, tiến đến chỗ trọn lành, hòa một cùng bản thể vĩnh viễn an vui mà lại
duyên cùng ngoại cảnh, đắm mê hạnh phúc cõi đời, dừng chân an nghỉ nơi cuộc
trần, hứng chịu cái công lệ thạnh suy hưng phế, huyễn hóa vô thường.
Sợ rằng con người chuộng cái nhất thời, quên cái vĩnh cửu, để tình
thức nghiệp lực lôi cuốn, muôn kiếp lăn trôi trên đường luân hồi sanh tử nên
Thánh Nhân ngoài phương cách nhập thế xây dựng cõi đời còn luôn luôn cảnh tỉnh
con người bằng phương cách xuất thế, đem con người ra ngoài vòng biển khổ sông
mê, nhìn tự tánh mà về để đồng nhất cùng thể Đạo vô vi chơn thường thanh tịnh,
thoát thai thần hóa, sống vĩnh cửu như đất trời.
Thời pháp Cao Đài tiếp nối truyền thống Đạo lớn từ nghìn xưa hẳn
không đi ngoài cái quy trình sẵn có là chỉ cho chúng sanh nhắm tự tánh mà về; đồng
thời tạo cho con người cái phương tiện thế gian là nếp sống tinh thần và vật
chất thuần thiện, thích nghi với thời đại văn minh tiến bộ của con người.
Cao Đài Giáo chủ trương nhập thế và xuất thế tác động hỗ tương mà
thành tựu và hoàn hảo cho nhau. Có xuất thế mới nhập thế, có nhập thế mới xuất
thế. Đủ thấy rằng xây dựng đời phải có con người Phật tâm Thánh ý, con người
giác ngộ, giữ được thể Đạo chơn thường, bản lãnh thanh cao, không mê luyến sắc
tài danh lợi, không bị trần duyên huyễn hóa phỉnh phờ, lời nói và việc làm đều thuận
đẹp lòng Trời lý Đạo.
Con người ấy phải tu phải chứng, phải ngộ nhập Đại Đạo, tự tánh
chơn tâm sáng tỏ, không mê mờ, không lẫn lộn thiệt hư, rành rẽ phân minh chơn
giả. Được vậy thì vào đời mà không lụy đời, ở tục mà không luyến tục, xây dựng
đời thánh đức cho chúng sanh thức tỉnh tu hành, lấy hạt giống Đạo nơi tự thân
mà gieo rải mười phương thiên hạ.
Như vậy xuất thế đâu phải là trốn đời mà là tạo điều kiện để vào
đời, làm cho đời thanh bình thạnh trị, tiến bộ văn minh, có một nền đạo học tâm
linh và một nền khoa học thánh thiện. Tinh thần đó gọi là Chấp Thiên Đạo, hành Nhơn Đạo; Nhơn Đạo lập, Thiên Đạo thành.
Nói tóm lại mục đích đạo Cao Đài là: Giải thoát
tâm linh, và đại đồng thế giới
Nếu chưa giải thoát tâm linh bằng con đường Đạo học, thì không thể
đại đồng thế giới bằng con đường khoa học. Có thành tựu được đại đồng thế giới
thì mới tạo phương tiện cho loài người trên đường giải thoát tâm linh.
Nhất quán Đạo học và khoa học, dung thông hai nẻo xuất thế và nhập
thế, gọi là Trung là Nhất. Vì Trung vì Nhất mà có Thiên Đạo giải thoát, Thế Đạo đại đồng, nói lên Đạo Trời một thể
viên dung, suốt thông và trung nhất.
6. Đặc điểm thời pháp Cao Đài
Người Cao Đài hiểu rằng quy luật vũ trụ hay Đạo lớn của trời đất
là cái dụng của bản thể Thượng Đế toàn năng. Nó vốn viên dung toàn thiện. Con
người dù tài ba lỗi lạc đến đâu cũng chỉ tìm thấy một vài khía cạnh của nó mà
thôi.
Các tôn giáo, học thuyết kim cổ Đông Tây có những chỗ khác nhau vì
do điều kiện không gian thời gian mà có mỗi thời pháp không giống nhau. Nhưng
xét cho cùng những khác nhau ấy không phải để nghịch chống lẫn nhau, mà là để
hoàn hảo cho nhau, thị hiện nhiều mặt của một chân lý toàn diện.
Thấy khác nhau là vì nhìn cái riêng rẽ của mỗi mặt. Thấy không
khác nhau khi nhìn trên đại thể toàn diện. Đừng quên đi cái toàn diện. Giá trị
cần thiết là trên cái toàn diện đó.
Nói trái lại, nếu không có cái toàn diện đó thì không bao giờ có
cái riêng rẽ khác biệt của mình. Nên Cao Đài Giáo có câu: Một là tất cả, tất cả là một.
Trong cái riêng rẽ của các tôn giáo, học thuyết, hàm chứa cái chân
lý duy nhất và toàn diện, làm cơ chỉ ([5]) cho mọi phát triển tận cùng nhưng chung quy cũng
về một. Nho Giáo gọi là Nhất bổn tán vạn
thù, vạn thù quy nhất bổn.([6])
Chủ thuyết vạn giáo nhất lý, tâm vật bình hành, Đạo học và khoa
học nhất quán, kinh tế - văn hóa - triết học Đông Tây kim cổ cùng dung thông
tổng hợp, bổ túc cho nhau – tất cả tạo ra một hòa điệu tinh thần, một nếp sống
phong phú hoàn hảo cho xã hội loài người. Đây là thời pháp Cao Đài.
Do sự mê mờ chấp trước của con người mà phải nói lên cái chân lý
toàn diện. Chân lý toàn diện vốn đã hoàn thiện viên mãn từ trong cái toàn năng
của bản thể. Xưa qua nay lại, cái quy luật của vũ trụ, cái hoàn thiện của đất
trời tự có từ nghìn xưa, không thêm không bớt, không thiếu không thừa, viên
dung toàn hảo. Do đó Cao Đài Giáo có câu: Phi
cổ nhi cổ. Phi kim nhi kim. Phi cổ phi kim, nhi cổ nhi kim, trung nhất thị Cao
Đài.([7])
Đạo vẫn có một; mỗi giáo chủ tùy theo sự cứu độ thế gian mà thị
hiện Đạo Trời bằng các pháp môn phương tiện khác nhau. Người tin Đạo theo đó tu
học để tự độ và độ tha. Công cuộc tự độ và độ tha ấy một khi hình thành tổ chức
thì gọi là tôn giáo.
Cao Đài Giáo có đường lối dung hòa tổng hợp, với mục đích giải
thoát tâm linh và xây dựng thế giới đại đồng. Người tín hữu Cao Đài thực hiện đường
lối và mục đích đó bằng công phu tu học, hiện rõ nét dung thông tổng hợp, đại
đồng với tất cả cái tinh túy trong tinh thần nhập thế của Nho, xuất thế của
Phật, vô vi của Lão; phối hợp dung thông với các nền đạo đức, triết học kim cổ
Đông Tây để có được cái nhìn toàn diện, đồng nhất cùng bản thể là Đạo. Tinh
thần nhất quán ấy ở đạo Cao Đài cũng như ở tín đồ Cao Đài là thuần chơn vô ngã,
Thiên nhân hiệp nhất, vạn giáo nhất lý, tâm vật bình hành.
a. Thuần
chơn vô ngã
Người tu phải dồi luyện tâm tánh, trở về với bản thể chơn thuần
chất phác, đồng nhất cùng bản lai, trọn thể chơn như tự tại như chư Phật, không
rẽ chia ta người, không làm đầu mối cho mọi mê mờ tội lỗi. Được vậy là nhân dục
tịnh tận, Thiên lý lưu hành,([8]) lòng người được thuần thiện giao cảm ứng thông,
đồng nhất với Trời mà đạt lẽ Thiên nhân hiệp nhất.
b. Thiên
nhân hiệp nhất
Thiên nhân hiệp nhất không có nghĩa là ép buộc lẽ Trời phải theo
lòng người để được một, nhưng buộc lòng người phải dồi luyện tu chứng, nâng cao
cho đồng nhất cùng Trời, để Trời có thể đến với người, phối hợp với điều kiện
con người sẵn có mà lập thể Trung. Vì vậy Đạo buộc con người phải thông lẽ
Trời, để Trời người được một, tạo nên khuôn viên mẫu mực cho đời.
c. Vạn giáo
nhất lý
Đã hiệp được với Trời, đồng nhất cùng Đạo thì thấy rõ bao pháp môn
phương tiện của chư Thánh đã dạy đều có nguồn gốc từ lẽ Đạo chơn thường, dù cho
muôn sai nghìn khác cũng là một. Một ấy là chỗ vạn giáo nhất lý.
d. Tâm vật
bình hành
Con người ứng dụng đạo lý trong cuộc sống của mình giữa cõi đời âm
thanh sắc tướng, mượn thể phàm trần mà trau luyện thân tâm, mượn lấy trường đời
mà học tu thực chứng, mượn chỗ hữu tướng mà về chỗ chơn không. Đạo vốn là tinh
thần, song sống đạo phải bảo tồn vật chất, ấy là tâm vật bình hành.([9])
Theo các điểm nói trên, nền giáo lý Cao
Đài nhìn nhận mọi người, mọi loài, mọi giống đều là con chung Thượng Đế, huynh
đệ một nhà; nhìn nhận Đạo vẫn có một, chánh pháp không hai; nhìn nhận đường lối
dung thông, hòa đồng, tổng hợp là đặc tính của thời pháp Cao Đài.
7. Cái nhìn về vũ trụ
Người tín đồ Cao Đài có tinh thần dung thông, hòa đồng các nền đạo
học, triết lý kim cổ Đông Tây. Với cái nhìn ấy người Cao Đài không thấy chướng
ngại về mọi dị biệt giữa nhau, mà còn thấy bổ túc cho nhau để có được tinh thần
viên thông nhất quán.
Nhìn vào vũ trụ bao la, người ta thấy vạn vật được an bài điều
tiết theo một quy luật. Cái quy luật ấy là động cơ duy nhất. Động cơ ấy là bản
thể, hay Thái Cực – con số 1 của vạn hữu.
Trước con số 1 là con số 0 tức là Vô Cực hay là khí Hư Vô. Vô Cực
là mặt tịnh, Thái Cực là mặt động của Đạo. Trong động có tịnh, trong tịnh có
động, chia thành hai khí âm dương, mà hóa hóa sanh sanh muôn loài vạn vật.
Từ con số 0 mà có con số 1, từ con số 1 mà có vạn hữu chúng sanh,
nên “Không tên là gốc của trời đất; có
tên là mẹ của muôn vật.” ([10])
Âm dương, động tịnh là thể tánh bất dịch. Âm dương giao đối hài
hòa cùng nhau là giao dịch. Bởi giao
dịch mà sanh sanh hóa hóa vô cùng là biến
dịch. Dầu biến dịch đến đâu cũng không ra ngoài hai thể tánh âm dương động
tịnh, nên vẫn giữ còn bản lai của nó là bất
dịch.
Đó là nói mặt thuần thể, cái quy luật thiên nhiên vũ trụ. Nhưng (theo
Phật) ngoài đất, nước, gió, lửa, và hư không còn có thức,([11]) nghĩa là ngoài phần cơ năng của vật thể còn có
linh năng của thần thể; cũng như con người ngoài sự hòa hợp của đất, nước, gió,
lửa còn có ý thức, tư tưởng, linh năng trực giác của tâm linh.
Thần thể Thượng Đế bàng bạc trong vũ trụ, tùy sự tinh thô của vật
thể mà tiếp nhận nhiều hay ít. Vạn vật nhờ đây mà có sự sống. Đất đá núi sông
nhờ đây mà có một phần linh khí, gọi là vật chất hồn. Ở cây cỏ là thảo mộc hồn;
ở động vật là cầm thú hồn; ở con người là nhơn hồn; ở những đẳng cấp tiến hóa cao
hơn là Thần, Thánh, Tiên, Phật hồn. Nên ngoài cảnh giới con người (hành tinh ta
đang ở) còn có vô số cảnh giới, vô số hành tinh ở các cõi tinh khiết trang
nghiêm, hợp với trình độ thánh thiện của các đấng hơn.
Người Cao Đài cũng như phần đông nhơn loại nhìn nhận trong vũ trụ
vạn hữu chúng sanh đều có đủ cả hai phần là tinh thần và vật chất, hay thể xác
và tâm linh. Người Cao Đài không quan niệm cái nào sanh cái nào, cái nào trước
cái nào, nên không thiên chấp duy vật hay duy tâm, mà nghĩ rằng hễ có cái nọ
thì tất có cái kia, cả hai đồng thời giao đối nhau mà có. Cũng như ban ngày ban
đêm, vì giao đối với nhau mà có, làm sao chia được trước sau.
Vật thể nhờ thần thể mà có sự sống, thần thể nương vật thể mà sanh
sanh hóa hóa vô cùng. Hai phần lìa nhau thì chẳng có gì trong vũ trụ này cả. Cũng
như không thể xác, không tâm linh thì chẳng bao giờ có con người. Nói cách khác,
tâm linh không thể xác là cái hư không; thể xác thiếu tâm linh hoặc tâm linh
rút ra khỏi thể xác thì sự sống không còn mà cơ năng này cũng bắt đầu hủy diệt.
Vũ trụ cũng vậy. Bầu càn khôn vĩ đại này như một thể xác khổng lồ,
có sự sống của nó. Tuy từng tế bào có sanh có diệt nhưng sự sống chính nó không
diệt không sanh.
Không một thể xác nào rời khỏi tâm linh mà còn sự sống. Vũ trụ này,
cái vật thể vĩ đại này không thể thiếu được phần tâm linh mà tồn tại. Cái thức
như Phật nói phải luôn luôn ngự trị ở đây, để tiếp nối sự sống, hóa sanh và
nuôi dưỡng muôn loài một cách trường cửu bất diệt. Cái thần thể này, tùy phương
Đông, phương Tây theo ý hướng tâm đắc của mình mà đặt tên. Người Cao Đài không
hề bị chướng ngại vì cái tên đó, mà luôn cùng mọi người công nhận đây là một
thực thể, là Phật Tánh hay Thượng Đế Tánh vậy.
8. Cái nhìn về xã hội, con người
Con người là một sinh vật, một đơn vị tế bào sống của vũ trụ. Cũng
như các sinh vật khác, con người sinh ra, trưởng thành và hủy diệt. Nhưng con
người có ý thức, có trực giác, biết suy tư và biết phát huy những khả năng đặc
biệt. Vì vậy ai cũng nhận thấy nơi con người có cái gì cách xa với các sinh vật
khác về phần hiểu biết. Ngày xưa Tuân Tử nói:
“Nước và lửa có khí mà không có sự sống; thảo mộc có sự sống mà vô
tri giác; cầm thú có tri giác mà không có nghĩa; còn con người đã có khí, sự
sống, tri giác, lại còn có nghĩa nữa; cho nên con người quý nhất trong thiên
hạ.” ([12])
Người Cao Đài nhận định rằng vũ trụ hình thành bởi hai khí âm
dương. Cái tinh anh của dương thể là thần thể, phần ngưng tụ của âm thể là vật
thể. Thần thể, vật thể giao hòa tạo nên khí thể. Khí thể là sinh lực, là sức
sống của vũ trụ. Nó gồm cả thần thể, vật thể nên còn gọi là khí Thái Hòa. Vật
thể, khí thể, thần thể là ba nhân tố tạo nên vạn hữu; trong con người là Tinh,
Khí, Thần (tam bửu).
Thần thể đối với khí thể thì thần thể là dương, khí thể là âm. Khí
thể đối với vật thể, thì khí thể là dương, vật thể là âm. Hai phần này hộ trợ lẫn
nhau; trong thân người là hai khí tiên thiên, hậu thiên. Từ sự biến hóa của âm
dương, giao hòa của thần khí mà hình thành vạn hữu. Trong vạn hữu có năm hành (Mộc,
Kim, Hỏa, Thủy, Thổ). Từ năm hành mà có năm màu (xanh, trắng, đỏ, đen, vàng),
năm đức (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín), v.v…
Con người là vũ trụ nhỏ (tiểu thiên địa), nên thân người cũng gồm
đủ cả âm dương, tam bửu, ngũ hành. Con người thông thấu được cơ mầu nhiệm của trời
đất, bí quyết của âm dương thì có thể cùng trời đất trường tồn bất diệt, cùng
chư Phật Tiên Thánh Thần trường sanh bất tử.
Thần thể con người là một phần được chia ra từ thần thể Thượng Đế,
nên nó vốn đồng nhất cùng thể tánh Thượng Đế. Thần thể này khi sinh vào cõi nào
là phải lấy khí thể vật thể nơi đó mà tạo thành một xác thân. Thần thể là Tánh,
vật thể là Mạng. Tánh Mạng hiệp nhau mà thành bản vị con người. Khi con người
có bản vị thì con người phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về tư tưởng hành động
của mình.
Cảnh giới con người đang ở là dục giới. Con người mang lấy thể xác
của cảnh giới này là mang lấy sự mê luyến của dục giới.
Thần thể Trời phú là Tánh. Tánh hòa nhập cùng vật thể gọi là Tâm.
Tâm là trung điểm của con người. Tâm giao cảm cùng ngoại vật là Tình. Tâm Tình
luyến nhiễm, sáu căn mở rộng đón lấy sáu trần. Sáu căn, sáu trần gặp nhau mà
sanh sáu thức.([13]) Thức huân tập nhiều ngày thành nghiệp. Nghiệp là
hạt giống của kiếp lai sinh. Hạt giống là nhân, sự đau khổ của nghiệp gây ra là
quả. Nhân quả nối chuyền mà có luân hồi sanh tử,([14]) nên nói định mệnh là nói cái thành số bởi nghiệp
lực gây ra.
Vì vậy người tu cốt giữ tâm, không cho tâm mê mờ luyến nhiễm. Muốn
giữ tâm phải ngăn tình. Muốn ngăn tình phải đoạn thức. Muốn đoạn thức phải trừ
căn. Nên Thầy dạy:
Tu thì tu mắt, tai, mũi,
miệng
Con người gồm có nguyên nhân và hóa nhân. Từ bản thể Thượng Đế
chia ra là nguyên nhân. Từ đất đá, cây cỏ, cầm thú tiến hóa lên là hóa nhân.
Dầu nguyên nhân hay hóa nhân, con người đều có thể tiến lên làm Thần Thánh,
Tiên Phật nếu biết thuận lẽ Trời mà phát huy tự tánh. Mà con người cũng có thể
làm ma quỷ nếu quên đi tự tánh của mình mà làm điều tội lỗi. Luật tiến hóa là
phải đi lên, tức là phát huy phần dương thể thanh cao trong sạch thuần thiện
chất phác. Thối hóa là đi xuống, tức là triển khai phần âm ác trược nặng nề,
luyến mê đắm nhiễm.
Tâm là trung điểm; tuy nói căn, nói thức, nói tình, chứ cũng là
tâm. Tâm hướng về thanh tịnh vô vi là trở về cùng bản thể của tánh, là đi lên.
Tâm hướng theo ngoại cảnh thì tình thức dẫn dắt, là đi xuống. Vì vậy bậc hiền
nhân thánh triết thường có cái phong độ tự tại an nhiên.
Trên đường tiến hóa các đẳng sanh linh cần phải tự mình nỗ lực, vì
không tiến là lùi. Song ngoài phần lo cho mình tiến, con người cần phải giải
quyết những bổn phận tương quan tại thế (cha con, anh em, chồng vợ, bầu bạn,
dân tộc và nhân loại). Đó là đạo nghĩa, là nhân luân. Nếu phần này không tròn
thì không hoàn hảo hóa nhân phẩm con người, vướng nhiều khó khăn trên đường
tiến hóa. Nên hai phần phải điều hòa hộ trợ lẫn nhau, lấy sự tiến hóa làm cứu
cánh, lấy xử thế làm phương tiện, phải đắc trung mà chu toàn tất cả. Nói tiến
hóa là nói tới phát triển trình độ hiểu biết, tình cảm, ý chí và tâm linh. Sự
tiến hóa này nhờ trải qua nhiều đời nhiều kiếp, chịu ảnh hưởng linh khí của
trời đất, chịu ảnh hưởng tình cảm tư tưởng và lòng thương của con người mà phát
huy trình độ hiểu biết theo cơ năng và linh năng sẵn có.
II. THÁNH THỂ CAO ĐÀI
1. Lý tam thể và tam đài
Tôn giáo là một công cuộc giáo hóa có tổ chức, nhằm đưa con người
về với Đạo. Tổ chức giáo hóa của các tôn giáo khác nhau vì không cùng một thời
pháp. Song dù sai khác bao nhiêu cũng không thể đặt lệch hướng đi của mình là
đưa con người trở về với nguồn cội, đồng nhất cùng bản thể, nghĩa là phải dẫn
dắt con người tiến hóa đến chỗ trọn lành như Thượng Đế bằng bao công trình giáo
hóa, qua bao trình tự giác ngộ, giải thoát, hiện thân thánh thiện tại thế gian.
Tổ chức giáo hội Cao Đài trong một thời pháp đặc biệt với điều
kiện không gian, thời gian của đạo Cao Đài, theo tôn chỉ mục đích nhất định,
thích ứng với nhu cầu tiến hóa của con người, với thời gian hiện đại, được xem
là mới mẻ, toàn diện, kết tinh và tổng hợp khoa học, đạo học, văn hóa, chính
trị, kinh tế. Kết tinh cả xưa lẫn nay, không cũ mà cũ, không mới mà mới, trung
nhất, suốt thông được tất cả, biểu hiện đạo thể viên dung toàn thiện trong một
thời pháp đặc biệt. Sự cấu tạo tổ chức giáo hội Cao Đài theo quy luật cấu tạo
vũ trụ và con người, gồm có đủ thần thể, khí thể, vật thể, cũng là Thần, Khí, Tinh
hay Phật, Pháp, Tăng (tam bửu).
Thần thể là Thượng Đế, tâm linh vũ trụ.
Khí thể là sinh khí, sinh lực hay sự sống, là cơ sinh hóa và bảo
tồn vũ trụ.
Vật thể là vạn vật, vạn hữu chúng sanh.
Do đó pháp Đạo có ba Đài, quyền Đạo có ba Hội.
Ba Đài như sau:
a. Bát Quái Đài là thần
thể vô vi, nắm Thiên điều, giữ phần lập pháp, do Thượng Đế và chư Phật Tiên,
Thánh Thần cầm quyền siêu rỗi.
b. Hiệp Thiên Đài là khí
thể, trung gian giữa vô vi và hữu hình, giữ phần thông công, nối liền hữu vô
bằng đạo pháp, gìn giữ chơn truyền Đạo, đường hướng Giáo Hội và cơ tiến hóa
chúng sanh.
c. Cửu Trùng Đài là vật
thể, cơ hữu hình, giữ phần hành pháp, do Giáo Tông và các cấp chức sắc giữ phần
phổ độ, giáo hóa chúng sanh.
Bát Quái Đài có ba ngôi:
a. Thượng Đế là bản thể
tuyệt đối.
b. Tòa Tam Giáo nắm
quyền luật pháp Thiên điều.
c. Chư Phật Tiên, Thánh Thần là các đẳng thiêng
liêng điều hành cơ siêu rỗi.
Hiệp Thiên Đài có ba quyền:
a. Hộ Pháp giữ phần Pháp
(Thiên điều, luật pháp).
b. Thượng Phẩm giữ phần
Đạo (tịnh thất).
c. Thượng Sanh coi phần
Thế (thánh thất).
Cửu Trùng Đài có ba Hội:
a. Giáo Tông thay mặt
Thầy làm Anh Cả, cầm giềng mối Đạo, chủ tọa Thượng Hội.
b. Ba Đầu Sư thay mặt nhơn
sanh cầm đầu Hội Thánh.
c. Thượng Chánh Phối Sư
chủ tọa Hội Nhơn Sanh.
Hiệp Thiên Đài là bán hữu hình đài.
Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài còn gọi là nhị hữu hình đài, là
hai cơ quan hành pháp (giáo hóa) và bảo pháp (luật lệ).
Hành pháp, bảo pháp có sự tương quan chặt chẽ:
Từ trên bộ phận tối cao:
- Bảo pháp Hiệp Thiên Đài:
Dưới Hộ Pháp có Thượng Phẩm, Thượng Sanh, làm nhiệm vụ hành pháp trong bảo pháp, trông coi các tịnh thất, thánh thất, chủ
phòng cãi luật, nâng đỡ hàng chức sắc, làm trạng sư cho cả tín đồ, v.v... xem
xét việc thuyên chuyển, bổ nhiệm chức sắc trấn nhậm các thánh thất, tịnh thất,
buộc Tòa Thánh trị tội hoặc thuyên chuyển các chức sắc làm trở ngại đường tu
học của đạo hữu.
- Hành pháp Cửu Trùng Đài:
Dưới Giáo Tông có ba Chưởng Pháp, làm nhiệm vụ bảo pháp trong hành pháp, giữ phần lãnh đạo Thượng Hội, xem xét
luật lệ trước khi thi hành.
2. Quyền hành ba Hội
a. Thượng
Hội
- Giáo Tông: Thay mặt
Thầy (Phật).
- Chưởng Pháp: Thay mặt
luật pháp (Pháp).
- Đầu Sư: Thay mặt nhơn
sanh (Tăng).
Các chủ trương, luật lệ Giáo Tông truyền dạy cho Đầu Sư, hoặc Đầu
Sư dâng lên cho Giáo Tông, đều qua sự xem xét của ba Chưởng Pháp. Mỗi giấy tờ
chi chi cũng có ba Chưởng Pháp ký tên, đóng dấu mới đặng thi hành.([16])
b. Hội
Thánh
Ba Đầu Sư, ba mươi sáu Phối Sư, bảy mươi hai Giáo Sư, ba ngàn Giáo
Hữu.
Hội Thánh do ba Đầu Sư lãnh đạo, nhưng quyền hành sự giao cho ba
Chánh Phối Sư.
Ba Chánh Phối Sư lập Tòa Nội Chánh điều hành chức sắc ba phái và
ba cơ quan trong Hội Thánh.
Điều chế quyền hành lãnh đạo Thượng
Hội
Chưởng Pháp giữ phần bảo pháp trong hành pháp, điều
chế giữa Giáo Tông và Đầu Sư cho Trời người hợp nhất mà không trái
chơn truyền luật pháp.
Ba phái: Thượng, Thái, Ngọc.
Ba cơ quan: Phước Thiện, Hành Chánh, Phổ
Tế.
Ba Đầu Sư thay mặt nhơn sanh dự Thượng Hội, mà cũng thay mặt nhơn
sanh cầm đầu Hội Thánh, nên luật buộc chia quyền hành sự cho ba Chánh Phối Sư.
Ba Chánh Phối Sư tùng quyền Đầu Sư, cầm đầu Tòa Nội Chánh, hiệp
với ba mươi ba Phối Sư, bảy mươi hai Giáo Sư, ba ngàn Giáo Hữu, phân nhiệm
hướng dẫn, điều hành chức sắc ba phái và ba cơ quan.
Tòa Nội Chánh còn kết hợp với bộ phận bảo pháp Hiệp Thiên Đài là
cơ quan Minh Tra, gọi chung là bốn cơ
quan.
c. Hội
Nhơn Sanh
Đầu Sư giữ quyền lãnh đạo Hội Thánh, trao quyền hành sự cho ba
Chánh Phối Sư nên:
- Thái Chánh Phối Sư làm chủ Hội Thánh, lãnh đạo các chức sắc.
- Thượng Chánh Phối Sư chủ tọa Hội Nhơn Sanh.
- Ngọc Chánh Phối Sư chủ về luật pháp Giáo Hội.
Hội Nhơn Sanh gồm các hội viên là Lễ Sanh, Chánh và Phó Trị Sự,
Thông Sự cùng các phái viên là những người được nhơn sanh công cử.
Hội Nhơn Sanh nhóm từ cấp thánh thất, đúc kết ý kiến mang về nhóm
tại Hội Thánh.
Hội Thánh, Thượng Hội, Hội Nhơn Sanh liên hệ mật thiết, thường
xuyên trao đổi ý kiến, theo dõi mọi biến chuyển, thông cảm và phối hợp đồng bộ
mọi sinh hoạt chung của Giáo Hội. Hằng năm mỗi Hội họp đại hội một lần: Hội
Thánh họp rằm tháng Bảy; Thượng Hội họp rằm tháng Mười; Hội Nhơn Sanh họp rằm
tháng Giêng [theo Hội Thánh Truyền Giáo
Cao Đài].
Ngoài ba Hội trên còn có Hội Vạn Linh. Hội
Vạn Linh là ba Hội trên họp lại để giải quyết những vấn đề mà ba Hội trên không
giải quyết đặng.
3. Tương quan giữa hành pháp và bảo pháp
Hành pháp và bảo pháp chia đôi để tránh độc đoán, độc quyền và áp
chế, nhưng cần có sự tương quan chặt chẽ, ràng buộc chi phối lẫn nhau để thăng
bằng đạo pháp và kết quả tốt ở việc làm.
Trên hết, phần lãnh đạo tối cao, Giáo Tông và Hộ Pháp, tức là nhị
hữu hình đài, hành pháp, bảo pháp chia hai.
Dưới hết, phần thực hiện tại cơ sở nhơn sanh, Phó Trị Sự, Thông Sự
chia hai quyền riêng biệt.
Thông thường quyền lãnh đạo trên hết có thể độc tài, quyền hành sự
dưới hết có thể bị áp bức, nên trên hết và dưới hết, hai quyền hành pháp, bảo
pháp phân lập rõ ràng. Tuy phân lập nhưng không để đến nỗi chia lìa riêng rẽ,
chống nghịch nhau mà cần phải có chỗ điều nhiếp tương thành tương tựu cho nhau,
ấy là Đầu Sư và Chánh Trị Sự.([17])
Phần lãnh đạo Giáo Hội ở Thượng Hội, hai quyền Giáo Tông và Hộ
Pháp chia hai, thì Đầu Sư cầm đầu Hội Thánh lại phải thống nhất, để đủ sức điều
hành sự duy nhất của Giáo Hội, mặc dù Đầu Sư phải tùng quyền cả Giáo Tông và Hộ
Pháp, không được tự chuyên. Song trong lúc cơ Đạo chinh nghiêng, người có thể
lấy quyền thống nhất mà buộc Giáo Tông và Hộ Pháp giúp người lãnh đạo Hội Thánh
cho qua cơn sóng gió.
Đầu Sư trọn quyền lãnh đạo Hội Thánh, song luật buộc giao quyền
hành sự cho ba Chánh Phối Sư là ngừa chế khi đủ hai quyền có thể độc tài, độc
đoán.
Hành pháp, bảo pháp vừa phân lập
vừa duy nhất
Từ ba Chánh Phối Sư trở xuống, quyền giáo hóa và luật pháp lại
chia cho bốn cơ quan nắm giữ.
Chánh Trị Sự giữ quyền thống nhất, nhưng lại chia quyền hành chánh
và luật lệ cho Phó Trị Sự và Thông Sự trực tiếp làm việc với bổn đạo trong địa
phận nhỏ của Phó Trị Sự và Thông Sự.
Phó Trị Sự, Thông Sự tuy trọn quyền làm anh trong địa phận của
mình song nhất nhất phải tùng lệnh Chánh Trị Sự, mọi việc phải hội ý và có sự
nhất trí của Chánh Trị Sự, nếu tự chuyên là phạm Pháp Chánh Truyền.
Chia ra liền hiệp lại, hiệp lại liền chia ra, luôn giữ thế quân
bình, không cho đôi bên lấn áp hoặc chống nghịch nhau mà làm đẹp cho nhau – ấy
là chỗ tinh vi, mới mẻ của nền tân pháp.
Đức Chí Tôn dạy: “Ngày nào
các con còn trông thấy một điều bất bình ở đời thì Đạo chưa thành vậy.” ([18])
Vì lẽ ấy, Pháp Chánh Truyền đã giao quyền hành nơi Thông Sự:
“Mọi việc chi làm mất lẽ công bằng nơi địa phận của Phó Trị Sự cai
quản mà Hội Thánh không rõ thấu, thì Thông Sự phải chịu phần trách cứ.
Những điều chi sai luật Đạo, chẳng y theo lệnh Hội Thánh tư
truyền, hoặc sửa cải Tân Luật, hoặc cải lệnh hành chánh, nếu chẳng có phép của
Chánh Trị Sự truyền dạy mà Phó Trị Sự tự chuyên thi hành, Hội Thánh lại không
hay biết chi hết, thì tội tình ấy về phần Thông Sự.”.([19])
Xem kỹ về quyền hành tương quan giữa Chánh
và Phó Trị Sự, Thông Sự, chúng ta thấy Pháp Chánh Truyền rất lưu ý về cơ sở
nhân sinh, ở đây được xem là một hội thánh nhỏ, hình bóng của cơ chế quyền pháp
nền tân giáo, mà Phó Trị Sự có vinh dự được xem là Giáo Tông em, Thông Sự được
vinh dự được xem là Hộ Pháp em, Chánh Trị Sự được xem là Đầu Sư em, tưởng cũng
là điều mới mẻ đặc biệt.
4. Ba phái, bốn cơ quan
a. Ba phái
Ba phái trong Hội Thánh Cửu Trùng Đài là Thái, Thượng, Ngọc.
Thái, Thượng, Ngọc là Tam Thanh (gồm Thái Thanh, Thượng Thanh,
Ngọc Thanh).
Tại sao có Tam Giáo còn có Tam Thanh?
Tam Giáo chưởng về Thiên điều tức là luật.
Tam Thanh chưởng về bí pháp tức là pháp.
Luật là phần sửa trị, không cho phạm Thiên điều, ấy là phần trị
thế.
Pháp là phần tâm đắc, đưa bước nhơn sanh tiến hóa về các cõi trên,
ấy là cơ cứu thế.
Luật do Tam Giáo chưởng quản.
Pháp do Tam Thanh chưởng quản.
Luật giữ Thiên điều trật tự, để bình trị thế giới. Đó là cơ nhập thế, tức là công truyền.
Pháp nắm cơ siêu thoát. Đó là cơ xuất thế, tức là tâm truyền.
Người nhập môn nương về thánh thất giữ giới hạ thừa, tuân y Thế Luật
mà lập công tu phước.
Người luyện đạo nhập tịnh thất giữ giới thượng thừa, thọ truyền bí
pháp mà hành công tu luyện.
Hàng chức sắc Hội Thánh từ Giáo Hữu trở lên phải chọn bậc thượng
thừa. Hội Thánh là Thánh, chúng sanh là phàm. Lấy Thánh độ phàm, tức là dùng
bậc thượng thừa để dìu dắt bậc hạ thừa. Vì vậy mà người chức sắc Giáo Hội có cả
quyền lẫn pháp, vừa tịnh luyện vừa hành đạo, vừa là Tam Giáo vừa là Tam Thanh.
Ngọc là Tinh; Thượng là Khí; Thái là Thần.
Tinh, Khí, Thần là ba món báu để luyện đạo. Chức sắc Hội Thánh chia ba phái đều
nhau để thăng bằng đạo pháp, cũng là cơ đắc đạo.
Trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ, Thầy đến quy Tam Giáo
về một. Chơn truyền luật pháp của Tam Giáo bình đẳng trước Thầy.
Nho (phái Ngọc) trị thế là Phổ Tế.
Phật (phái Thái) tạo thế là Phước Thiện.
Tiên (phái Thượng) chuyển thế chủ quyền trung
trấn, nên phái Thượng là Hành Chánh. Phái Thượng lại lấy phần tu đơn luyện đạo,
tạo vóc kim thân, chuyển hóa thế gian thành huỳnh kim thế giới,([20]) hội Tiên Phật tại trần mà lập nguơn thánh đức, hình hiện cảnh niết bàn cực
lạc tại thế gian.
Vì vậy cơ chuyển thế không những sửa trị thế
gian, làm cho thế giới trở nên an bình thánh đức, mà còn làm cho chúng sanh
nương theo đạo pháp tiến thẳng về Thầy, nhờ bậc chơn tu đắc đạo tạo dựng thế
gian trở thành thiên đàng cực lạc.
Mục đích Đạo Thầy tuy chia hai là giải thoát
tâm linh và đại đồng thế giới, nhưng sau trước nương nhau, thành tựu cho nhau
cả phần thế gian và phần xuất thế gian.
b. Bốn cơ
quan
Tòa Nội Chánh là nơi điều hành phổ hóa chúng sanh bằng đường lối
chơn truyền đạo pháp.
Tòa Nội Chánh gồm có ba cơ quan Cửu Trùng Đài (Hành Chánh, Phổ Tế,
Phước Thiện) và một cơ quan Hiệp Thiên Đài (Minh Tra). Mỗi cơ quan có một trách
nhiệm riêng biệt, nhưng tương quan chặt chẽ trong một chương trình chung của Giáo
Hội.
Đạo Thầy có mục đích khai phóng con đường giải thoát tâm linh và
xây dựng đại đồng thế giới.
Giải thoát tâm linh là phát huy nội tâm làm rực rỡ cái văn minh
nội tại. Văn minh nội tại là sáng tỏ nội tâm, bừng soi tự tánh. Đó là đạo (tu
huệ).
Đại đồng thế giới là phát huy cái văn minh ngoại tại, xây dựng
cảnh thanh bình thánh đức tại thế gian. Văn minh ngoại tại là làm cho huy hoàng
thiện mỹ cuộc sống thế gian. Đó là đời (tu phước).
Xây dựng đạo không thể bỏ đời; xây dựng đời không thể lìa đạo. Đời
phải nương đạo để dựng cảnh thanh bình; đạo phải nương đời để tròn câu phổ hóa.
- Phước Thiện
Đạo hữu về phần đời có cơ quan Phước Thiện, về phần đạo có cơ quan
Phổ Tế, nên mỗi đạo hữu là một thiện dân,
mà cũng là một nhân viên giữ đạo, truyền đạo.
Phần đời (phần sinh sống thế gian) là kinh tế, văn hóa, xã hội,
v.v... Phước Thiện làm nhiệm vụ bảo sanh dưỡng thiện, tạo điều kiện tinh thần
và vật chất cho chúng sanh, giúp chúng sanh có điều kiện đạo đức thẳng đường
tiến hóa, trở bước về Thầy. Quyền pháp ở đây là khai thế, tạo thế.
Phước Thiện chỉ huy nền kinh tế chính nghĩa, nền văn hóa xã hội
thuần lương hướng thiện, lấy thiên hạ làm của công, chọn người hiền, cử người
giỏi, giảng dạy điều tín nghĩa, ăn ở theo đạo hòa mục. Người già cả là cha chung, trẻ nhỏ dại là con
chung. Bé thơ được nuôi dạy, khôn lớn được sử dụng. Con trai nên danh phận, con
gái có lứa đôi. Kẻ cô đơn tàn tật có nơi nuôi dưỡng. Nhà không đóng cửa, ngoài
đường không lượm của rơi. Ai nấy đều tranh nhau vui với điều lành, chăm trồng
ruộng phước.
Phước Thiện là đường lớn phải đi, việc lớn
phải làm, nói lên cái ý nghĩa kiếp sống con người có đạo nghĩa công bằng, có
hợp quần tổ chức. Lấy điều thiện làm vinh, lấy tình thương làm lẽ sống, lấy
thanh bình thánh đức làm hạnh phúc văn minh, biết thưởng thức cái đẹp tinh
thần, biết vui mùi đạo vị thanh cao thánh thiện.
Vì vậy Phước Thiện còn có tên gọi là cơ quan
đem đời về đạo, khai thế, tạo thế, xây dựng hội thanh bình, mở mang nguơn thánh
đức làm cho cõi thế gian trở nên cực lạc thiên đường.
Phước Thiện do phái Thái lãnh đạo, hộ trì,
lập cơ chế như những dòng tu, có đủ các bậc chức sắc, nhân viên từng ngành
chuyên môn điều hành hướng dẫn.
Phần tại gia là thiện dân, theo tổ chức tại gia.
Phần xuất gia có các nhà tu trung thừa, thượng thừa, các cơ sở văn
hóa xã hội, đào tạo tu sĩ và giáo sĩ, cung ứng từng khả năng chuyên môn cho các
cơ quan Hành Chánh, Phổ Tế, Phước Thiện, làm nấc thang tu tiến cho hàng đẳng
phước dân, sống đem thân phụng sự cho đời, chết được an ngôi Thiên vị, ngàn năm
anh linh hiển hách nơi Báo Từ Đường, thỏa mãn một kiếp sống cõi tạm nơi trần
thế, mà nên sự nghiệp lâu dài, lớn lao cho đời cho đạo.
Phước Thiện làm cho mọi sinh hoạt vật chất và văn hóa xã hội có
mục đích phát huy điều thiện. Ý thức làm điều thiện ngự trị trong mọi lĩnh vực
hoạt động của con người. Điều thiện trùm bao và đồng hóa tất cả. Nó nhen nhúm
trong tâm tư, phát triển trên hành động và cô đọng trong kết quả. Sự thoải mái
về tinh thần và vật chất ở đây là động cơ kích thích lòng vui say hâm mộ của
mọi người sống trong tập đoàn Phước Thiện. Niềm vui hòa nhập trong mỗi trái
tim, họ hát khúc thanh bình, ngâm câu thái hòa thạnh trị.
Về đường đời của Đạo, Phước Thiện đưa con người về nẻo thiện. Mọi
sinh hoạt vật chất biến thành sinh hoạt tinh thần. Điều thiện thâm nhập trong
tâm hồn, trong huyết quản của họ. Đời sống thế gian của họ kể cũng tốt đẹp lắm
rồi. Nhưng cuộc sống của con người tại thế gian dầu sung sướng đến đâu thì kiếp
đọa trần vẫn chưa mãn. Sự sung sướng thế gian đã từng chôn chặt con người trong
vinh hoa khoái lạc làm họ quên đi tự tánh của mình.
Vả lại Thầy đến thế gian lập Đạo không chỉ cốt ban cho con người
hạnh phúc thế gian để cho con người thụ hưởng. Nếu con người đắm say thụ hưởng,
đóng đinh mọc rễ nơi nầy thì biết bao giờ chúng sanh mới về lại quê xưa vị cũ? và
cơ cứu rỗi của Thầy phải ra sao?
Vì vậy luật pháp Thiên điều, cơ tiến hóa của vạn hữu chúng sanh
không cho phép con người dừng chân an nghỉ nơi cõi tục nầy, mà cần tiến thêm
một bước nữa, cần một sự dìu dắt nữa để họ có thể đồng nhất cùng bản thể, thông
công trực tiếp với Thầy.
Ai vén hé cho họ bức màn nầy, trao cho họ có chìa khóa nầy để họ
mở cửa tâm linh mà hội hiệp cùng Thầy?
- Phổ Tế
Phổ Tế là cơ quan phổ hóa chúng sanh, lo phần đạo của Đạo, nên còn
gọi là cơ quan đem Đạo vào đời, dìu bước đưa chân các đẳng sanh linh nương về
với Đạo hầu tiến hóa đến phẩm trọn lành.
Phổ Tế nói lên cái Đạo lớn của trời đất, cái quy luật thiên nhiên,
con đường tạo Tiên tác Phật, cơ bí nhiệm nhập Thánh siêu phàm, làm cho Giáo Hội
có khả năng và điều kiện thành công trên đường cứu rỗi.
Phổ Tế là phần Đạo, là tinh thần. Tinh thần
là lẽ sống thiêng liêng, đòi hỏi con người phải phát triển phần tâm linh mới
cảm ngộ được sự sống thiêng liêng của trời đất. Người làm công tác nầy phải có sở
đắc tâm linh phong phú, vững chắc. Cũng như người gieo giống chẳng thể vãi với
bàn tay trắng không có hột giống. Có sở đắc tâm linh mới đủ khả năng truyền thụ
cho người đón nhận tâm linh.
Truyền nhập sự sống tâm linh cho người là mở
cửa tâm hồn, để lòng người giác ngộ. Có giác ngộ mới hồi sinh. Có hồi sinh mới
thánh hóa con người của mình, làm sáng tỏ cái văn minh nội tại.
Người Phổ Tế, như lời dạy của Thiêng Liêng:
Truyền đạo bằng tư tưởng
Giao hảo bằng tinh thần
Kết liên bằng cảm giác
Xây dựng bằng điển lực
Giáo hóa
bằng tâm linh.
Làm nhiệm vụ tâm linh, săn sóc các linh hồn trên đường tiến hóa,
Phổ Tế là một khoa học tâm linh, vừa phân tích vừa tổng hợp, điều nhiếp các
phương môn, mở ra một trình tự tu tiến, khai phóng một lối về, tham khảo các
nền Đạo học Đông Tây, từ căn bản Tam Giáo, Tứ Giáo, vạn giáo đồng nguyên và
nhứt lý.
Thế nên đường hướng cứu độ chúng sanh có đủ Thiên Đạo giải thoát, Thế
Đạo đại đồng, vừa xuất thế vừa nhập thế, chấp Thiên Đạo hành Nhơn Đạo. Cũng do
đó, Pháp Chánh Truyền buộc từ phẩm
Giáo Hữu trở lên phải chọn trong bậc thượng thừa, tức là người đã trực nhập
phần tâm pháp bí truyền, song tu tánh mạng.
Cơ quan Phổ Tế là cơ quan phổ thông chơn đạo, tức là truyền dạy chơn
đạo cho người. Truyền dạy chơn đạo là truyền dạy cái công phu suất tánh (suất tánh chi vị Đạo: theo tánh gọi là
Đạo).
Nói tánh tất liên hệ đến mạng. Đơn thơ dạy: Tu tánh không tu mạng, đây là bệnh hàng đầu của người tu hành. Tu mạng
không tu tánh, muôn kiếp anh linh khó nhập vào cõi thánh.([21]) Đó là yếu quyết của người tu.
Nhưng điều quan hệ là cơ quan Phổ Tế đề phòng chứng bệnh lý
thuyết, tức là người nói mà không thực tu thực chứng. Một ngày nói cái lý
thuyết trống rỗng là một ngày bị đọa. Chính mình bị đọa mà còn truyền lây đến
người khác.
Trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ, Thầy dùng ân điển để cảm hóa lòng người
được sống lại bằng đức tin. Vì vậy truyền đạo cũng là truyền nhập đức tin. Có
đức tin mới dính liền với Thượng Đế. Có đức tin mới tác động tâm linh mà khai
triển con đường tánh mạng. Đức tin là công cụ nối liền với hồng ân cứu độ của
Thầy.
Như thế người làm Phổ Tế phải đủ điều kiện thực tu thực chứng,
sáng tỏ tâm linh, thị hiện nơi bản thân, trên lời nói, bằng sức mạnh đức tin từ
ân điển của Thầy. Ân điển của Thầy trùm bao tất cả, làm thành sự sống tràn ngập
lòng người với bao hạo khí lâng lâng. Lòng người tươi sáng, cuộc sống thế gian
này càng hé mở con đường thánh đức. Tất cả chúng sanh như những mầm non hằng
đón đợi ánh thái dương mà vươn lên giữa bầu trời xanh thẳm.
Người Phổ Tế cũng như Phước Thiện, Hành Chánh, luôn vừa tu, vừa
học, vừa làm. Khổng Minh dạy con: “Học
phải cần yên tĩnh, muốn có tài phải học, không học không biết rộng, không có
chí học không thành.” ([22])
Tịnh là đi vào công phu thực tu của người truyền đạo.
Học tập, tu dưỡng, hành đạo là luật tam thể của chức sắc, tín đồ
Cao Đài.
Phổ Tế về phần đạo, Phước Thiện về phần đời. Đời đạo như bóng với
hình. Hình bóng không rời nhau nên trong Phước Thiện có Phổ Tế, trong Phổ Tế có
Phước Thiện. Phổ Tế và Phước Thiện tương quan điều hòa, tương thành tương tựu
cho nhau, thi thiết một chương trình, một kế hoạch. Một phần lo lợi ích nhơn
sanh, một phần lo phát huy đường hướng kế hoạch, xây dựng cơ sở đào tạo chuyên
viên, chức sắc, chức việc.
Phổ Tế xây dựng và hướng dẫn các chủng viện, các nhà tu, các hạnh
đường, các trường học, các ngành chuyên môn khác vì nhu cầu Giáo Hội.
Phổ Tế cùng với Hành Chánh, Phước Thiện gần gũi, sát cận nhơn sanh
mà hướng dẫn đường tu, dắt dìu bước tiến, hòa mình cùng đạo hữu, no đói vui khổ
có nhau mà nâng đỡ đường đời bước đạo.
- Hành Chánh
Công cuộc cứu độ thế gian của Đạo là nhắm vào con người. Con người
có hai phần: đời sống tinh thần; đời sống vật chất.
Tinh thần đã có Phổ Tế, vật chất đã có Phước Thiện. Hành Chánh là
cơ quan trông về chủ trương và đường lối, nhiếp cả hai phần Phổ Tế và Phước Thiện,
giữ cho cân bằng tương ứng, nâng đỡ phần yếu, bồi đắp chỗ thua, giữ vững cho
cán cân đạo đời không nghiêng đổ.
Hành Chánh cần phải khai thông mọi bế tắc, cởi mở chỗ rối rắm, an
bài mọi trật tự, điều chỉnh mọi lệch lạc. Đâu đó giữ đúng phương hướng chương
trình; đâu đó đều suốt thông đều đặn. Đạo chẳng xa đời; đời không mất Đạo. Chú
trọng chỗ tinh thần, bảo tồn cơ vật chất, mọi nơi mọi chỗ. Đời được an vui; Đạo
được nhuần thắm. Gần ở một nhà; rộng ra bốn bể. Ngày một văn minh tiến bộ; ngày
một hoàn hảo thêm lên. Ấy là cơ tái tạo.
Hành Chánh không những điều hành bộ máy Giáo Hội bằng văn thư (như
hộ tịch, nghị định, thăng thưởng, cầu phong, thuyên chuyển, bổ nhiệm, v.v...)
mà quan trọng hơn là đưa Giáo Hội đi đúng tôn chỉ, đạt được mục đích của nền tân
pháp Chí Tôn. Đúng tôn chỉ, đạt mục đích không phải dễ mà phải ý thức đầy đủ về
thời pháp Cao Đài, phải có huệ tâm, thánh chất. Trên thông thấu lẽ Trời, dưới
cảm hóa lòng người. Thiên lý nhơn tâm khế đồng tương tựu. Hướng nhơn tâm tùng Thiên
lý; không để cho nhơn tâm mê lẫn, Thiên lý bị che mờ, khiến sự đau khổ của đời
vẫn tồn tại.
Vì vậy Hành Chánh phải nắm vững cơ động tịnh, tiến thoái tồn vong,
không lầm lẫn việc to, cũng không sơ sót việc nhỏ, phần đạo được thông, phần
đời đắc ứng. Mọi người mọi việc đều yên ngôi đúng chỗ, thư sướng hòa vui; đặt
nền móng vững chắc; xây dựng hội thanh bình, nguơn thánh đức.
Hành Chánh phải nắm vững các bước đi của Giáo Hội, khai đường mở
lối tuần tự tiến lên, vừa an bình vừa vững chắc. Rủi gặp việc trở ngăn, phải
liệu lượng cân đo chín chắn, nuôi chánh khí, giữ tâm thuần, lấy đạo hạnh thánh
ân làm thành đồng vách đá mà hóa giải bao khó khăn.
Hành Chánh sáng suốt mạnh lành là sự mạnh lành sáng suốt của Giáo
Hội. Người giữ trách nhiệm nầy cần phải chứng đạo, phải viên thông, phải có huệ
tâm thánh trí, làm sáng tỏ cơ cứu rỗi của Thầy, làm cho pháp môn độ đời có
nhiều hiệu lực thiêng liêng, ân điển trùm bao Giáo Hội, nguồn lành thấm đượm
lòng người, cõi dục giới phàm trần trở nên trang nghiêm tinh khiết.
- Minh Tra
Dù vậy, lẽ đời tương đối, việc thế vô thường, lòng người khi Phật
khi ma. Con người khi chưa đủ Phật tâm Thánh chất thì tệ nạn của đời cũng nên
đề phòng gìn giữ. Cơ quan Minh Tra bảo pháp luôn luôn có mặt cùng với ba cơ
quan Hành Chánh, Phổ Tế, Phước Thiện đồng lao cộng sự, chia sẻ những khó khăn,
hiệp sức chung tay, thực tâm vì Thầy vì Đạo, vì nhơn sanh, để lòng xem xét,
nhìn xa thấy trước những mầm suy trong chỗ thạnh, cái dở trong cái hay mà góp
bàn liệu lượng, nhiệt thành lo lắng, minh điều lợi, trừ cái hại, cố làm cho đây
đó cảm thông, trong ngoài nhất trí, giữ vững cơ tiến thối tồn vong, xứng đẹp ý
nhơn sanh mà cũng không đi ngoài luật pháp.
Cơ quan Minh Tra không phải là cơ quan buộc tội, hay cơ quan điều
tra phạm tội. Cơ quan Minh Tra tham đồng cố vấn cho các cơ quan một cách công
nhiên về quyền bảo pháp của Hiệp Thiên Đài.
Mọi việc làm của Giáo Hội từ trên xuống dưới, từ nhỏ đến lớn, cơ
quan Minh Tra cùng với các cơ quan chung thấy chung lo, chung lòng ưu tư liệu
lượng, giữ gìn chơn truyền đạo pháp, không để cho một cơ quan nào lệch sai
đường lối, không để cho một người nào nghiêng ngả lầm mê mà Minh Tra không tìm
phương giúp đỡ.
Trong hàng chức sắc hoặc nam nữ tín đồ nếu có chỗ chưa thông, có
điều uẩn khúc, hay bị oan ức thiệt thòi, bất công hiếp đáp, Minh Tra là chỗ để
tâm tình cởi mở nhằm cứu khổ giải oan, minh xét chỗ thiệt hư phải trái, uốn nắn
những sai lầm, dắt dìu người yếu ớt, làm cho đâu đó vui tình đẹp ý, hân hoan
phấn khởi tu hành.
Minh Tra làm nhiệm vụ cảnh giác, quan phòng, là diệu phù (bùa
linh) hộ mạng. Giáo Hội nhờ đây mà sáng lẽ công bằng; chơn truyền nhờ đây mà
muôn đời giữ vững. Ba cơ quan Cửu Trùng Đài nương cậy vào sự giúp đỡ ở đây như
thuyền chạy ngoài khơi nhìn vào ngọn hải đăng mà phòng nguy hiểm. Người đạo hữu
nương vào đây như người đi có gậy trợ sức đường trường qua truông vượt suối.
Với trách nhiệm thiêng liêng cao quý, Minh Tra phải được tin cậy
hoàn toàn, phải được toàn Đạo cộng tác chân thành và nâng đỡ trọn vẹn. Minh Tra
phải có con người thuần hòa thánh thiện, sáng suốt và chân thành làm theo bốn
điểm Thánh xưa nhắc nhở:
* Không dụng ý hữu tâm.
* Không nhứt thiết như sở kiến của mình.
* Không quyết cho kỳ được.
* Không vì mình.
Con người như vậy tránh được mọi tranh chấp thị phi, điều hòa được
tất cả, làm nên cho tất cả, luôn luôn hàm chứa được sự sống tình thương và lẽ
thật.
Ba chi của cơ quan Minh Tra luôn luôn phối hợp tham nghị cùng ba
cơ quan Cửu Trùng Đài:
* Chi Pháp coi về Hành Chánh.
* Chi Thế coi về Phước Thiện.
* Chi Đạo coi về Phổ Tế. Phương hướng, chương trình, kế hoạch mỗi
cấp đạo đều do bốn cơ quan hiệp nhau đồng tình thực thi chủ trương và đường
lối. Mỗi một phận sự khác nhau nhưng cùng một mục tiêu phải đến, cùng một kế
hoạch lâu dài vì nhu cầu ích đời lợi Đạo.
Vì vậy Thánh ý ví Phổ Tế, Phước Thiện là hai tay; Hành Chánh, Minh
Tra là hai chân. Mọi việc làm đều bởi hai tay, nên hai tay phải đồng đều cân
sức, phải hiệp nhau mới làm xong mọi việc. Nhưng đứng vững đi nhanh, lại qua
tiến thối là hai chân. Hai chân phải mạnh mới trụ vững thân hình. Hai chân có
tới có lui mới làm nên công việc.
Bốn cơ quan phải đồng đều, phải cân đối, phải sít sao chặt chẽ,
phải các tận sở năng ([23]) mà cung ứng cho đời một công trình xây dựng.
Bốn cơ quan Tòa Nội Chánh cũng như bốn dòng tu:
* Hành Chánh dòng triều.
* Minh Tra dòng luật.
* Phước Thiện tu phước.
* Phổ Tế tu huệ. Mỗi dòng đều có sự lãnh đạo của riêng mình nhưng
cũng vừa làm việc chung của Giáo Hội.
Phước Thiện là phần đời nên nhơn sanh làm chủ. Nhơn sanh tự lập vị
tranh công, lần bước lên mười hai phẩm cấp của mình. Chức sắc phái Thái lãnh
đạo hộ trì; chức sắc Phước Thiện quản lý điều hành; toàn thể thiện dân có trách
nhiệm lo cho cơ quan Phước Thiện.
Phổ Tế là phần đạo nên Hội Thánh chủ trì; chức sắc phái Ngọc đảm
đương trách nhiệm. Phổ Tế chia làm hai phần là giữ đạo và truyền đạo, có đủ hệ
thống tổ chức lãnh đạo riêng nhưng việc làm cùng chung một chương trình Giáo
Hội.
Hành Chánh thuộc phái Thượng. Đây là quyền pháp trị đạo, địa bàn
tổng hợp của các cơ quan, mệnh lệnh ban phát từ đây, trên có ba Chánh Phối Sư
tham đồng điều khiển.
Minh Tra thuộc hệ thống Hiệp Thiên Đài, làm việc với Cửu Trùng Đài
trong Tòa Nội Chánh. Mỗi cấp đạo đều có người của Minh Tra tham đồng hiệp nghị
với tư cách bảo pháp của Hiệp Thiên Đài. Các cuộc họp chung của bốn cơ quan
hoặc các cuộc họp riêng của mỗi cơ quan ở cấp nào có chức sắc Minh Tra ở cấp đó
tham dự.
Tương quan đồng bộ giữa hành pháp
và bảo pháp
trong cơ chế bốn cơ quan.
Toà Nội Chánh (Hội Thánh)
Các thánh thất, tịnh thất
Điều nào Minh Tra góp ý mà ba cơ quan Cửu Trùng Đài không nhất trí
được thì đôi bên cùng bàn bạc hỗ trợ rõ hơn; hoặc cũng có thể trình lên cấp
trên của đôi bên xem xét và tham hiệp ý kiến.
Cơ quan Minh Tra cũng như các cơ quan khác luôn luôn thể tất tương
nhượng lẫn nhau, hiểu lòng vì đạo của nhau mà giữ sự thỏa thuận chung. Không
một bên nào tự chuyên làm lệch cán cân quyền pháp, thường xuyên có sự hội ý
tham khảo ý kiến giữa nhau. Mọi việc bàn bạc đâu đó xong xuôi mới đưa vào hội
nghị. Bất cứ một việc gì xét thấy có trở ngại chung cho Giáo Hội, cho nhơn
sanh, buộc Minh Tra phải hết lòng góp ý, không được im ẩn hoặc vô trách nhiệm.
Mọi trở ngại trên đường đạo là sự bất lực của Minh Tra. Cơ quan nầy phải chịu
một phần trách nhiệm.
Trong trường hợp cơ quan Minh Tra thiếu người thì mỗi cấp ít nhất
cũng phải có một người trông coi nhiều việc.
Sự liên hệ giữa ba phái, bốn cơ quan trong nền chánh trị đạo là cơ
chế quyền pháp. Không vì bất cứ một lý do nào, nếu không bởi sự quyết định của Giáo
Hội (hai Đài, ba Phái, bốn Cơ Quan, ba Hội lập quyền) thì không một ai được sửa
cải.
5. Hàng giáo phẩm điều hành Giáo Hội
Ba món báu của tôn giáo là Phật, Pháp, Tăng, tức là tam bảo:
* Phật bảo là ngôi trọn
lành, đấng giáo chủ thi hành ơn cứu độ.
* Pháp bảo là pháp môn
tu tập, giới luật và tổ chức giáo hóa.
* Tăng bảo là hàng xuất
gia, thừa hành và bảo trì chánh pháp; trong Cao Đài Giáo, Tăng bảo là hàng giáo
phẩm, chức sắc Lưỡng Đài của Giáo Hội.
Tôn giáo là công cuộc giáo hóa nên tôn giáo có Giáo Hội và hàng
giáo phẩm để lãnh đạo và điều hành công cuộc giáo hóa đó.
Trừ hàng bảo pháp của Hiệp Thiên Đài, các cấp giáo phẩm Cửu Trùng
Đài đều mang chữ Giáo hoặc chữ Sư. (như Giáo Tông, Đầu Sư, Phối Sư, Giáo Sư, Giáo Hữu). Điều này nêu rõ
tinh thần giáo hóa của Giáo Hội.
Giáo hóa những gì? Giáo hóa việc tu hành cho toàn Đạo, tức là dạy
đạo.
Dạy đạo là dạy cái quy luật thiên nhiên của trời đất; dạy sự sống
tình thương và lẽ thật; dạy cho con người về với tự tánh chơn thường đồng nhất
cùng Đạo, cùng Thượng Đế.
Vì vậy hàng giáo phẩm được xem là người hành đạo, tức người chấp
hành và phát huy Đạo, đem Đạo hóa độ chúng sanh.
Thầy dạy rằng các đấng Phật Tiên, Thánh Thần là tay chân của Thầy
về vô hình; các Thiên ân chức sắc là tay chân của Thầy về hữu hình đem lời nói,
đem việc làm, đem sự tu học bản thân mà cảm hóa mọi người.
Nhưng đây cũng là điều khó khăn. Nếu nói mà không làm thì người
không tin. Làm mà không y lời nói thì người không phục. Nói và làm không nhất
quán thì làm sao cảm hóa được người?!
Vì vậy hàng giáo phẩm Cao Đài phải tu chứng về pháp môn, phải có
một trình độ sở đắc tâm linh để thông công cùng Thượng Đế và các đấng Phật
Tiên, Thánh Thần. Trong cơ vận hành máy Tạo, phổ hóa chúng sanh bằng lý Thiên
nhân hiệp nhất, nếu không hiệp một được với Thầy thì làm sao xứng đáng được gọi
là tay chân của Thầy về hữu hình? và quyền pháp bởi đâu mà có để cứu độ chúng
sanh?
Quyền pháp là ân điển của Thầy, là sự giác ngộ và tu chứng của người
chức sắc, là sự sống tình thương và lẽ thật.
Nơi nào có tình thương, nơi đó có quyền.
Nơi nào cảm hóa được lòng người, nơi đó có pháp.
Quyền pháp là chìa khóa mở cửa tâm linh cho vạn hữu chúng sanh về với
Thượng Đế.
Người chức sắc Giáo Hội phải biết khắc kỷ công phu, dày năm tu
luyện để khai thông huệ tánh, phát triển huệ tâm, làm ngọn đuốc đưa đường cho
chúng sanh mười phương nương theo chánh pháp mà giác ngộ. Khả năng làm cho nhơn
sanh giác ngộ là do sự giác ngộ của người chức sắc. Sự giác ngộ ấy chính là cái
công phu hàm tàng, tích tụ thần khí trong chỗ thực tu thực chứng, đồng nhất
được cùng Thầy mà có uy lực vạn năng thì mới đủ tư cách thế Thiên hành hóa.
Vì vậy Thầy buộc người chức sắc phải là người bồ tát: Đối với bản
thân thì luôn tu dưỡng, tinh tấn từng điều. Đối với nhơn sanh thì hết lòng lân
mẫn, ngày tháng chăm lo cứu độ.
Chức sắc ở xã đạo lại càng quan trọng hơn vì phải trực tiếp hướng
dẫn nhơn sanh, trực tiếp nêu gương đạo đức cho mọi người tu học nên cần phải đủ
tư cách cho nhơn sanh thương yêu quý mến. Vì vậy Thầy buộc từ Giáo Sư, Giáo
Hữu, Lễ Sanh, Chánh và Phó Trị Sự, Thông Sự phải tâm đức ngang nhau.
6. Quyền hành chức sắc Lưỡng Đài
Cửu Trùng Đài giữ quyền hành pháp, điều hành cơ phổ truyền chơn
đạo giáo hóa chúng sanh.
Hiệp Thiên Đài giữ phần thông công và bảo thủ chơn truyền. Bảo thủ
chơn truyền đạo pháp thì phải tương quan chặt chẽ với hành pháp. Nơi nào có Cửu
Trùng Đài thì nơi đó có Hiệp Thiên Đài. Hành pháp và bảo pháp như hình với
bóng.
Vì vậy mà Giáo Hội đặt cơ quan Minh Tra (thuộc Hiệp Thiên Đài) làm
việc chung với Cửu Trùng Đài ở Tòa Nội Chánh.
Luật pháp Giáo Hội còn chia hai quyền: lãnh đạo và hành sự.
Quyền lãnh đạo ở Thượng Hội thì quyền hành sự ở Hội Thánh. Đầu Sư
cầm đầu Hội Thánh (cơ quan hành sự) nhưng Đầu Sư ở vị trí lãnh đạo Thượng Hội
có đủ hai quyền chánh trị và luật lệ, nên luật buộc phải chia quyền hành sự cho
ba Chánh Phối Sư giữ ba cơ quan Tòa Nội Chánh.
Giữ phần hành sự thì Hành Chánh, Phổ Tế, Phước Thiện phải trực
tiếp chịu trách nhiệm điều hành cơ quan mình.
Chịu trách nhiệm điều hành nghĩa là phải trực tiếp xây dựng, hướng
dẫn cấp dưới giải quyết các việc theo hệ thống của cơ quan, nhưng luôn luôn
trình xin sự chấp thuận hoặc hướng dẫn của cấp trên tức là Đầu Sư hay chức sắc
ở nhiệm vụ Đầu Sư lãnh đạo Hội Thánh.
Chức sắc ở nhiệm vụ Đầu Sư lãnh đạo Hội Thánh phải quán xuyến cả
ba cơ quan, xem cơ quan hành sự mà hướng dẫn, nhưng không hề trực tiếp giải
quyết sự vụ của bất cứ cơ quan nào, địa phận nào hoặc sự vụ của chức sắc nào
thuộc quyền hành sự của ba cơ quan.
Chức sắc lãnh đạo ở vị trí Đầu Sư có thể buộc các cơ quan giải quyết
mọi sự vụ, theo sự hướng dẫn của mình, nhưng nếu trực tiếp giải quyết bất cứ sự
vụ nào dầu lớn hay nhỏ của bất cứ cơ quan nào thì đều vi phạm Pháp Chánh Truyền khiến cho chức sắc các
cơ quan khó bề hành sự.
Linh hồn của Giáo Hội là sự lãnh đạo của Lưỡng Đài ở Thượng Hội,
nhưng sự hoạt động của Giáo Hội phải hình thành tổ chức, tức là Hội Thánh. Thế
nên bất cứ hoạt động nào của Giáo Hội cũng nằm trong Hội Thánh. Nằm trong Hội Thánh
là nằm trong bốn cơ quan. Thuộc cơ quan nào thì cơ quan đó điều hành giải
quyết.
Vì vậy, nếu có hoạt động nào ngoài bốn cơ quan thì hoạt động đó
không nằm trong Hội Thánh.
Các Phối Sư chia đều cho ba cơ quan, phụ tá cho Chánh Phối Sư, giữ
các chức vụ tại các cơ quan, thường trực tại Hội Thánh.
Các Giáo Sư cũng chia đều cho ba cơ quan, được bổ nhiệm đi các địa
phận lớn, làm việc theo hệ thống cơ quan mình, tùng quyền Chánh Phối Sư và các
Phối Sư phụ tá. Giáo Sư chia địa phận cho Giáo Hữu, chịu trách nhiệm về mọi
việc đạo trong địa phận của mình.
Giáo Hữu cũng chia đều cho ba cơ quan, tùng quyền Giáo Sư mà hành
sự, chịu trách nhiệm mọi việc do Giáo Sư chia cho, hướng dẫn các Lễ Sanh, trông
coi các họ đạo, chia địa phận cho các Ban Trị Sự dìu dắt toàn Đạo trong địa
phận của mình.
Lễ Sanh được bổ nhiệm làm Đầu Họ thánh thất, hoặc các chức vụ khác
của cơ quan, tùng quyền Giáo Hữu mà hành sự, chịu trách nhiệm việc đạo do Giáo Hữu
chia cho.
Chức sắc tân phong, các ngành tân tuyển được tập sự tại các cơ
quan. Sau một thời gian, tùy theo khả năng mà họ được phân bổ chính thức.
Các cấp, các ngành liên lạc hằng ngày theo hệ thống trực thuộc;
mọi việc đều thỉnh thị ý kiến cấp trên. Mọi việc lớn nhỏ xảy ra bất cứ nơi nào thì
Hội Thánh cũng cần hay biết. Đồng thời các cơ quan ngành ngang phải thường
xuyên liên hệ chặt chẽ để được đồng bộ trong mọi chương trình chung giữa nhau.
Nhờ vậy các kinh nghiệm, sáng kiến nơi nầy nơi khác được bổ túc cho nhau.
Nữ Đầu Sư lãnh đạo Hội Thánh nữ phái, nữ Chánh Phối Sư hành sự,
các nữ Phối Sư phụ tá nữ Chánh Phối Sư y như phái nam, song chuyên về giáo hóa
phái nữ.
Cơ Quan Hành Chánh, Phổ Tế, Phước Thiện chung cho nam nữ. Phái nữ
tùy tài đức và khả năng tham gia phụng sự như phái nam.
7. Chức sắc với việc xây dựng thế gian
Đạo cứu đời là Đạo lành mạnh hóa đời bằng biện pháp tôn giáo. Lành
mạnh hóa đời là cốt làm cho đời có đạo, tức làm cho tâm hồn con người được giác
ngộ về sự sống tình thương và lẽ thật, ăn ở theo luật thiên nhiên, giữ tròn
phẩm vị con người.
Con người là yếu tố duy nhất trong việc xây dựng xã hội. Có con
người là có tất cả; mất con người là mất tất cả. Con người tốt thì tất cả đều
tốt; con người xấu thì tất cả đều xấu. Con người có thể làm nên; con người cũng
có thể làm hư. Kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội là những nhu cầu cần thiết
của thế gian; có con người là có tất cả những cái đó. Các nhà chuyên môn đều
làm được tất cả những cái đó nhưng họ không giúp được con người giác ngộ điều
thiện để bảo tồn sự phát triển thế gian tốt đẹp hơn.
Trái lại, vì thiếu giác ngộ, thiếu đạo đức, không có hướng đi lành
mạnh của tâm hồn, con người đã lợi dụng kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội
phục vụ cho cá nhân mình, bè phái mình, làm mất ý nghĩa chân thiện của nó.
Tôn giáo đến với con người không phải để làm kinh tế, văn hóa,
chính trị, xã hội, v.v... mà đến để xây dựng con người; để giải thoát con người
ra khỏi ràng buộc và cám dỗ về sắc tài danh lợi, mọi kiến hoặc ([24]) mê chấp vô minh; để nâng đỡ con người lên tới
một trình độ hoàn thiện. Được vậy, những gì con người dự đến đều tốt đẹp mà
không bị những gì đen tối của con người làm vẩn đục.
Khi con người đã giác ngộ, có đủ tư cách, có nhân phẩm hoàn hảo,
có đủ công tâm làm lợi lạc chúng sanh, thì nền văn minh nhơn loại tưởng cũng
tốt đẹp lắm.
Vì vậy người làm tôn giáo (hàng giáo phẩm của Giáo Hội) nên ý thức
sứ mệnh thiêng liêng của mình và quyền pháp cao trọng ở mình; đừng làm cái việc
không phải của mình mà quên đi cái việc chính của mình, phù hợp với khả năng của
mình và danh dự Giáo Hội.
8. Vị trí người phụ nữ trong nền tân pháp Cao Đài
Tôn giáo chú trọng về tâm linh, nhìn nhận bản thể Thượng Đế trong
con người. Dù nam hay nữ, tự tánh vẫn bình đẳng như nhau, cần được dìu dắt như
nhau. Vì vậy từ nghìn xưa, ngoài phần tu học tại gia, người phụ nữ vẫn được vào
hàng xuất gia của các tôn giáo; họ là những nữ tu, sa di ni, tỳ kheo ni, v.v…
Tuy vậy trên ý nghĩa đạo pháp, người phụ nữ vẫn chưa được dự vào
hàng giáo phẩm như linh mục, đại đức, v.v…
Trong buổi Tam Kỳ đại ân xá, với nền tân pháp Cao Đài, người phụ
nữ được đồng đều vị trí với phái nam về mặt sinh hoạt Giáo Hội. Tùy tài năng và
tâm đức mà người phụ nữ được giao phó các trách nhiệm như phái nam.
Đặc biệt là phái nữ còn được hình thành một Hội Thánh nữ, tự đảm
đương và chịu trách nhiệm hướng dẫn dạy dỗ hàng ngũ phái nữ của mình. Đã hình
thành Hội Thánh nữ thì tất nhiên hàng giáo phẩm trong Hội Thánh nữ cũng như Hội
Thánh nam, nghĩa là cũng có Đầu Sư lãnh đạo, các Chánh Phối Sư, Phối Sư, Giáo Sư,
Giáo Hữu điều hành, dạy dỗ phái nữ.
Tại cơ sở nhơn sanh cũng có các nữ Chánh và Phó Trị Sự, nữ Thông Sự,
quyền hành y như phái nam.
Theo Pháp Chánh Truyền,
Đầu Sư nữ được quyền lãnh đạo ở Thượng Hội; nữ Chánh Phối Sư điều hành Hội
Thánh nữ, trông nom hướng dẫn hàng chức sắc nữ và cộng đồng, chủ tọa Hội Nhơn
Sanh.
Nền tân pháp Cao Đài đã đưa người phụ nữ vào một tinh thần tự chủ,
tự quyền, tự lập, và người phụ nữ chiếm địa vị quan trọng trong hàng giáo phẩm
của Giáo Hội. Tưởng đây cũng là điều đặc biệt mới mẻ vậy.
ĐẠT ĐỨC
無名, 天地之始;
有名, 萬物之母. (Đạo Đức Kinh, chương 1)
([13]) Sáu
căn: Mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Sáu
trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu
thức: Cái biết của mắt do nhìn thấy, cái biết của tai do nghe thấy, cái
biết của mũi do ngửi thấy, cái biết của lưỡi do nếm thấy, cái biết của da thịt
do cọ xát (đụng chạm), cái biết của ý do tư tưởng (suy nghĩ).